Chương 7 Thắt Thòng Lọng
“Patty,” sáng hôm sau bố tôi nói, “có thứ gì thối rữa trong thành phố này.”
“A ha,” tôi thì thầm, “bố cũng ngửi thấy à?”
“Bố ước gì con sẽ không nói như thế,” bố tôi làu bàu. “Đây không phải chuyện ủy mị đàn bà. Thế quái nào mà con không nói với bố - được rồi, con xung khắc với Hume - nhưng còn bố? Làm sao con biết Dow vô tội? Sao con có thể chắc chắn thế?”
Tôi nhăn nhó. Đúng là thiếu cân nhắc. Thực ra, tôi không thể chứng minh được, vẫn còn thiếu một chi tiết. Chỉ cần nắm được chi tiết đó, tôi có thể làm họ sáng mắt ra… Nên tôi nói: “Con vẫn chưa làm được.”
“Hừm! Phần khôi hài trong chuyện này là người đó không hề giết Fawcett, chừng nào bố cũng quan tâm.”
”Ôi, bố đáng yêu quá,” tôi reo lên, hôn má ông. “Con biết không phải ông ta, ông ta vô tội như người bốn mươi năm vẫn còn gin với chứng bệnh đậu mùa. Ông ta không thể giết kẻ huênh hoang khoác lác được bầu là thượng nghị sĩ.” Tôi dõi theo Jeremy, khi anh xuống dưới đường; anh chàng tội nghiệp sáng nay vừa gia nhập tầng lớp vô sản và sẽ quay về nhà nấu bữa tối, khắp người phủ đầy lớp bụi bẩn thỉu. “Tại sao bố nghĩ vậy?”
“Này, cái gì đây?” bố tôi càu nhàu. “Một bài học đấy à? Thêm nữa, con hẵng còn quá ngây thơ không thể cứ đi khắp nơi đưa ra tuyên bố như thế. Chứng minh hả? Nghe này, Patty, tốt hơn con nên thận trọng đi. Bố không muốn họ nghĩ rằng…”
“Bố xấu hổ vì con chứ gì?”
“Thôi nào, Pat, bố không có ý…”
“Bố nghĩ rằng con đang làm vướng chân đúng không? Bố nghĩ tốt hơn con nên cuộn mình trong chiếc chăn lông cừu, rúc vào một xó nào đó, đúng không?”
”Ờ thì…”
”Bố nghĩ chúng ta đang trở về những ngày váy phồng và váy lót dài xếp tầng ngày xưa à? Bố nghĩ rằng phụ nữ không được bầu cử, hút thuốc, chửi thề và có bạn trai rồi nghịch ngợm à? Và bố vẫn tin kiểm soát tỷ lệ sinh đẻ là phương tiện đắt giá, đúng không?”
“Patty,” bố tôi đáp, cau có đứng dậy, ”con không nên nói chuyện như thế với bố mình.” Nói rồi ông dậm chân bước vào ngôi nhà kiểu thuộc địa tuyệt đẹp của Elihu Clay. Mười phút sau ông bước ra, tay cầm que diêm để châm một điếu thuốc khác; rồi ông xin lỗi, và có vẻ như chuyện vặt này khiến ông bối rối. Ông bố tội nghiệp! Ông ấy không hiểu phụ nữ.
Sau đó, chúng tôi vào thành phố.
Bố của Jeremy cùng bố tôi đã thỏa thuận vào sáng hôm đó - tức là thứ Bảy, một ngày sau vụ án mạng và phiên gặp gỡ kỳ lạ của chúng tôi tại nhà tù Algonquin - rằng chúng tôi vẫn là khách tại nhà Clay. Trước khi chúng tôi chia tay đêm hôm qua, bố tôi đã cảnh báo công tố viên Hume cùng những người khác đừng nói gì về danh tiếng và vị thế chính thức của ông. Cả anh ta lẫn Elihu Clay đều cảm thấy việc bố tôi điều tra tư cách của bác sỹ Fawcett, với các hợp đồng cẩm thạch béo bở đầy cám dỗ đóng vai trò nào đó trong vụ sát hại thượng nghị sĩ Fawcett. Kế hoạch của ông là lặng lẽ tìm hiểu, xem ông có thể biết được những gì. Đối với tôi quyết định này cực kỳ quan trọng, vì tôi biết rằng trừ phi Hume và những người khác vất vả thu được chứng cứ tuyệt vời, bằng không Aaron Dow tội nghiệp sẽ gánh chịu hình phạt lớn nhất về mặt thể xác.
