Chương 6 Gặp Gỡ Aaron Dow
Đến lúc này tôi đã nhận thức được một cái bóng mơ hồ đâu đó trên đầu chúng tôi, xa xôi như một giấc mơ. Những thông tin quay cuồng trong đầu tôi, và âm thanh của chúng làm mờ đi tầm nhìn của tôi trước thảm kịch sắp xảy ra. Nhưng lúc này, bất ngờ như cú đâm dao từ phía sau lưng, đôi mắt tôi trở nên trong trẻo và tôi lại trông thấy tất cả. Aaron Dow… Bản thân cái tên ấy chẳng có ý nghĩa gì với tôi; cũng có thể giống với John Smith hoặc Knut Sorensen. Tôi chưa từng nghe thấy cái tên này cũng như chưa từng gặp anh ta. Có điều - cứ gọi là ngoại cảm hay giác quan thứ sáu, hay một suy luận bằng tiềm thức từ dữ liệu được biết có một nửa - tôi biết chắc như thể tôi sở hữu được siêu năng lực thánh thần, rằng con người này, kẻ cựu tù này, có lẽ là nạn nhân đồi bại của xã hội, xứng đáng trở thành nạn nhân còn khủng khiếp hơn nhiều của bóng đen khổng lồ, chân thực và sống động giờ đang phủ xuống tất cả chúng tôi.
Tôi hồi tưởng lại một chút những sự kiện nhỏ. Não bộ của tôi phát ốm với những suy nghĩ được hình dung không hoàn chỉnh, trái tim tôi đang đập thình thịch đau đớn trong lồng ngực. Tôi cảm thấy mình vô dụng, và cho dù có bố ở bên cạnh, một sức mạnh an ủi vững chắc, tôi vẫn thấy mình đang mơ hồ cầu nguyện cho quý ông già vĩ đại mà chúng tôi đã bỏ rơi, nuối tiếc nhìn theo chúng tôi từ lâu đài Hamlet.
Tôi biết rằng công tố viên Hume và Rufus Cotton lại thì thầm với nhau; rằng Kenyon đã bất ngờ sống lại, nhanh chóng ban ra những mệnh lệnh bằng chất giọng gắt gỏng như thể đang giáp lá cà với một kẻ độc ác. Tôi nhớ lại những thông điệp không ngừng đưa ra trên điện thoại, những mệnh lệnh quát tháo. Tôi run rẩy nhận ra rằng những con chó săn, nói theo cách văn hoa - và có lẽ là theo nghĩa đen, trong chừng mực mà tôi biết! - đã lên đường theo dấu vết tên Aaron Dow vô hình vô dạng này, kẻ đã được phóng thích khỏi nhà tù Algonquin để rồi lại bị truy lùng gắt gao vài giờ sau đó…
Tôi nhớ lại cánh tay mạnh mẽ của Jeremy Clay đỡ tôi vào chiếc xe đậu bên ngoài, niềm vui sướng khi tôi hít hà bầu không khí ban đêm rét buốt. Công tố viên ngồi bên cạnh Jeremy, bố con tôi ngồi ghế sau. Chiếc xe lao đi, đầu tôi quay mòng mòng, bố chỉ thinh lặng trong khi Hume hân hoan thưởng ngoạn con đường tối om phía trước, Jeremy với đôi môi mím chặt ngồi trước vô lăng. Chuyến đi lên ngọn đồi dốc là một giấc mơ, mọi thứ có liên quan đến cuộc hành trình chóng tan như phù du và sương mù. Và rồi vồ ngay lấy chúng tôi khi ra khỏi bóng tối của khung cảnh, như một con ác quỷ ăn thịt trong cơn ác mộng… Nhà tù Algonquin.
Tôi chưa bao giờ tin rằng những vật vô tri vô giác như đá và thép lại có thể tỏa ra sắc thái xấu xa sống động đến thế. Hồi còn bé tôi đã rùng mình với những chuyện sởn gai ốc về các tòa lâu đài ma quái đen tối, những lâu đài bị bỏ hoang và những thánh đường bị ma ám. Nhưng trong suốt những năm tháng du ngoạn đến thăm các phế tích tại châu Âu, tôi chưa từng chạm trán một kết cấu nhân tạo đơn thuần nào có sức mạnh gợi lên nỗi kinh hoàng… Và bây giờ, khi Jeremy bóp còi xe lanh lảnh trước hai cánh cổng thép to lớn, tôi thình lình biết rằng cảm thấy sợ một tòa nhà nghĩa là thế nào. Hầu hết nhà tù chìm trong bóng tối sâu thẳm, ánh trăng đã biến mất từ lâu, và gió đang thét. Không có âm thanh nào của con người từ phía sau những bức tường cao vút kia; ở đây, liền kề ngay với nhà tù cũng chẳng thấy ánh đèn nào cả. Tôi cúi người xuống cảm thấy bàn tay của bố tôi, ông nhanh chóng nắm chặt tay tôi - người bố đáng yêu già cả không tưởng tượng nổi! - và thì thầm: “Chuyện gì vậy, Patty?” Chính câu càu nhàu chân thành của ông đã đưa tôi quay lại với thực tế; những con quỷ đã biến mất, tôi cố gắng xua đi tâm trạng u ám.
Cánh cổng bất ngờ bật mở, Jeremy lái xe lên phía trước. Trong ánh đèn pha sáng chói có vài người đàn ông đứng đó, những kẻ ghê gớm mặc đồng phục tối màu và đội mũ lưỡi trai, vai khoác súng trường.
“Công tố viên Hume!” Jeremy rú lên.
