Chương 2 Phát Hiện Xác Chết
Leeds là một thành phố nhỏ nhộn nhịp và quyến rũ nằm dài dưới chân một ngọn đồi hình nón. Thành phố nằm ở trung tâm một vùng nông thôn, bao xung quanh là những dải đất nhấp nhô và sương mù bảng lảng trên những ngọn núi xanh. Giá như không có pháo đài khó chịu nằm trên đỉnh đồi, thì nơi đây hẳn là một thiên đường. Có thể nói vậy, màu xám nặng nề phía trên là những bốt gác, các chồng máy móc xấu xí, vẻ đồ sộ đến ngột ngạt và đe dọa của nhà tù rộng lớn bao trùm lên vùng thôn quê và thành phố xinh xắn như một tấm vải liệm. Ngay cả những chân đồi xanh ngắt cây cối cũng không thể làm dịu đi cảnh u ám. Tôi tự hỏi rằng có bao nhiêu kẻ tuyệt vọng bị nghiền nát giữa những bức tường dày này, thiết tha nghĩ đến khu rừng mát mẻ ngay gần nhà tù, nhưng cũng xa vời như rừng Martian.
“Rồi con cũng quen thôi, Patty,” bố nói khi chúng tôi đi taxi từ ga tàu. “Hầu hết những kẻ trong đó đều rất tồi tệ. Đó không phải là trường học ngày Chủ nhật, nhóc ạ. Đừng phí công đồng cảm với chúng.”
Có lẽ cả đời phải đối phó với tội phạm đã khiến tâm hồn ông chai sạn. Nhưng đối với tôi, dường như là bất công khi giam hãm những con người này khỏi mặt đất xanh, khỏi bầu trời xanh kia. Tôi không thể hiểu nổi họ đã phạm phải tội ác nào đến nỗi phải hứng chịu hình phạt trái đạo đức như thế.
Chúng tôi cùng im lặng trên chuyến đi ngắn tới nhà Elihu Clay.
Dinh thự Clay - một ngôi nhà chống đỡ bằng cột lớn màu trắng theo truyền thống Thuộc địa phong phú nhất - nằm trên lưng chừng đồi ở vùng ngoại ô thành phố. Đích thân Elihu Clay đang đợi chúng tôi dưới mái cổng. Ông ta là vị chủ nhà duyên dáng và chu đáo, từ phong cách của ông ta hẳn sẽ không thể nghĩ rằng theo nghĩa nào đó chúng tôi làm việc cho ông ta. Ngay lập tức ông ta khiến chúng tôi cảm thấy thoải mái, sai quản gia dẫn chúng tôi đến những phòng ngủ dễ chịu, dành toàn bộ thời gian còn lại của buổi chiều chuyện phiếm về Leeds và về chính mình - cứ như thể chúng tôi là những người bạn cũ. Ông ta là người góa vợ; khi nói về người vợ quá cố, giọng ông ta đầy tiếc nuối xót xa, bảo rằng một trong những hối tiếc lớn nhất trong cuộc đời ông ta đó là không có con gái để chăm sóc, ủi an ông thay vợ. Dường như đối với tôi, đặt trong bối cảnh riêng tư và thích hợp này, Elihu Clay hoàn toàn khác xa hình ảnh một doanh nhân lỗ mãng đã nhờ vả chúng tôi tại New York. Tôi ngày càng ưa thích ông ta trong những tháng ngày bình lặng theo sau đó.
Bố tôi cùng Clay đã dành nhiều giờ gần gũi với nhau trong phòng làm việc. Suốt cả ngày họ ở bên nhau tại các mỏ đá cách Leeds vài dặm gần sông Chataharie. Ông đang do thám kẻ thù, từ bản tính hay cáu bẳn không thể chữa được của bố, trong mấy ngày đầu, tôi thấy rằng, ông đã dự đoán một cuộc chiến dài hơi, và có lẽ là không thành công.
“Chẳng có một mẩu bằng chứng tài liệu nào hết, Patty,” ông làu bàu với tôi. “Tay Fawcett này chắc phải là tên canh cổng của quỷ. Không ngạc nhiên khi Clay phải cầu xin giúp đỡ. Vụ này khó nhằn hơn bố nghĩ.”