Bố con tôi đều rất hứng thú với hai điều cơ bản sau vụ bắt giữ con người tội nghiệp say khướt đêm hôm qua: lắng nghe câu chuyện của ông ta nếu có, gặp gỡ và nói chuyện với bác sỹ Fawcett huyền bí.
Vì di biến động của bác sỹ này vào buổi sáng thứ Bảy vẫn là một bí ẩn; chúng tôi đã cố gắng hết sức đạt được mục đích đầu tiên.
Chúng tôi lập tức được mời vào văn phòng riêng của công tố viên Hume trong tòa thị chính bằng đá ở Leeds. Sáng nay Hume rất phấn khởi - bận rộn, nhanh nhẩu, thân mật, đôi mắt sáng long lanh và đắc thắng đầy đáng ghét đối với tôi.
“Xin chào, xin chào!” anh ta nói, xoa hai tay vào nhau. “Sáng nay khỏe không cô Thumm? Vẫn nghĩ rằng chúng tôi đang hành hạ một con quỷ vô tội à? Vẫn nghĩ rằng cô có thể chứng minh được nhiều điều à?”
“Hơn bao giờ hết, ngài Hume,” tôi đáp, ngồi xuống một cái ghế và hút thuốc.
“Hừm. Tôi sẽ để bản thân cô tự phán xét. Bill!” Anh ta quát gọi ai đó ở văn phòng ngoài. “Gọi đến nhà tù hạt bảo họ mang Dow qua đây thẩm vấn.”
“Cậu đã quần thảo với hắn rồi đấy à?” bố tôi dò hỏi.
“Chắc chắn rồi. Nhưng tôi muốn làm hài lòng mọi người.” Anh ta nói câu này với vẻ tự mãn của người hoàn toàn tin vào bản thân. Bất chấp thái độ trái ngược của chúng tôi, rõ ràng anh ta đã xem Aaron Dow là kẻ có tội, chỉ cần nhìn gương mặt, ương ngạnh đó tôi hiểu sẽ rất khó thuyết phục anh ta. Giả thuyết của tôi hoàn toàn phi logic. Con người này sẽ không bao giờ chấp nhận bất kỳ điều gì mà không có bằng chứng.
Aaron Dow được hai viên thanh tra to lớn áp giải đến, một sự đề phòng có vẻ hoàn toàn chẳng cần thiết. Đối với một kẻ cựu tù là một lão già nhỏ bé, say khướt và yếu ớt với đôi vai nhỏ và hẹp, chỉ cần một trong hai tay thanh tra cũng có thể bé gãy lưng ông ta bằng một tay. Tôi đã từng tự do hình dung vẻ ngoài của nhân vật trông tầm thường này, nhưng ngay cả mô tả của cái ngục Magnus về ông ta, cũng không thể khắc họa được một hình ảnh rõ nét của con người khốn khổ như tôi thật sự thấy bây giờ.
Ông ta có gương mặt nhỏ, hình dáng như một lưỡi rìu - sắc nhọn, nhăn nheo, xám xịt, trông ngớ ngẩn và vô vọng, tối tăm - hằn lên một nỗi sợ hãi và tuyệt vọng hẳn sẽ lay động trái tim của bất kỳ ai trừ Kenyon, với sự ngu xuẩn tàn bạo của lão, và Hume, với ý thức bổn phận quá cao của anh ta. Chính nhờ khuôn mặt hiền như nữ tu khiến mảnh hồn người tả tơi, khiếp nhược này không phạm tội giết người. Chính sự ngây thơ của ông ta lại khiến ông ta trông có tội, những kẻ hống hách, độc đoán này đều không thể nhìn ra phản ứng căn bản này của loài người. Kẻ giết thượng nghị sĩ Joel Fawcett là một bàn tay máu lạnh, và có khả năng sẽ là một diễn viên cừ: những kết luận này là không thể tránh khỏi căn cứ theo các thông tin về tội ác. Nhưng kẻ đáng thương này ư?