“Cậu tắt đèn đi!” một giọng thô lỗ ngắt lời. Jeremy làm theo, một chùm đèn pha công suất mạnh chiếu thẳng vào mặt chúng tôi, người này tiếp người khác. Các lính gác nhìn chúng tôi trừng trừng với đôi mắt lạnh lẽo, không ra nghi ngờ cũng không ra hữu nghị.
“Không sao, các bạn,” Hume gấp gáp nói. “Tôi là Hume, và đây là các bạn của tôi.”
“Cai ngục Magnus đang chờ mọi người, ngài Hume,” vẫn cái giọng thô lỗ nói bằng ngữ điệu ấm áp hơn. “Nhưng những người này - họ phải đợi ở ngoài.”
“Tôi sẽ bảo đảm cho họ.” Hume thì thầm với Jeremy. “Clay, tôi nghĩ có lẽ cậu và cô Thumm tốt hơn nên đỗ xe bên ngoài đợi chúng tôi.”
Anh ta xuống xe. Jeremy có vẻ ngần ngừ tuy nhiên những người mặt lạnh có súng rõ ràng đã khiến anh nao núng. Anh gật đầu, lại ngồi thụp xuống ghế. Bố tôi nặng nề bước xuống mặt đường bê tông, tôi đi theo sau ông. Kể cả ông cũng như công tố viên đều không ai để ý đến tôi. Tôi chắc chắn về điều đó khi hai người bước qua nhóm lính gác vào trong sân nhà tù; nhóm lính gác chẳng nói gì, rõ ràng họ xem sự có mặt của tôi là đương nhiên. Phải đến vài phút sau đó, Hume quay người lại mới thấy tôi ngoan ngoãn theo sau, anh ta nhún vai rồi bước tiếp.
Chúng tôi bước vào một không gian mở rộng rãi - rộng đến mức tôi không thể đoán được trong bóng tối; đôi chân chúng tôi vang lên lanh lảnh một cách không thật trên những phiến đá lát đường. Bước vài bước chúng tôi băng qua một cánh cửa thép đồ sộ, được một lính gác đội mũ lưỡi trai xanh mở nhanh từ bên trong - thấy mình rõ ràng đang ở trong Tòa nhà Điều hành. Hoang vắng, câm lặng, không có sức sống. Ngay cả những bức tường ở đây cũng liếc mắt đểu cáng và thì thầm không thành tiếng với tôi những câu chuyện đáng sợ; đây không phải là những bức tường của xà lim mà là tường của văn phòng. Tôi tự hỏi ảo ảnh la hét nào đang sinh sống trong những kết cấu khủng khiếp vây quanh chúng tôi.
Tôi khấp khểnh theo sau bố và Hume lên một cầu thang nhiều bậc hơn, nằm xa hơn phía trong tòa nhà. Rồi chúng tôi dừng lại trước một cánh cửa khiêm nhường, có tấm biển như một văn phòng kinh doanh đề chữ: Cai Ngục Magnus .
Hume gõ cửa, một người đàn ông mắt sắc mặc thường phục - chúng đang xộc xệch; rõ ràng ông ta vừa mới xuống khỏi giường - ra mở cửa. Người đàn ông này chắc là một thư lại hay thư ký gì đó - một nhân vật khác của nhà tù, tôi nghĩ; người không biết cười, lạnh lẽo và chẳng có nét thiện nào - gầm gừ rồi dẫn đường cho chúng tôi đi qua một phòng tiếp khách rộng, ở ngoài là một văn phòng. Ông ta mở cửa cho chúng tôi vào bên trong rồi đưa mắt dò xét tôi với vẻ khó chịu băng giá khi tôi bước qua ngưỡng cửa.
Chẳng liên quan, nhưng tôi chợt phát hiện tất cả các cửa sổ trong hành trình ngắn ngủi mà chúng tôi thấy khi đến căn phòng này, đều có chấn song thép.
Người đàn ông chào đón chúng tôi trong căn phòng ngăn nắp, thinh lặng có thể là chủ ngân hàng. Ông ta mặc trang phục xám nghiêm trang, và cho dù cà vạt có thắt nút vội vàng, vẻ ngoài của ông ta vẫn rất chỉn chu. Đường nét nghiêm khắc, từ tốn và dãi dầu của người phải thường xuyên đối mặt với cái xấu xa từ những tên tội phạm hiện rõ trên mặt ông cùng với đôi mắt cảnh giác của người luôn phải sống giữa nguy hiểm. Mái tóc của ông xám và thưa, khẩu súng trường được đeo chéo qua vai.
“Xin chào, ngài cai ngục,” công tố viên nói bằng giọng thấp. “Xin lỗi đã dựng ngài dậy vào sáng sớm thế này. Nhưng tôi e án mạng không chờ chúng ta đâu. Ha ha ha!…. Vào đi, thanh tra và cô nữa, cô Thumm.”
Cai ngục Magnus khẽ mỉm cười, chỉ vào mấy cái ghế. “Không ngờ cả một phái đoàn đến thế này,” ông ta nói bằng giọng nhẹ nhàng.
“À, cô Thumm - nhân tiện hãy gặp gỡ cai ngục Magnus, đây là cô Thumm; và thanh tra Thumm, đây là cai ngục Magnus - Cô Thumm giống như một thám tử vậy, ngài cai ngục, và dĩ nhiên thanh tra Thumm quá sành sỏi nghề này rồi.”
“Đúng,” cai ngục nói. “Tuy nhiên, cũng chẳng hại gì mà.” Gương mặt ông trở nên trầm tư. “Vậy thượng nghị sĩ Fawcett phải trả giá. Thật lạ lùng làm sao khi số mệnh đối xử với ta như thế, ngài Hume nhỉ?”