Nhưng trong khi thông cảm với ông, gần như tôi chẳng thể làm được gì hỗ trợ cuộc điều tra. Bác sỹ Fawcett không có mặt. Thật tình cờ ông ta đã rời Leeds vào buổi sáng chúng tôi đến nơi - ngay từ khi chúng tôi đang trên đường - để tới điểm đến không rõ ở đâu. Tôi cho rằng chuyện này không bất thường; ông thường làm nên những điều kỳ diệu theo những cách bí ẩn, chuyện ông đến rồi đi luôn luôn mơ hồ và khó đoán trước. Giá như ông ở nhà, hẳn là tôi đã có thể có cơ hội phát huy sức quyến rũ trời phú. Tôi nghi ngờ bố tôi sẽ ủng hộ kế hoạch này, chắc chắn tôi chỉ mang lại cho ông một đống rắc rối.
Tình hình phức tạp dễ chịu hơn vì một yếu tố khác. Có một ngài Clay thứ hai - cậu Clay với phom người sáu múi, nụ cười mê hồn đủ sức đốn tim những cô nàng địa phương. Quý ông này tên là Jeremy, thật xứng với mái tóc quăn màu hạt dẻ và đôi môi cong chắc chắn đến quỷ cũng phải mê. Mang một cái tên như thế, lại ăn diện sành điệu trông anh như bước ra từ tiểu thuyết của Farnol. Quan trọng hơn là Jeremy vừa tốt nghiệp Đại học Dartmouth, nặng một trăm chín mươi pound, là tay chèo thuyền có mái chèo, thuộc tên họ nửa tá siêu sao bóng đá người Mỹ, chẳng ăn món gì ngoài rau và khiêu vũ nhẹ như mây. Theo như anh nghiêm túc bảo đảm với tôi trên bàn ăn buổi tối đầu tiên ở Leeds, anh sắp tạo ra một loại đá cẩm thạch của riêng nước Mỹ. vứt toẹt tấm bằng vào máy nghiền đá, anh lao động miệt mài tại các mỏ đá của bố tại Leeds, sát cánh cùng những thợ khoan người Ý đẫm mồ hôi, quẳng thuốc nổ tứ tung và bột đá phủ trắng xóa mái tóc. Anh hăng hái nói rằng mình chắc chắn có thể học được cách làm đá cẩm thạch có chất lượng cao hơn hẳn… Bố anh ném sang con trai cái nhìn tự hào xen lẫn hoài nghi.
Tôi nhận thấy Jeremy là một thanh niên hấp dẫn nhất. Dù sao đi nữa trong vài ngày, tham vọng làm đá cẩm thạch Mỹ tạm gạt sang một bên, vì bố tôi nhờ anh bớt chút thời gian làm bạn với tôi. Jeremy trẻ trung sở hữu một chuồng ngựa nhỏ nhưng tuyệt vời, vài buổi chiều anh cưỡi ngựa cùng tôi. Nền giáo dục tôi được hấp thụ ở trời Tây chẳng giúp được gì cho tôi trong một vấn đề. Chưa từng có ai dạy tôi nghệ thuật cưỡng lại những tuyệt chiêu làm tình của những anh chàng sinh viên đại học Mỹ.
“Anh đúng là tên hư đốn,” một hôm tôi gay gắt mắng, khi anh khéo léo dúi ngựa của chúng tôi xuống con mương nhỏ hẹp không lối thoát, rồi bạo gan siết chặt tay tôi mà không xin phép.
“Thế thì cùng hư đốn đi,” anh gợi ý, mồm cười toét, đổi thế ngồi một bên trên yên ngựa. Tôi vung roi ngựa lên đánh vào chóp mũi anh, vừa kịp ngăn chặn một sự cố nhỏ.
“Ái!” anh nói, nhảy lùi lại. “Thế có phải đẹp không? Pat, em đang thở hổn hển kia kìa.”
“Không có!”
“Có. Em thích thế.”
“Em không thích.”
“Được rồi,” anh nói nghe đáng lo ngại. “Anh có thể chờ được.” Khi quay về anh vẫn giữ trên môi nụ cười rạng rỡ.