“Ngồi xuống, Dow,” Hume nói với giọng khó nghe, người đàn ông vâng lời một cách cứng nhắc. Con mắt xanh độc nhất của ông ta trong veo với nỗi sợ hãi và niềm hy vọng xen kẽ. Thật lạ lùng, làn da trên mí mắt phải của ông ta hiện lên rõ mồn một; cánh tay phải của ông ta - tôi để ý có hơi run rẩy - buông thõng lỏng lẻo một bên người, nhưng vẻ ngoài của ông ta không vì thế mà đáng sợ. Trái lại còn làm tăng vẻ vô dụng của ông ta. Bốn bức tường nhà tù đè nặng xuống ông ta, với dấu ấn bào mòn của thời tiết. Những cử động mạnh, bất thình lình ngấm ngầm của mái đầu. Nước da mịn như sáp đến kỳ cục và kiểu lê chân bước của ông ta….
Ông ta nói nghe the thé giận dữ, “Vâng, thưa ngài. Vâng, thưa ngài Hume. Vâng, thưa ngài,” rất nhanh với sự phục tùng luẩn quẩn của một con chó trung thành. Và ngay cả cách nói của ông ta cũng là cách nói của một tội phạm đã định tội; câu chữ bật ra qua làn môi khô cứng của khóe miệng nhỏ nhăn nheo. Tôi nín thở nhận ra ông ta bất ngờ quay con mắt độc nhất sang tôi; như thể tôi làm ông ta bối rối, cân nhắc những khả năng hỗ trợ nào đó từ sự hiện diện của tôi.
Bố tôi lặng lẽ đứng dậy. Con mắt biểu cảm đó vội liếc lên trên với sự quan tâm và cầu xin hy vọng.
“Dow,” Hume nói, “đây là một quý ngài muốn giúp đỡ ông. Ngài ấy đã vượt đường xa đến đây từ New York chỉ để nói chuyện với ông” - một phần mở rộng của sự thật mà tôi nghĩ hoàn toàn vô nghĩa.
Con mắt biết nói của Aaron Dow bất ngờ sáng lên ánh hoài nghi. “Vâng, thưa ngài,” ông ta nói, lún sâu hơn vào ghế. “Nhưng tôi chẳng làm gì cả. Tôi nói với ngài rồi, ngài Hume. Tôi không đánh… ông ấy.”
Bố tôi ra hiệu cho công tố viên, Hume gật đầu rồi ngồi xuống. Tôi nhìn ông với vẻ hứng thú. Tôi chưa từng thấy bố tôi hành động; phong cách một cảnh sát viên của ông đối với tôi vẫn chỉ là huyền thoại. Ngay tắp lự tôi nhận ra rằng ông là người có tài năng đặc biệt. Trong cách tiếp cận của ông với vấn đề giành được sự tin tưởng của Aaron Dow, ông cho tôi thấy khía cạnh khác của con người ông. Với phong cách xù xì, thô ráp của mình, ông là một nhà tâm lý học rất sáng suốt.
“Nhìn tôi nè, Dow,” ông nói bằng giọng dễ nghe pha lẫn dấu ấn quyền lực vừa đủ. Ông già tội nghiệp cứng người lại rồi nhìn bố tôi, bốn mắt họ giao nhau một lúc trong im lặng. “Ông có biết tôi là ai không?”
Dow liếm môi. “K… không. Không, thưa ngài.”
“Tôi là thanh tra Thumm, của Sở Cảnh sát New York.”
“À.” Người cựu tù tỏ ra rất hoài nghi, cảnh giác; ông ta liên tục lắc lắc cái đầu nhỏ, với lượng tóc xám vừa đủ từ bên nọ sang bên kia, không bao giờ nhìn vào mắt chúng tôi; đề phòng, hy vọng, sẵn sàng xông lên phía trước.
“Vậy là ông đã nghe nói đến tôi?” bố tôi tiếp tục.
“Thì…” Dow đấu tranh giữa bản năng đòi giữ im lặng và khao khát muốn nói chuyện. “Trong tù tôi đã gặp một người bị kết tội ăn cắp. Hắn ta nói rằng ngài… ngài đã cứu hắn khỏi phải ngồi ghế điện…”
“Tại Algonquin à?”
“Vâng … Vâng, thưa ngài.”
“Thế thì chắc là Sam Levy của băng nhóm Houston Street,” bố tôi nói, mỉm cười nhớ lại. “Sammy là thằng bé ngoan, tiếc là nó giao du với một đám du thủ du thực nên nhiễm thói xấu. Giờ quay lại với ông, Dow. Sam còn kể cho ông biết gì về tôi?”
Dow không ngừng cựa quậy trên ghế. “Ngài muốn biết làm gì?”