”Nó đã xảy ra với ông ấy, đúng vậy,” Hume lặng lẽ đáp.
Chúng tôi ngồi xuống, bố tôi bất ngờ lên tiếng: “Thề có Chúa, giờ thì tôi biết rồi! Chẳng phải ngài có liên quan đến công việc của cảnh sát mười lăm năm trước sao, cai ngục? Vùng nông thôn nào đó gần đây?”
Magnus nhìn ông chằm chằm, rồi mỉm cười. “Tôi nhớ rồi… Vâng, ở Buffalo. Vậy ra ông chính là Thumm vĩ đại đó? Ôi, thanh tra, tôi mừng khôn xiết khi gặp lại ngài ở đây. Tôi tưởng ngài về hưu rồi mà?”
Và hai người cứ nói chuyện mãi thôi. Tôi tựa mái đầu đang đau nhức vào lưng ghế, nhắm mắt lại. Nhà tù Algonquin… Trong cái nơi rộng lớn và câm lặng này, xung quanh tôi có hơn một nghìn - hai nghìn - người ngủ, hoặc cố gắng ngủ trong những xà lim chật hẹp không đủ cho những cơ thể bầm tím của họ duỗi vươn thoải mái. Những người khác mặc đồng phục thả bước trong các hành lang. Bên ngoài phía trên mái nhà là bầu trời và bầu không khí ban đêm, cách đấy không xa là những cánh rừng xào xạc. Trong lâu đài Hamlet, một ông già bệnh tật đang say ngủ. Phía ngoài những cánh cửa thép là Jeremy Clay giận dỗi. Tại nhà xác ở Leeds, duỗi thẳng chân tay trên bàn mổ, là cái xác bị cắt xẻo của một người đàn ông chẳng còn tí quyền lực nào nữa… Tại sao họ lại chờ đợi? Tôi tự hỏi. Tại sao họ không nói về tên Aaron Dow này?
Tôi mở mắt khi nghe thấy tiếng bản lề rít lên chói tai. Viên thư lại với đôi mắt sắc đứng bên ngưỡng cửa. “Cha Muir đã đến, thưa cai ngục.”
“Cho ông ta vào.”
Lúc sau, đứng ngay cửa là một người đàn ông bé nhỏ với mái tóc bạc, đôi mắt kính dày vô số nếp nhăn với khuôn mặt nhân hậu nhất và hiền từ nhất tôi từng thấy. Trên khuôn mặt ấy, nét lo lắng hay đau đớn không làm lu mờ đi vẻ quý tộc bên trong; vị tu sĩ cao tuổi này thuộc kiểu người có sức quyến rũ theo bản năng; và tôi có thể hiểu được, làm sao lớp vỏ cứng của ngay cả những tên tội phạm tàn bạo nhất cũng phải tan chảy trước một vị thánh như ông.
Ông kéo lại chiếc áo linh mục đen bạc màu quanh người, đôi mắt cận thị của ông lấp lánh dưới ánh đèn, một cuốn kinh nhật tụng đỏ sáng bóng được nắm chặt trong tay phải. Rõ ràng ông đang bối rối trước sự có mặt của những người lạ trong văn phòng cai ngục, vào giờ giấc báng bổ thế này.
“Mời Cha vào, mời vào,” cai ngục Magnus nhẹ nhàng nói. “Tôi muốn Cha gặp gỡ vài người.” Ông ta giới thiệu chúng tôi.
“Vâng,” Cha Muir nói. “Vâng,” với phong cách khéo léo, chính xác và lơ đãng. Ông nhìn tôi chăm chú. “Chào cô bé.” Rồi ông tiến đến bàn làm việc của cai ngục và kêu lên: “Cai ngục, điều này thật khủng khiếp! Tôi không tin điều đó, vì Chúa là người phán xét ta!”
“Bình tĩnh, thưa Cha,” cai ngục nói bằng giọng tôn kính. “Vào lúc này hay lúc khác người ta rồi cũng lầm lỗi mà. Ngồi xuống nào. Tất cả cũng sắp tranh luận về chuyện đó đây.”
“Nhưng Aaron,” Cha Muir nói bằng giọng run rẩy. “Aaron là một người tốt, thật chân thành.”
“Thôi mà Cha. Hume, tôi cho rằng ngài đang rất háo hức muốn nghe những gì tôi phải nói. Nhưng đợi một phút đã, tôi sẽ cho ngài xem một hồ sơ hoàn chỉnh.” Cai ngục Magnus bấm một nút trên bàn làm việc, một lần nữa viên thư lại mở cửa. “Mang cho tôi hồ sơ của Dow. Aaron Dow. Được phóng thích vào chiều nay.” Viên thư lại biến mất, một lúc sau quay lại với một hồ sơ màu xanh to. “Đây rồi. Aaron Dow. Tù nhân số 83532. Tuổi khi vào tù: bốn mươi bảy tuổi. ”
”Hắn đã thụ án bao lâu rồi?” bố tôi hỏi.
”Mười hai năm và vài tháng… Chiều cao mét sáu, nặng năm mươi nhăm cân, mắt xanh, tóc xám, vết sẹo hình bán nguyệt trên ngực trái…” Cai ngục Magnus ngước mắt lên trầm tư. “Ông ta đã thay đổi rất nhiều trong mười hai năm ở đây. Tóc trụi gần hết, ngày càng trở nên yếu đuối - giờ ông ta gần sáu mươi rồi.”
“Hắn phạm tội gì?” Công tố viên gặng hỏi.