Tuy nhiên, sau đó ngài Jeremy Clay chỉ cưỡi ngựa một mình. Nhưng anh vẫn cứ là anh chàng đẹp mã nguy hiểm. Thực ra tôi tức giận khi phát hiện ra có lẽ tôi thật lòng muốn sự cố ấy xảy ra với mình.
Trong làn sương mù của cảnh điền viên Arcadi, tai họa bất ngờ ập xuống.
Nó đã đến giống như mọi chuyện khác với yếu tố bất ngờ như cơn bão mùa hè. Chúng tôi không hề mong đợi nó. Tin tức lan đến tai chúng tôi khi kết thúc một ngày yên tĩnh, êm đềm. Jeremy giận dỗi nên tôi phải dành hai giờ đồng hồ sung sướng nghịch phá mái tóc anh đã chăm sóc tỉ mẩn đến vô lý, và chọc ghẹo anh.
Bố tôi đã tham gia chuyến khám phá cực kỳ kín đáo. Elihu Clay thì ở lỳ trong văn phòng mình cả ngày. Ông không xuất hiện trong bữa tối, bố tôi cũng thế.
Với mùi hương dễ chịu tỏa ra từ mái tóc, Jeremy gần như đối xử khách sáo với tôi. Lúc nào cũng “Cô Thumm” thế này, “Cô Thumm” thế kia, anh lạnh lùng để ý đến nhu cầu của tôi, khăng khăng đòi bổ sung thêm đệm, gọi thêm những món ăn đặc biệt từ trong bếp cho bữa tối của tôi, châm thuốc cho tôi và rót cocktail cho tôi - anh làm tất cả những việc đó với sắc mặt âu lo, xa cách của người đàn ông từng trải đã quen với những cử chỉ giao tiếp lịch thiệp, trong khi bộ não mỏi mệt chỉ toàn những ý nghĩ tự sát.
Sau khi trời tối, bố tôi xuất hiện gắt gỏng, mồ hôi vã ra như tắm và khó chịu; ông tự nhốt mình trong phòng ngủ, vào phòng tắm xối nước ào ào. Một tiếng sau, ông bước xuống lặng lẽ ra hút xì gà trên hàng hiên, nơi Jeremy đang chua chát gảy guitar còn tôi thì cất tiếng hát, với vẻ nhu mì, một ca khúc ngắn kinh khủng học được trong một quán cà phê tại Marseilles. Tôi cho rằng mình đã gặp may khi bố không hề biết tiếng Pháp, ngay cả Jeremy, dưới cái vẻ chua chát ấy trông anh cũng sốc. Nhưng có điều gì đó trong ánh trăng và bầu không khí cuốn hút tôi. Tôi nhớ, tôi đã mơ màng suy tính xem minh có thể đi xa đến đâu với Quý ngài Jeremy Clay, mà không làm mười ngón tay trinh nguyên của tôi bỏng rát…
Tôi vừa bắt đầu vào đoạn điệp khúc thứ ba - là đoạn cao trào nhất - thì Elihu Clay lái xe đến. Tôi nghĩ trông ông khá mệt mỏi, lẩm bẩm lời xin lỗi vì về trễ. Có vẻ như chuyện gì đó khiến ông buộc phải nán lại văn phòng. Ông còn chưa kịp ngồi xuống và nhận điếu xì gà chất lượng kém của bố tôi, thì điện thoại trong phòng ông reo vang.
“Mặc nó đi, Martha,” ông gọi bà quản gia. “Tôi sẽ nghe.” Ông xin lỗi rồi bước vào trong nhà.
Phòng làm việc của ông nằm phía trước nhà, các cửa sổ trong phòng nhìn thẳng ra hàng hiên đang mở toang, nên chúng tôi buộc phải nghe cuộc đối thoại của ông với ai đó có chất giọng the thé giục giã trên ống nghe.
Những lời nói đầu tiên của ông là: “Chúa lòng lành,” với một tông giọng hoảng hốt khiến bố tôi đứng bật dậy, bàn tay Jeremy bất động trên dây đàn. Tiếp theo: “Khủng khiếp, khủng khiếp… Tôi không thể hình dung được… Không, tôi chẳng hề biết ông ấy ở chỗ quái nào hết. Ông ấy bảo sẽ quay lại trong một vài ngày… Trời ơi, tôi không thể… tôi không thể tin được!”