“Chỉ hứng thú thôi. Chết tiệt, tôi không nghĩ Sam sẽ nói xấu tôi, sau những gì tôi đã làm cho thằng nhóc đó…”
“Không đâu!” Dow rít lên với cái liếc mắt rầu rĩ. “Hắn ta nói ngài là người da trắng, một thám tử thẳng thắn.”
“Ồ, hắn nói thế sao, thật không?” bố tôi càu nhàu. “Mà tại sao hắn lại không nói thế? Nhân tiện, ông biết rằng tôi sẽ không buộc tội người ta, đúng không? Ông biết rằng tôi không bao giờ xử tệ với ai đúng không?”
“Tôi… Tôi cho rằng đúng vậy, thưa thanh tra.”
“Tốt! Vậy là chúng ta hiểu nhau rồi.” Bố tôi ngồi xuống, thoải mái vắt chân chữ ngũ. “Bây giờ ngài Hume đây nghĩ rằng ông đã đánh thượng nghị sĩ Fawcett. Tôi đang nói thẳng với ông. Không vớ vẩn đâu. Ông đang ở vào tình thế khó khăn đấy.” Đôi mắt ông ta lại đong đầy sợ hãi, trố lên nhìn Hume. Anh ta có hơi ngượng ngùng, ném sang bố tôi cái nhìn giận dữ. “Tôi… Tôi không nghĩ ông giết chết Fawcett. Và cả con gái tôi cũng vậy - quý cô trẻ tuổi ngồi đây. Con bé cũng nghĩ rằng ông vô tội.”
“Ừm, Ừm” Dow lẩm bẩm, không ngước mắt lên.
“Bây giờ lý do tôi cho rằng ông không giết Fawcett là gì - ông biết không, Dow?”
Lần này câu trả lời tích cực hơn; người tù nhân nhìn thẳng vào mắt bố tôi; gương mặt u tối của ông ta sáng lên nét hiếu kỳ và niềm hy vọng. “Không, thưa ngài. Tôi không biết! Tất cả những gì tôi biết là tôi không đánh ông ta. Tại sao thế?”
“Tôi sẽ nói cho ông biết tại sao.” Bố tôi đặt nắm đấm to lên đầu gối bé nhỏ, xương xẩu của người đàn ông. Tôi thấy nó run rẩy. “Bởi vì tôi biết bọn chúng. Tôi hiểu những kẻ sát nhân. Tất nhiên, ông đã vướng vào rắc rối này mười hai năm trước, vô tình đánh gục một tên say khướt. Nhưng một người như ông không phải là kẻ sát nhân.”
“Đúng vậy, thưa thanh tra!”
“Bây giờ, ngay cả nếu muốn đánh gục ai đó, ông sẽ dùng đến dao chứ?”
“Không!” Dow thét lên, cằm ông ta hằn lên những đường gân xanh. “Không phải tôi! Không một chút nào!”
“Chắc chắn là không rồi. Như vậy tất cả chúng ta đều rõ ràng rồi. Bây giờ ông nói rằng ông không giết thượng nghị sĩ Fawcett, và tôi tin ông. Nhưng ai đó đã giết ông ta. Đó là kẻ quái quỉ nào đây?”
Bàn tay trái già nua trắng bệch, cơ bắp xiết chặt lại. “Tôi không biết, tin tôi đi, ngài thanh tra. Tôi bị gài, tôi bị gài.”
“Chết tiệt, đúng là ông bị gài. Nhưng ông quen biết Fawcett, đúng không?”
Dow nhảy dựng khỏi ghế: “Đương nhiên tôi biết ông ta, lão quịt nợ bẩn thỉu đó!” Và rồi, với biểu hiện kinh hoàng trên gương mặt, có lẽ nhận ra rằng mình bị lừa thú tội, ông ta đột ngột khựng lại, nhìn bố tôi trừng trừng với sự căm hận khiến tôi thấy xấu hổ với cái tên Thumm.
Với tài năng kinh ngạc làm được những điều không thể, bố tôi cố không tỏ ra bị tổn thương. “Ông hiểu nhầm tôi rồi, Dow,” ông càu nhàu. “Ông nghĩ rằng tôi lừa ông thú nhận à. Không đâu nhé. Ông không việc gì phải thừa nhận mình quen biết thượng nghị sĩ Fawcett. Công tố viên đã bắt quả tang ông tại đó - có một lá thư của ông trên bàn làm việc của Fawcett. Hiểu chưa?”