“Ngộ sát. Thẩm phán Proctor của New York tuyên ông ta mười lăm năm tù. Ông ta đã giết một người tại một quán rượu bên bờ sông ở New York. Dường như ông ta lúc đó say mèm rượu gin rẻ tiền nên mới gây rối. Ông ta chưa từng gặp nạn nhân, theo như những gì bên nguyên có thể tìm hiểu được.”
“Hắn từng có tiền án chưa?” bố tôi hỏi.
Cai ngục Magnus xem bản ghi chép. ”Họ không thể tìm ra. Tôi để ý là không thể truy được tên Dow này. Thậm chí có người còn nghĩ rằng tên của ông ta là một bí danh, cho dù họ không thể chứng minh được.”
Tôi cố gắng hình dung ra người này, ông ta đang già đi ngay trước mắt tôi, nhưng tôi vẫn không thể thấy được ông ta hoàn toàn. Rõ ràng có điều gì đó chưa đúng ở đây. “Ngài cai ngục, tên Dow này là kiểu tù nhân gì? Bất trị à?” Tôi e dè thăm dò.
Magnus mỉm cười. “Tôi thấy cô Thumm đây hỏi câu hỏi rất hay. Không đâu, thưa cô Thumm, ông ta là một tù nhân kiểu mẫu - Hạng A, căn cứ theo hệ thống xếp loại của chúng tôi. Tất cả tù nhân đều đủ tư cách hưởng những ưu tiên sau thời gian được thâu nhận, mặc quần áo tươm tất trong thời gian học việc trên đống than, và được Ban Quản lý nhà tù chỉ định công việc đều đặn trong tù. Khi ông ta yên tâm làm ăn theo đúng quy định, người tù này hòa nhập vào cộng đồng nhỏ bé của chúng tôi - bản thân chúng tôi cũng tạo nên một thành phố, cô biết đấy - chủ yếu phụ thuộc vào chính ông ta. Nếu ông ta không gây ra rắc rối gì, tuân thủ mệnh lệnh và tất cả các quy định, ông ta có thể giành lại sự tôn trọng xã hội đã cướp khỏi tay ông ta. Aaron Dow không bao giờ gây ra chút rắc rối gì đối với Giám ngục, người thi hành kỷ luật chính trong tù. Kết quả ông ta được xếp Hạng A, hưởng thụ rất nhiều ưu tiên và được phóng thích sớm ba mươi tháng vì cải tạo tốt.”
Cha Muir hướng đôi mắt dịu dàng, sâu thẳm sang tôi. “Ta cam đoan với cô, cô Thumm, Aaron là người tốt nhất. Tôi biết ông ta rất rõ. Cho dù không theo đức tin của tôi, ông ta sùng đạo lắm; thưa cô, người như ông ta không thể, tuyệt đối không thể…”
“Hắn đã từng giết người rồi,” Hume lạnh lùng nhận xét. “Tôi nên nói rằng hắn đã tạo ra một tiền lệ.”
“Mà nhân tiện,” bố tôi bình luận, “hắn đã giết người tại New York mười hai năm trước thế nào? Đâm chết à?”
Cai ngục Magnus lắc đầu. “Đánh vào đầu nạn nhân bằng một chai whisky còn đầy nguyên, khiến não bị chấn động dẫn đến cái chết.”
“Điều ấy thì có khác biệt gì?” Công tố viên lầm bầm, một cách sốt ruột. “Ngài còn biết gì về hắn ta không, cai ngục?”
“Rất ít. Hẳn nhiên những anh chàng có thời gian thụ án dài nhất thì thường cứng đầu.” Magnus lại xem qua hồ sơ xanh. “Đúng rồi! Ở đây có một ghi chép có thể khiến ngài thích thú. Vào năm thứ hai thụ án, ông ta đã gặp một tai nạn khiến mắt phải bị mù và liệt cánh tay phải - một chuyện khủng khiếp, mà cũng do chính ông ta hoàn toàn lơ đễnh khi vận hành máy tiện…”
”Ô, vậy là hắn chỉ còn một mắt!” Hume thốt lên. “Điều đó quan trọng đấy. Thật thông minh vì ngài đã ghi lại, cai ngục.”
Cai ngục Magnus thở dài. “Đương nhiên chúng tôi không ghi chép chuyện này; Chúng tôi không thích những tin tức như thế lộ ra ngoài. Ngài biết đấy, cách đây không lâu, các tù nhân ở đây bị đối xử rất tồi tệ, chẳng khác nào súc vật, mà dĩ nhiên họ là thế, như khoa hình phạt học hiện đại đã thừa nhận, tôi e là vậy. Công chúng - à mà một phần trong đó - nghĩ rằng những thể chế trừng phạt của chúng tôi vẫn như các trại tập trung Siberia thời Nga hoàng. Chúng tôi đang cố gắng hết sức xóa đi ấn tượng đó. Khi Dow gặp tai nạn…”
“Rất thú vị,” công tố viên lịch sự lẩm bẩm.
“Hừm. Vâng.” Cai ngục ngả người vào lưng ghế, hơi bực mình, tôi nghĩ. “Dù sao đi nữa, trong một thời gian ông ta đúng là rắc rối. Với cánh tay phải bị liệt, mà ông ta lại thuận tay phải nên Ban Quản lý nhà tù đành phải giao cho ông ta công việc khác, không dính đến chân tay để làm. Ông ta không được đi học; biết đọc nhưng chỉ viết được chữ in hoa như trẻ con. Về tâm thần ông ta đạt ngưỡng rất thấp. Vào thời điểm gặp tai nạn, ông ta đang làm việc trong xưởng mộc bên máy tiện như tôi đã nói. Cuối cùng, Ban Giám đốc trả ông ta về lại đúng xưởng đó, và căn cứ theo ghi chép, ông ta đã dần quen với việc làm mộc bằng tay bất chấp tình trạng thương tật. Chà! Tôi hiểu mọi người xem tất cả các thông tin này không liên quan, có thể là vậy. Nhưng tôi muốn cho mọi người xem hình ảnh hoàn chỉnh về người này - vì những lý do của riêng tôi.”