Jeremy chạy vào trong nhà. “Chuyện gì thế bố?”
Ngài Clay giơ bàn tay run rẩy xua anh ra ngoài. “Cái gì cơ?… À, tất nhiên tôi sẽ làm theo lệnh của ngài… À, mà nhân tiện! Chuyện này là tuyệt mật, dĩ nhiên rồi, nhưng tôi đang tiếp đãi một người có khả năng giúp được ngài… Vâng, là thanh tra Thumm ở thành phố New York… Vâng, là ông ấy đấy… người đã về hưu vài năm trước và ngài đã từng nghe danh tiếng của ông ấy… Vâng, vâng! Tôi thực sự rất tiếc, ông bạn già.”
Ông ta gác máy, chậm rãi quay ra hàng hiên, lau mồ hôi trên trán.
“Bố! Có chuyện gì thế?”
Gương mặt Elihu Clay trắng bệch. “Thanh tra, thật may là ngài đã ở đây với tôi. Đã xảy ra một chuyện còn nghiêm trọng hơn nhiều vấn đề vặt vãnh của tôi. Đó là John Hume, công tố viên của chúng ta. Anh ta muốn biết bác sỹ Fawcett, đối tác của tôi đang ở đâu.” Ông ta buông mình xuống ghế, mỉm cười yếu ớt. “Thượng nghị sĩ Fawcett vừa được phát hiện bị đâm đến chết trong phòng làm việc tại nhà, phía bên kia thành phố!”
Có vẻ công tố viên John Hume quá háo hức muốn nhờ sự giúp đỡ của một người đã cống hiến cả cuộc đời điều tra án mạng. Ngài Clay thông báo yếu ớt rằng mọi thứ phải để nguyên chờ bố tôi điều tra. Viên công tố giục thanh tra đến hiện trường tội ác càng sớm càng tốt.
“Tôi sẽ đưa ngài đi,” Jeremy nói nhanh. ”Có nửa phút thôi,” nói rồi anh ta biến mất vào bóng tối đi lấy xe.
“Dĩ nhiên con sẽ đi cùng,” tôi nói. “Bố biết ngài Lane đã nói gì rồi đấy.”
“À, bố sẽ không trách Hume nếu cậu ta loại con ra,” ông làu bàu. “Án mạng không phải là chỗ dành cho con nít. Bố không biết…”
“Sắn sàng rồi!” Jeremy gọi to, chiếc xe tiến đến. Dường như anh ta ngạc nhiên khi thấy tôi nhảy vào ghế sau xe limounsine với bố tôi, nhưng không phản đối. Ngài Clay vẫy tay chào từ biệt chúng tôi. Ông ta nói chắc nịch mình không chịu được khi nhìn thấy máu.
Bóng tối nuốt chửng chúng tôi khi chiếc xe phóng trên đường, Jeremy đang phóng xe ầm ĩ xuống đồi. Tôi ngoảnh đầu lại nhìn đằng sau. Xa xa trên kia, xuyên qua những làn mây đen kịt là những ánh đèn nhà tù Algonquin sáng chói. Tôi không hiểu tại sao tôi lại nghĩ đến nhà tù vào lúc đó, khi đang thẳng tiến đến hiện trường vụ án mạng, chỉ có kẻ tự do mới phạm phải. Nhưng điều này khiến tôi phiền muộn, người run lên bèn rúc vào bờ vai rộng của bố. Jeremy không nói gì, đôi mắt anh ta còn mải nhìn đường.
Chúng tôi kết thúc hành trình trong thời gian ngắn đến ngạc nhiên, nhưng đối với tôi thì dường như vô tận. Tôi đang trải qua một cảm giác khó chịu với những sự kiện xảy ra trước mắt… Xe chúng tôi dường như cũng phải mất mấy tiếng đi qua hai cánh cổng sắt, dừng lại trước cửa một dinh thự trang trí hết sức công phu rực sáng ánh đèn.