Người cựu tù già ngồi phịch xuống, miệng lẩm bẩm. Và lần này ông ta theo dõi những đường nét của bố tôi với sự tập trung cao độ. Tôi dò xét gương mặt ông ta, và hơi run rẩy. Gương mặt khó chịu, sắc sảo này với những biểu hiện nghi ngờ, hy vọng xen lẫn sợ hãi còn chế giễu tôi trong những ngày sắp tới.
Tôi liếc nhìn John Hume, dường như anh ta không bị ấn tượng. Sau này, tôi biết rằng trong phiên chất vấn đầu tiên với cảnh sát và công tố viên, Aaron Dow đã cứng đầu không thừa nhận bất kỳ điều gì, ngay cả khi bị đe dọa bằng lá thư chết dẫm đó. Thông tin này khiến tôi biết ơn sự khôn ngoan theo bản năng của bố tôi hơn nữa, khi ông tấn công vào lớp vỏ bọc của người đàn ông kia.
“Tôi hiểu,” Dow làu bàu. “Tôi hiểu, thưa thanh tra.”
“Tốt,” bố tôi bình tĩnh nói. “Chúng tôi không thể giúp ông được, Dow, trừ phi ông kể chúng tôi nghe toàn bộ câu chuyện. Ông quen biết thượng nghị sĩ Fawcett được bao lâu rồi?”
Con người tội nghiệp ấy lại liếm đôi môi khô. “Tôi… tôi… Chết tiệt… cũng lâu lắm rồi.”
“Ông chửi thề đấy à, Dow?”
“Tôi không nói vậy, thưa thanh tra.”
“Được rồi.” Bố tôi ngay lập tức chuyển sang hướng tấn công khác, ông đã nhận ra những chi tiết Dow sẽ tiếp tục ngoan cố giữ im lặng, nhanh hơn cả tôi. “Nhưng ông đã liên hệ với ông ta từ trong nhà tù Algonquin đúng không?”
Im lặng. Rồi: “Vâng. Vâng, thưa ngài, tôi đã làm thế.”
“Ông đã gửi cho ông ta mảnh rương lớn bị cưa đi trong lá thư của ông, để trong hộp đồ chơi à?”
“À… tôi nghĩ vậy.”
“Ý ông nghĩa là sao khi gửi mẩu rương đó đến?”
Tất cả chúng tôi đều thấy được rằng, ngay cả trong những điều kiện thoải mái nhất vẫn không thể mong Dow nói ra toàn bộ sự thật. Đề cập đến mảnh rương đồ chơi dường như khiến suy nghĩ bi quan chợt xâm chiếm đầu óc ông ta; vì thực sự đã xuất hiện nụ cười trên gương mặt nhàu nát cùng tia xảo quyệt không thể nhầm lẫn trong con mắt độc nhất. Bố tôi cũng trông thấy điều đó, ông giấu đi sự thất vọng.
“À, đó là một dấu hiệu nhỏ,” Dow rít lên bằng giọng cảnh giác. ”Chỉ là cách để ông ấy biết là tôi.”
“Tôi hiểu. Lá thư của ông nói rằng ông sẽ gọi cho thượng nghị sĩ vào ngày ra tù. Ông có làm thế không?”
“Có. Tôi đã làm thế.”
“Đích thân thượng nghị sĩ nói chuyện với ông à?”
“Chết tiệt, đúng thế,” Dow đáp với tiếng gầm gừ bé, rồi tự chỉnh lại. “Ông ấy đã trả lời, đúng vậy.”
“Ông đã sắp xếp một cuộc hẹn vào đêm qua?”
Một lần nữa, ánh hoài nghi bắt đầu len lỏi vào con mắt xanh nhìn chòng chọc ấy. “À… vâng.”
“Cuộc hẹn vào lúc mấy giờ?”
“Sáu tiếng chuông tàu. Ý tôi là mười một giờ.”
“Và ông đến đúng hẹn chứ?”
“Không, thanh tra, ngài giúp tôi với!” Những từ ngữ bật ra. “Tôi đã bị cầm tù gần mười hai năm rồi. Không giống như kiểu một người gặp được quân bài tốt. Mười hai năm là thời gian dài dằng dặc, chẳng khác nào địa ngục. Thế nên tôi muốn nốc một chút. Chẳng có gì ngoài nước khoai tây, đã quá lâu rồi tôi không còn nhớ vị rượu thật ra sao nữa.” Bố tôi giải thích với tôi rằng, một “quân bài tốt” là một biệt ngữ trong tù chỉ án tù một năm. Còn “nước khoai tây”, cai ngục Magnus sau đó từng bảo tôi rằng đó là rượu ủ lên men gắt do các tù nhân bí mật tự làm, bằng vỏ khoai tây cùng phần còn lại của các loại rau khác. “Nên tôi bước đến một quán rượu, thanh tra ạ, chẳng bao lâu họ đuổi tôi ra. Quán rượu trên góc phố Chenango G Smith, ngay trong cái thị trấn này. Cứ hỏi người phục vụ quầy rượu, thưa thanh tra, anh ta sẽ tạo bằng chứng ngoại phạm cho tôi.”