“Ý ngài là sao?” Hume đột ngột hỏi, ngồi thẳng dậy.
Magnus nhíu mày. “Đợi một chút rồi ngài sẽ hiểu… Để tôi nói nốt câu chuyện. Dow không có gia đình hay bạn bè nào hết. Bởi vì trong suốt mười hai năm tại Algonquin, ông ta chưa từng nhận hay gửi một lá thư nào hết, cũng chẳng có ai đến thăm ông ta.”
“Hài thật,” bố tôi lẩm bẩm, đôi hàm xanh của ông nghiến trèo trẹo.
“Chẳng phải thế sao? Khác thường đáng nguyền rủa, tôi sẽ nói thế đấy, thanh tra - Vô cùng xin lỗi, cô Thumm!”
“Hoàn toàn không cần thiết đâu,” tôi mệt mỏi đáp, phát ốm vì lúc nào người ta cũng phải xin lỗi tôi với từng câu “đáng nguyền rủa” rồi “chết tiệt” được thốt ra. Cai ngục Mangus nói tiếp: “Tôi sẽ nói như thế là khác thường, vì suốt những tháng năm dài làm cai ngục tôi chưa từng thấy một tù nhân nào lánh đời như Dow. Dường như chẳng có ma nào ngoài những bức tường này thèm quan tâm đến việc ông ta sống hay chết. Như thế là đủ gây hiếu kỳ rồi, ngay cả trong những trường hợp tồi tệ nhất của chúng tôi, những kẻ ác độc nhất nói chung vẫn còn ai đó quan tâm đến chúng - mẹ, em gái, chị gái hay người yêu. Thế nhưng Dow không chỉ chưa từng có liên hệ nào với thế giới bên ngoài, ngoại trừ năm đầu tiên của ông ta, giống như tất cả các tù nhân khác được chỉ định vào nhóm làm đường một thời gian, ông ta còn chưa bước qua những bức tường này cho đến ngày hôm qua! Rất nhiều lần, nhiều tù nhân được hưởng đặc ân - những người có thể hiện tốt - đều được phép ra ngoài giải quyết chuyện nọ chuyện kia. Nhưng hành vi tốt của Dow dường như chưa đủ hình thành ở ông ta khao khát được phục hồi sự trơ lì về đạo đức. Ông ta chỉ là quá mệt, quá lãnh đạm hoặc đã quá chán nản rồi.”
“Nghe không giống một kẻ tống tiền,” bố tôi lầm bầm. “Cũng không giống một kẻ sát nhân.”
“Chính xác!” Cha Muir phấn khích reo lên. “Đó chính là điều ta đang nghĩ, thanh tra. Các quý ông, ta muốn nói…”
“Xin lỗi,” công tố viên ngắt lời, “nhưng chúng ta đang chẳng đi đến đâu cả.” Mơ màng nghe anh ta nói, tôi đang ngồi trong chốn linh thiêng lạ lùng đến mức từ đây số phận của hàng trăm con người được định đoạt, tôi nghĩ mình trông thấy một ánh sáng đẹp tuyệt vời. Tôi cảm thấy giờ là lúc để nói ra những gì tôi biết, những gì logic nghiêm ngặt nhất diễn tả. Tôi tin mình đã há miệng ra định nói, nhưng khép lại ngay. Những chi tiết tầm thường này - liệu chúng có thể mang đúng ý nghĩa như bề ngoài không? Tôi nhìn Hume, nhìn gương mặt sắc sảo như trẻ con của anh ta và ngẫm lại lời cảnh báo từ nội tâm. Sẽ cần thêm một logic nữa để thuyết phục anh ta. Mình vẫn còn thời gian…
“Và bây giờ,” cai ngục vừa quẳng hồ sơ màu xanh lên bàn làm việc vừa nói. “Tôi sẽ kể cho mọi người một câu chuyện nhỏ, khiến tôi phải đề nghị mọi người đến tối nay.”
“Tốt!” Hume khô khốc nói. “Đó là điều chúng tôi muốn nghe.”
“Làm ơn hiểu cho,” Magnus nghiêm trang nói tiếp, “rằng mối quan tâm của tôi đối với Dow không dừng lại chỉ vì ông ta không còn là tù nhân ở đây nữa. Chúng tôi thường xuyên theo dõi những trường hợp được phóng thích, vì nhiều người trong số họ cuối cùng cũng quay lại - thời gian này là khoảng 30 phần trăm - ngành khoa học hình phạt ngày càng mang tính phòng ngừa hơn là khắc phục. Đồng thời tôi không thể nhắm mắt lại trước những thực tế, và tôi kể cho mọi người nghe câu chuyện này vì bổn phận buộc tôi phải làm thế.”
Gương mặt Cha Muir trở nên trắng bệch vì đau đớn, những khớp ngón tay của ông trên cuốn kinh nhật tụng thâm tím.
“Ba tuần trước, thượng nghị sĩ Fawcett đến gặp tôi, và lạ lùng hết sức, ông ta hỏi kín tôi về một trong số các tù nhân của chúng tôi.”
“Trời ạ,” linh mục rên rỉ.
“Dĩ nhiên, người tù nhân đó là Aaron Dow.”