• • •
Xe ô tô ở khắp nơi, nào quân nhân nào cảnh sát đang bò lổm ngổm trên mặt đất tối om. Cửa trước mở rộng. Tì người vào thanh rầm cửa là một người đàn ông lặng im, hai tay cho vào túi. Ai ai cũng im lặng như anh ta; không hề có tiếng nói chuyện, không có những âm thanh quen thuộc nào của con người. Âm thanh duy nhất là tiếng dế kêu vui vẻ tán chuyện về ngôi nhà lộng lẫy.
Từng chi tiết của đêm đó còn mãi như hồi ức. Đối với bố, đó là một câu chuyện cũ kỹ khó chịu. Nhưng đối với tôi, đó là niềm thích thú kinh hoàng - và tôi thừa nhận - là không lành mạnh. Người chết trông sẽ thế nào nhỉ? Tôi chưa bao giờ được thấy người chết. Tôi đã thấy mẹ mình chết nhưng lúc ấy trông bà thanh bình lắm, trên môi nở nụ cười thật là hiền. Người chết này sẽ là một con quỷ, tôi chắc chắn như thế. Tôi chắc chắn gương mặt ông ta đang nhăn nhó vì khiếp đảm. Rồi sẽ là những cơn ác mộng với máu…
Tôi thấy mình đang đứng trong một phòng làm việc lớn, sáng lòa với đủ loại đèn đóm chật kín người. Tôi có ấn tượng mơ hồ với những người cầm máy ảnh; những người cầm bàn chải lông lạc đà nhỏ xíu, những người mò mẫm giữa các cuốn sách và những người chẳng làm gì cả. Nhưng ấn tượng thực tế là về một nhân vật cô độc. Trong số tất cả những người có mặt ở đây, ông ta là người điềm tĩnh nhất và ít liên quan nhất. Ông ta là người khỏe mạnh, với vẻ phục phịch xấu xí; trên người mặc áo sơ mi, hai tay áo xắn lên quá khuỷu tay lộ ra hai cánh tay lông lá rất khỏe. Chân ông ta đi đôi dép rơm cũ kỹ và rộng rãi. Trên gương mặt to, thô kệch là biểu hiện bực mình nhưng không hề khó ưa.
Giọng ai đó nặng nề lẩm bẩm. “Xem ông ta đi nào, thanh tra.”
Qua lớp sương mù đang nhảy múa trước mắt mình, tôi cứ nhìn mãi, và nghĩ rằng thật khiếm nhã khi một người chết, một người bị giết ngồi đó lặng lẽ và không còn biết gì trong khi cả thế giới xoay quanh căn phòng của ông, xâm phạm sự riêng tư của ông, chiếm đoạt những cuốn sách của ông, chụp ảnh bàn làm việc của ông, bôi bẩn đồ nội thất bằng thứ bột nhôm, lục soát bừa bãi giấy tờ của ông… Đây là thượng nghị sĩ Joel Fawcett, ngài thượng nghị sĩ Fawcett quá cố.
Lớp sương mù tan dần, đôi mắt tôi tập trung nhìn vạt trước áo sơ mi trắng. Thượng nghị sĩ Fawcett ngồi sau một chiếc bàn trầy xước, tấm thân to béo ép vào mép bàn, đầu hơi nghiêng sang một bên như muốn dò hỏi. Ngay phía trên mép bàn đó, ở giữa và về bên phải các nút áo sơ mi lóng lánh như ngọc trai của ông, có một vết bẩn lan rộng ra từ trái tim, nơi một con dao rọc giấy mảnh mai đang cắm vào. Là máu, tôi buồn bã nghĩ, trông nó giống như thứ mực đỏ đã đông cứng… Và rồi một người đàn ông nhỏ bé nhặng xị, mà sau này tôi biết là bác sỹ Bull, người khám nghiệm pháp y của hạt Tilden lọt vào tầm nhìn của tôi và che khuất xác chết. Tôi thở dài và lắc đầu xua đi cơn chóng mặt chợt đến. Tôi cảm thấy bố xiết chặt khuỷu tay mình nên vững tâm hơn, cố gắng bình tĩnh lại.