Đôi mắt Hume lấp lánh. “Tại sao Fawcett lại đến? Ông ta đã biết gì về Dow?”
Magnus thở dài. “Thượng nghị sĩ đã yêu cầu được xem hồ sơ của Dow và bức ảnh tù nhân. Theo quy định tôi sẽ từ chối một đề nghị như thế, nhưng vì thời gian thụ án của Dow đã gần hết, và rốt cuộc Fawcett là một công dân xuất chúng,” - ông ta nhăn mặt. - “Tôi cho ông ta xem ảnh và tập hồ sơ. Dĩ nhiên tấm ảnh được chụp mười hai năm trước, khi Dow mới bị tống giam. Bất chấp thực tế đó, thượng nghị sĩ dường như vẫn nhận ra được gương mặt của Dow, vì ông ta ngay lập tức vừa căng thẳng vừa hít sâu. Để rút ngắn câu chuyện, ông ta đưa ra một đề nghị kỳ lạ. Ông ta muốn tôi bịt miệng Dow trong vài tháng! ‘Bịt miệng’ - đó chính xác là từ ông ta dùng. Mọi người nghĩ sao về điều này?”
Hume xoa hai tay vào nhau trước một chi tiết, mà dường như với tôi rất khó chịu. “Quan trọng đấy, cai ngục! Nói tiếp đi.”
“Bất chấp sự trơ tráo đần độn của người đang đưa ra đề nghị không tưởng như thế,” Magnus nói tiếp, quai hàm ông cứng lại, “Tôi cảm thấy rằng tình hình này đòi hỏi phải giải quyết tinh tế. Điều đó khiến tôi thích thú. Bất kỳ quan hệ nào giữa một tù nhân với công dân, đặc biệt là một công dân có tiếng thơm như Fawcett, bổn phận của tôi đó là phải điều tra. Nên tôi không phạm một sai lầm nào ngoài việc dụ ông ta nói. Tôi đã hỏi, tại sao ông lại muốn bịt miệng Aaron Dow?”
“Ông ta có nói tại sao không?” bố tôi hỏi, hai lông mày nhíu lại.
“Ban đầu thì không. Ông ta vã mồ hôi như tắm, run rẩy như thằng cha mới say xỉn. Thế rồi câu đó bật ra - ông ta nói Dow đang tống tiền ông ta!”
“Chúng tôi biết điều đó,” Hume lẩm bẩm.
“Tôi nghi ngờ nhưng không thể hiện ra. Ngài nói bị ông ta tống tiền à? Tôi không tin chuyện này lại có thể, nên hỏi thượng nghị sĩ làm sao Dow liên hệ với ông ta được. Chúng tôi thực hiện kiểm soát rất ngặt nghèo mọi thư từ, ngài biết đấy, và cả những liên hệ nữa.”
“Hắn đã gửi cho Fawcett một lá thư và một mảnh đồ chơi bị cưa,” công tố viên giải thích, “trong một thùng carton đựng đồ chơi làm tại nhà tù.”
“Ra vậy.” Magnus bặm môi trầm tư. “Đó là một sơ hở chúng tôi sẽ phải bịt lại. Dĩ nhiên có khả năng chuyện này không khó. Nhưng tôi rất quan tâm vì trong thời gian này, việc tuồn tin tức vào hoặc ra khỏi nhà tù là một trong những vấn đề đáng lo nhất của chúng tôi. Trong một thời gian dài tôi đã nghi ngờ có rò rỉ nghiêm trọng ở đâu đó. Dù sao đi nữa, Fawcett cũng không chịu nói làm sao Dow có thể liên hệ với ông ta, thế nên tôi không truy cứu nữa.”
Tôi liếm đôi môi mình, chúng khô ran. “Thượng nghị sĩ Fawcett có thừa nhận tên Dow này thực sự có liên quan đến ông ta?”
‘Khó nói. Ông ta bảo rằng câu chuyện của Dow là lố bịch, một lời nói dối trắng trợn - những lời phủ nhận thông thường. Tất nhiên, tôi không tin ông ta; ông ta quá lo lắng nên không thể nào vô tội trước bất kỳ điều gì khiến Dow chiếm lợi thế hơn ông ta. Ông ta cố gắng giải thích mối quan tâm của mình khi nói rằng việc để lộ chuyện này sẽ cực kỳ nguy hiểm, nếu không muốn nói là làm thất bại những cơ hội tái ứng cử vào chức thượng nghị sĩ bang của ông ta, cho dù câu chuyện này là dối trá.”
“Gây nguy hiểm nghiêm trọng đến cơ hội của ông ta à?” Hume chán nản nói. “Ông ta chưa bao giờ có cơ hội. Tuy nhiên, đây không phải trọng tâm vấn đề. Tôi dám cá rằng dù Dow chiếm lợi thế gì đối với ông ta, điều đó cũng dư sức hợp pháp.”
Cai ngục Magnus nhún vai. “Tôi cũng nghĩ vậy. Đồng thời, tôi lâm vào một tình huống khác thường. Chỉ nghe những lời của Fawcett thôi thì tôi không thể trừng phạt Dow, và tôi cũng bảo với ông ta như thế. Dĩ nhiên, nếu ông ta muốn nhấn mạnh hình phạt, ông ta phải nói ra lời “dối trá” ấy là gì… Nhưng thượng nghị sĩ gần như chỉ quan tâm tới việc tôi nên bịt miệng tên tù nhân Hạng A lại. Ông ta không muốn chuyện này công khai. Rồi sau đó ông ta bóng gió nói rằng ông ta có thể “giúp đỡ” tôi về mặt chính trị, nếu tôi cho biệt giam Dow trong vòng vài tháng.” Magnus cười lớn. “Cuộc phỏng vấn biến thành một hoạt cảnh trong vở kịch Melo ngày xưa. Quan chức biến chất, và tất cả những chuyện như thế. Dĩ nhiên, mọi người biết rằng chẳng có hoạt động chính trị nào phía sau những bức tường này. Tôi có danh tiếng là người thanh liêm nên đã nhắc nhở Fawcett về chuyện này. Ông ta thấy rằng chẳng có ích lợi gì nên bỏ đi.”
“Sợ à?” bố tôi càu nhàu.
“Khiếp đảm. Tất nhiên, tôi không cho phép thứ cỏ dại đó mọc dưới chân mình. Ngay sau khi Fawcett ra đi, tôi cho gọi Aaron Dow vào văn phòng. Ông ta tỏ vẻ vô tội, phủ nhận chuyện âm mưu tống tiền thượng nghị sĩ. Nên với việc Fawcett từ chối áp đặt hình phạt, tôi đơn thuần chỉ cảnh cáo Dow rằng nếu tôi phát hiện thấy sự thật nào trong câu chuyện này, tôi sẽ thu hồi lại lệnh phóng thích ông ta, và tước hết tất cả những ưu tiên của ông ta.”
“Có thế thôi à?” Hume hỏi.
“Gần như tất cả rồi. Sáng hôm nay - tôi nên nói là sáng hôm qua - Fawcett gọi điện thoại cho tôi đến đây nói rằng ông ta quyết định “mua” sự im lặng của Dow, hơn là cho phép một “câu chuyện giả dối” bị lan truyền, và đề nghị tôi quên hết toàn bộ chuyện này đi.”
“Rõ ràng là kỳ cục,” bố tôi trầm tư nói. “Thật ra là nghe mùi xấu xa! Nghe chẳng giống lão Fawcett này chút nào. Ngài có chắc chắn Fawcett là người gọi không?”
“Chắc chắn. Tôi cũng nghĩ rằng cuộc gọi của ông ta thật lạ lùng, và tôi tự hỏi tại sao ông ta lại tự tìm rắc rối khi bảo tôi rằng, ông ấy muốn trả tiền để giữ im lặng.”
“Đúng là vui,” công tố viên cau mày. “Ngài có nói với ông ta rằng Dow đã được phóng thích ngày hôm qua không?”
“Không. Ông ta không hỏi, thì tôi không nói.”
“Ngài biết không,” bố tôi kéo dài giọng, vắt chân chữ ngũ, “tôi biết về cuộc gọi đó. Đúng vậy, thưa ngài. Nó đến với tôi bất thình lình. Tôi biết thượng nghị sĩ Fawcett đang khép tội Aaron Dow già cả, đáng thương theo cả hai cách đến mức tuyệt diệu.”
“Ý ngài là sao?” Cai ngục hỏi với sự thích thú.
Bố tôi cười toét. “Ông ta đang tạo dấu vết, ngài cai ngục. Chuẩn bị một chứng cứ ngoại phạm. Hume, tôi dám cá bằng tất cả số tiền cậu có, rằng cậu phát hiện thấy Fawcett đã rút năm mươi tờ một nghìn đô la khỏi ngân hàng của mình. Đàng hoàng và vô tội, đúng không? Ông ta sắp trả khoản tiền bị tống tiền mà, hoàn toàn chấp nhận được - ngạc nhiên chứ! Và rồi đã xảy ra một chuyện.”
“Tôi không hiểu ý ngài,” công tố viên ngắt lời.
“Nghe này. Fawcett muốn giết chết Dow! Và rồi nhờ vào lời chứng của cai ngục và việc ông ra rút tiền, nếu chuyện này lộ ra, ông ta muốn cho thấy rằng ông ta sẽ trả tiền. Nhưng Dow vẫn cứng rắn và trong cuộc chiến ông ta đã thất bại. Ông ta đang trong hoàn cảnh tồi tệ, Hume. Ông ta chắc phải tính đến nước liều một phen còn hơn để Dow nhởn nhơ khắp nơi.”
“Có thể,” Hume trầm tư lẩm bẩm. “Có thể! Nhưng các kế hoạch của ông ta đổ bể, và ông ta lại là người phải chết. Hừm.”
“Tôi nói cho các ngài biết,” Cha Muir kêu lên, “rằng Aaron Dow không hề lấy máu người đó! Có một bàn tay ghê gớm nào đó đằng sau tất cả chuyện này, ngài Hume. Nhưng Thượng đế sẽ không để người vô tội phải chịu khổ. Rằng đứa trẻ bất hạnh tội nghiệp ấy…”
Bố tôi nói: “Hume đã nói với ngài hai phút trước rồi, ngài cai ngục, rằng lá thư của Dow viết cho Fawcett xuất phát từ đây với một mảnh rương bé. Trong số đồ chơi ở xưởng mộc của ngài, có cái rương gỗ be bé nào sơn một bên bằng các chữ mạ vàng không?”
“Tôi sẽ tìm nó cho các ngài,” Magnus nói chuyện với một nhân viên điều hành nhà tù qua điện thoại nối liền các nhà tù, rồi ngồi đợi trong khi ai đó xuống khỏi giường, tôi nghĩ vậy. Khi đặt điện thoại xuống, ông ta lắc đầu. “Trong xưởng không có cái gì như thế, ngài thanh tra. Ngăn đồ chơi của chúng tôi thật ngẫu nhiên hẵng còn mới nguyên. Chúng tôi thấy rằng Dow cùng hai tù nhân khác biết khắc đã làm ngăn đồ chơi trong xưởng mộc.”