Có vài người đang nói lao xao. Tôi ngước lên nhìn vào mắt một thanh niên rất trẻ. Bố tôi đang nói oang oang câu gì đó - tôi nghe được cái tên “Hume”, và nhận ra ông đang trình bày với công tố viên của hạt, một quý ông - Lạy Chúa! Tôi nghĩ - đã từng là đối thủ chính trị của người chết trong chiến dịch đang diễn ra… John Hume có dáng người cao, gần như là cao bằng Jeremy - tôi tự hỏi Jeremy đâu rồi nhỉ? - và anh ta có đôi mắt đen rất đẹp và thông minh. Suy nghĩ nhỏ bé tội lỗi đang cố gắng len lỏi vào trong lương tâm tôi, cuộn xoắn lại rồi chết trong xấu hổ. Không phải người này. Với dáng vẻ gầy còm, thèm khát của anh ta. Thèm khát… cái gì nhỉ? Quyền lực? Hay sự thật?
“Chào cô Thumm,” anh ta quả quyết nói bằng giọng được rèn luyện kỹ lưỡng. “Thanh tra đã bảo tôi rằng bản thân cô cũng là một thám tử. Cô chắc chắn mình muốn ở lại chứ?”
“Hoàn toàn chắc chắn,” Tôi nói bằng chất giọng vô tư nhất có thể. Nhưng đôi môi tôi khô khốc, các từ ngữ bật ra vụn vỡ. Đôi mắt anh ta vẫn nhiệt tình.
“Ôi, rất tốt,” Anh ta nhún vai. “Ngài có muốn xem xét thi thể không, thanh tra?”
“Người nắn xương của cậu sẽ cho cậu biết nhiều hơn tôi. Khám xét quần áo chưa?”
“Trên thi thể chẳng có gì đáng quan tâm đâu.”
“Không phải ông ta đang đợi một người phụ nữ,” bố tôi lẩm bẩm. “Với cái gã này thì không. Với đôi môi và những móng tay yếu đuối thế kia, ông ta sẽ chẳng quyến rũ được ai cả… Ông ta kết hôn chưa, Hume?”
“Chưa.”
“Có bạn gái không?”
“Không kể hết được, thanh tra, ngài sẽ đến gần sự thật hơn đấy. Một diễn viên tồi tệ, và tôi không nghi ngờ có nhiều phụ nữ hẳn sẽ thích đâm dao vào ngực ông ta.”
“Có đặc biệt nghĩ đến ai không?”
Bốn mắt họ gặp nhau. “Không,” John Hume đáp rồi quay đi. Anh ta đột ngột ra hiệu, một người đàn ông tai cụp, to béo và lùn tịt khom lưng bước qua phòng về phía chúng tôi. Công tố viên giới thiệu lão ta là sếp Kenyon của phòng cảnh sát hạt. Người này có đôi mắt sền sệt của loài cá; tôi lập tức thấy không ưa lão ta. Và tôi tưởng tượng mình trông thấy cái liếc mắt ác ý của lão về phía bố tôi.
Người đàn ông bé nhỏ nhặng xị, bác sỹ Bull, viết nguệch ngoạc bằng chiếc bút máy to đùng xuống một mảnh giấy chính thức, duỗi thẳng tờ giấy rồi bỏ tọt bút vào túi.
“Thế nào bác sỹ?” Kenyon hỏi. “Phán quyết là gì?”
“Giết người,” bác sỹ Bull đáp nhanh. “Tôi không thắc mắc gì nữa. Mọi thứ đều diễn ra theo cách đó hơn là tự sát. Gạt sang bên tất cả những cân nhắc khác, đơn giản các vết thương dẫn đến cái chết không thể do tự gây ra.”
“Thế thì có hơn một nhát đâm à?” bố tôi hỏi.
“Đúng, Fawcett bị đâm hai nhát vào ngực. Cả hai vết thương đều chảy máu rất nhiều, như ngài thấy, vết thương đầu tiên dù nghiêm trọng nhưng chưa làm ông ta chết ngay. Thế nên để chắc chắn hung thủ đã đâm tiếp nhát nữa.”
Ông ta búng ngón tay về phía con dao rọc giấy cắm sâu vào trái tim người chết. Rút con dao ra khỏi thi thể nạn nhân, ông ta đặt nó xuống bàn. Trông con dao u ám với sắc đỏ ối còn đọng lại trên lưỡi dao. Một viên thám tử thận trọng cầm nó lên bắt đầu phủi bụi bằng một loại bột màu xám nhạt.
“Ông chắc chắn rằng đây không thể nào là tự sát?” Hume ngắt lời.
“Chắc như bắp. Các góc và hướng của cả hai vết thương ủng hộ mạnh mẽ kết luận đó. Cho dù còn một thứ khác cậu sẽ muốn xem. Cực kỳ thú vị.”
Bác sỹ Bull rảo bước vòng quanh bàn đến đứng cạnh thân người bất động, giống như một giảng viên đứng trước một tác phẩm nghệ thuật. Hoàn toàn bâng quơ ông nâng lên cánh tay phải của người chết vốn đang cứng dần trong hiện tượng co cứng tử thi. Nước da xanh xao vàng vọt, những sợi lông dài trên cẳng tay trông gớm ghiếc vì rậm rì bóng nhẫy. Rồi tôi quên béng mất đây là một xác chết….
Trên cẳng tay có hai vết khác thường. Một là vết thương mỏng sắc lẹm ngay phía trên cổ tay, máu đã rỉ ra từ đây. Vết còn lại xa hơn trên cánh tay bốn phân; một vết thương hở mờ nhạt đáng ngờ khiến tôi băn khoăn.
“Bây giờ,” bác sỹ khám nghiệm pháp y vui vẻ nói, “vết cắt dài này nằm ngay trên cổ tay. Hẳn nhiên là được tạo ra bằng con dao rọc giấy kia. Hoặc ít nhất,” ông nhanh chóng nói thêm, “là bằng một thứ sắc nhọn như con dao rọc giấy.”
“Còn vết kia?” bố tôi hỏi gặng, nhíu mày.
“Phán đoán của ngài cũng tốt như của tôi. Tôi sẽ chỉ nói chắc chắn được một điều, rằng vết thương hở này không phải do hung khí tạo ra.”
Tôi liếm môi, một ý tưởng đang thì thầm. “Ông có cách nào xác định thời gian cả hai vết thương được tạo ra trên cánh tay không, bác sỹ?”
Tất cả mọi người liếc xéo tôi. Hume cân nhắc lời nhận xét, bố tôi ngày càng trở nên trầm tư. Ông bác sỹ khám nghiệm mỉm cười. “Đó là câu hỏi hay thưa quý cô. Phải, tôi xác định được. Cả hai vết thương này mới được tạo ra rất gần đây - trong khoảng thời gian án mạng nói chung - và tôi nên nói là vào thời gian ước chừng tương tự.”
Viên thám tử đang khám nghiệm hung khí đẫm máu đứng thẳng dậy với nét mặt khó chịu. ”Không có vân tay trên con dao,” ông ta tuyên bố. ”Gay go đây.”
“Chà,” bác sỹ Bull vui vẻ nói, “việc của tôi đến đây là xong rồi. Dĩ nhiên, các ngài sẽ muốn giải phẫu pháp y. Mặc dù tôi chắc chắn sẽ chẳng tìm được gì gây nghi ngờ thông tin riêng tôi đã nói với các ngài. Ai trong số các ngài đi gọi mấy người bên Phúc lợi Xã hội vào đây mang xác này đi.”
Ông ta đóng nắp túi đồ nghề cứu thương. Hai người mặc đồng phục bước đi. Một trong hai người đang nhồm nhoàm món gì đó, người kia thì sụt sịt - mũi anh ta ẩm ướt và đỏ tấy. Những chi tiết này luôn luôn chiếm vị trí nổi bật trong tâm trí tôi, không thể quên đi tính tàn nhẫn của những sự việc đang diễn ra. Tôi khẽ quay mặt đi…
Hai người kia bước tới gần bàn làm việc, đặt một dụng cụ hình dáng như cái rổ lớn có bốn tay cầm xuống sàn, nắm chặt hai bên nách người chết xốc ông ta lên khỏi ghế với những tiếng gầm gừ, đặt thi thể vào thùng rồi đậy nắp liễu gai, người đàn ông đang nhai kẹo và người kia vẫn đang xỉ mũi cùng cúi xuống mang cái thùng nặng nề đi khỏi.