Bố tôi liếc sang công tố viên vẻ khó hiểu, Hume nói nhanh. “Vâng. Tôi hoàn toàn đồng ý rằng chúng ta phải tìm hiểu chính xác mảnh gỗ ấy có ý nghĩa gì.” Nhưng tôi có thể nói rằng anh ta thực sự cảm thấy nó không quan trọng, một chi tiết liên quan đến động cơ. Anh ta vươn tay ra tóm lấy điện thoại của cai ngục. “Tôi có được phép không… Thưa thanh tra, tôi nghĩ rằng, bây giờ tôi sẽ xem linh cảm của ngài về năm mươi nghìn đô la Dow đòi hỏi trong lá thư ấy có chính xác không.”
Cai ngục nháy mắt. “Đó chắc phải là chuyện quan trọng giữa Dow với Fawcett. Năm mươi nghìn đô la cơ mà!”
“Tôi có một người sẵn sàng kiểm tra ngân hàng của Fawcett. Được, chúng ta sẽ xem.” Anh ta nói số điện thoại cho nhân viên điều hành nhà tù.
“Xin chào! Mulcahey hả? Hume đây. Có tìm thấy gì không?” Hai bên khóe miệng anh ta căng lên.
“Tuyệt! Giờ tiếp tục với Fanny Kaiser đi, xem có thể lần ra được bất kỳ ràng buộc tài chính nào giữa bà ta và thượng nghị sĩ không.” Anh ta gác máy, đột ngột nói. “Ngài đã đúng, thanh tra. Fawcett đã rút năm mươi ngàn bằng trái phiếu thanh toán và tiền không được đánh dấu chiều hôm qua - lưu ý là vào buổi chiều hôm ông ta bị sát hại.”
“Cùng một lúc,” bố tôi vặc lại, quắc mắt giận dữ. “Tôi không thích thế. Suy nghĩ cẩn thận không chút cường điệu rằng, kẻ tống tiền hẳn đã cầm chắc tiền của ông ta, sau đó giết chết người đã trao tiền cho hắn?”
“Đúng, đúng,” Cha Muir háo hức nói. “Một vấn đề rất quan trọng, ngài Hume.”
Công tố viên nhún vai. “Nhưng nếu có đánh nhau thì sao? Nhớ rằng con dao rọc giấy của Fawcett được sử dụng trong việc giết người. Điều đó cho thấy kẻ sát nhân không được chuẩn bị. Một kẻ có ý định ra tay giết người sẽ phải tự chuẩn bị một thứ vũ khí. Fawcett đã khẩu chiến với Dow sau khi trao tiền cho hắn ta, hoặc tấn công hắn ta; đã có ẩu đả. Dow chộp được con dao rọc giấy - và mọi chuyện là thế.”
“Ngài Hume,” tôi nhẹ nhàng gợi ý, “cũng có thể kẻ sát nhân trước đó đã tự chuẩn bị cho mình một thứ vũ khí, nhưng hắn lại chọn sử dụng con dao rọc giấy khi hắn tìm thấy nó, vì nó ở rất gần hắn.”
John Hume rõ ràng có vẻ bực mình. “Một giả thuyết khó tin, cô Thumm,” anh ta lạnh lùng nói, cai ngục và Cha Muir ngạc nhiên gật đầu như thể họ tự hỏi: Làm sao một phụ nữ tầm thường lại nghĩ ra được một giải thích bực mình đến thế.
Và rồi một trong số các điện thoại trên bàn cai ngục Magnus đổ chuông, ông ta nhấc ống nghe. ”Của ngài đây, Hume. Có người đang rất phấn khích.”
Công tố viên vụt đứng dậy khỏi ghế, vồ lấy chiếc điện thoại… Khi bỏ điện thoại xuống, quay về phía chúng tôi, tim tôi nhảy một nhịp. Từ nét mặt của anh ta, tôi đoán một biến cố gì đó vừa diễn ra. Đôi mắt anh ta rực sáng hoan hỉ.
“Đó là cảnh sát trưởng Kenyon,” anh ta chậm rãi nói. “Aaron Dow đã vừa bị bắt, sau một hồi vật lộn trong khu rừng phía bên kia Leeds!”
Có một quãng im lặng ngắn, chỉ bị ngắt bởi tiếng rên rỉ khẽ của giáo sĩ.
“Hắn ta trông bẩn thỉu, say quắc cần câu.” Hume cao giọng. “Cuối cùng chuyện này kết thúc rồi. Ngài cai ngục, cảm ơn nhiều nhé. Có lẽ chúng tôi cần lời làm chứng của ngài trước tòa…”
“Chờ đã, Hume,” bố tôi lặng lẽ nói. “Kenyon có thấy hắn mang theo tiền không?”
“À… thì không. Nhưng chẳng hề gì đâu. Có lẽ hắn đã chôn nó đâu đấy rồi. Điều quan trọng đó là chúng ta đã tóm được kẻ giết Fawcett!”
Tôi đứng dậy, kéo giật đôi găng tay. “Thật không, ngài Hume?”
Anh ta nhìn tôi trừng trừng. “Tôi e rằng mình không hoàn toàn hiểu…”
“Ngài không hoàn toàn hiểu à, ngài Hume?”
“Cái quái… cô nói thế là ý gì, cô Thumm?”
Tôi rút son môi ra. “Aaron Dow,” tôi nói, mím môi lại. “không giết thượng nghị sĩ Fawcett, và hơn thế nữa,” tôi nói, tháo một găng tay ra, ngắm đôi môi của mình trong gương. “Tôi có thể chứng minh điều đó.”