Tôi thấy thoải mái hơn, thở phào nhẹ nhõm dù chỉ trong vài phút rồi thu hết can đảm tiến đến gần cái bàn và chiếc ghế trống. Lúc này với một chút ngạc nhiên tôi nhận thấy bóng lêu nghêu của Jeremy Clay trong sảnh, đang cùng một cảnh sát viên tựa người vào rầm cửa. Anh đang chăm chú nhìn tôi.
“Mà nhân tiện,” bố tôi làu bàu khi viên bác sỹ pháp y cầm túi lên quay ra cửa, “thằng cha này bị giết khi nào?” Có ánh nhìn khó chịu trong đôi mắt ông, tôi đồ rằng có điều gì đó cẩu thả trong việc tiến hành điều tra án mạng này. Bản tính cẩn thận, được đào tạo ở thành phố của ông tức giận với sự thờ ơ tuyệt đối của Kenyon, người đang lười nhác dạo quanh phòng làm việc và bác sỹ Bull, người đang huýt sáo một giai điệu có phần vui tươi.
“Ôi! Đúng rồi, tôi quên mất. Tôi có thể xác định chính xác thời gian chết của tạo vật xinh đẹp đó,” bác sỹ Bull nói. “Mười giờ hai mươi phút tối nay, tôi nói vậy đấy. Mười giờ hai mươi phút. Đúng. Không hơn không kém một phút. Mười giờ hai mươi…” Ông ta chép miệng, đầu lắc nhẹ rồi biến mất sau cánh cửa.
Bố càu nhàu rồi xem đồng hồ đeo tay. Năm phút nữa đến nửa đêm. “Ông ta đúng là kẻ hợm hĩnh,” ông lẩm bẩm.
John Hume sốt ruột lắc đầu, bước ra cửa. “Gọi anh chàng Carmichael vào đây.”
“Carmichael là ai?”
“Thư ký của thượng nghị sĩ Fawcett. Kenyon cho rằng anh ta có nhiều lời khai giá trị cho chúng ta. Mà một lúc nữa chúng ta sẽ biết.”
“Tìm được dấu vết nào không, Kenyon?” bố làu bàu, ném ánh mắt trầm ngâm oai vệ sang cảnh sát trưởng.
Kenyon giật mình. Lão ta đang xỉa răng bằng một cái tăm ngà, đôi mắt lơ đãng. Rút tăm ra khỏi mồm, lão ta cau có hỏi một trong số các cảnh sát viên. “Tìm được dấu vết nào không?”
Anh ta lắc đầu. “Không có dấu vết rào của kẻ xâm nhập. Rất nhiều dấu vết của ngài thượng nghị sĩ và của Carmichael. Dù là kẻ nào làm chuyện này, cũng phải là kẻ ham đọc truyện trinh thám. Hắn có mang găng tay.”
“Hắn có mang găng tay,” Kenyon nói, rồi lại nhét tăm vào mồm.
John Hume đứng bên cửa ngắt lời: “Ông bảo anh ta nhanh lên được không?” bố tôi nhún vai, châm điếu xì gà. Tôi có thể thấy ông đang khó chịu với tất cả chuyện này.
Tôi cảm thấy cái huých nhẹ lên hai hông bèn quay phắt lại. Ra là Jeremy Clay đang mỉm cười, mang theo một cái ghế.
“Ngồi đi, nàng Sherlock,” anh nói. “Nếu em cứ khăng khăng đòi đứng đây, em cũng đừng nên bắt cặp giò bé bỏng, xinh đẹp của em cũng phải nghĩ chứ.”
“Thôi đi!” Tôi giận dữ, nói bằng giọng nửa thì thầm. Nơi đây không có chỗ cho sự khinh suất. Anh toét miệng cười, ép tôi ngồi xuống ghế. Chẳng ai thèm chú ý đến chúng tôi. Nên tôi cho phép mình ngồi xuống, hơi có cảm giác mình vô dụng… thế rồi tôi chợt liếc thấy khuôn mặt bố tôi.
Điếu xì gà cách miệng hai phân, ông đang nhìn trừng trừng ra ngưỡng cửa.