Bố tôi nhíu mày. “Có đúng vậy không Hume? Cậu đã kiểm tra chưa?”
Hume mỉm cười. “Dĩ nhiên. Tôi nói với ngài rồi mà, thanh tra. Tôi không phải là kẻ ép buộc một người vô tội. Điều không may trong chuyện này, đó là trong khi người chủ quán rượu xác nhận câu chuyện của Dow, anh ta còn nói thêm rằng Dow đã rời khỏi quán vào khoảng tám giờ tối qua. Thế nên chẳng có ngoại phạm nào hết, vì Fawcett bị sát hại vào lúc mười giờ hai mươi.”
“Tôi đã say rượu,” Dow lẩm bẩm. “Tôi đã nốc quá nhiều rượu đểu sau khi ra tù. Tôi không còn ‘nhớ nhiều’ chuyện gì xảy ra sau khi rời khỏi quán. Cứ thế đi loanh quanh thôi. Tôi rời khỏi quán rượu một quãng, và ‘khoảng’ mười một giờ tôi gần như tỉnh táo hơn.” Ông ta nhăn nhó, lại liếm đôi môi như một con mèo đói khát.
“Nói tiếp đi,” bố tôi nhẹ nhàng đáp. “Ông đã đến nhà của Fawcett?”
Con mắt của Dow rực sáng trong đau đớn khi ông ta thét lên. “Phải, nhưng tôi không bước vào, tôi không bước vào đó! Tôi trông thấy những ánh sáng đèn, những tên cớm và viên thám tử, và ngay lập tức tôi biết rằng mình bị gài bẫy, rằng lão già lập dị đó đã chơi tôi. Thế nên tôi chuồn, chạy trối chết vào trong rừng và… và rồi họ đến tóm tôi. Nhưng tôi không làm thế, thề có Chúa, tôi không làm thế!”
Bố tôi đứng dậy, bắt đầu đi lại không ngừng trên sàn nhà. Tôi thở dài: thật tồi tệ, khi nụ cười nửa miệng của công tố viên Hume lộ rõ vẻ đắc thắng. Chẳng cần có kiến thức về luật, tôi cũng nhận ra người đàn ông bất hạnh này đã có dính líu sâu sắc đến thế nào, ông ta chẳng còn gì để trông cậy ngoài danh tiếng xấu xa không ai ưa, để hòng bác bỏ một chứng cứ gián tiếp đang áp đảo.
“Và ông không cầm năm mươi nghìn đô la đấy chứ?”
“Năm mươi nghìn?” người tù hét lên đinh tai. “Thậm chí tôi còn chưa nhìn thấy chúng. Tôi nói rồi!”
“Được rồi, Dow,” bố tôi càu nhàu. “Chúng tôi sẽ làm những gì có thể cho ông.”
Hume ra hiệu cho hai thanh tra. “Mang hắn quay về nhà tù hạt đi.”
Họ xốc nách Aaron Dow lôi ra khỏi cửa, không để ông ta kịp nói câu nào.
Cuộc thẩm vấn của chúng tôi với người bị buộc tội được chúng tôi mong đợi rất nhiều, đã cho thấy không thu được thông tin bổ sung nào. Dow đang bị giam tại nhà tù hạt Leeds theo lệnh của bồi thẩm đoàn, chúng tôi không thể làm được gì để ngừng bản cáo trạng. Điều gì đó mà Hume đã nói trước khi chúng tôi ra về đã thuyết phục bố tôi, người có tư duy thông thái của các chính trị gia, rằng Dow sẽ là một vật tế tức thời cho “công lý.” Tại thành phố New York, với các lịch xử án ken đặc kín mít, hầu hết các vụ tố tụng hình sự sẽ phải mất đến hàng tháng chuẩn bị. Nhưng ở nơi cách xa thành phố như ở đây, nơi số lượng các vụ án ít và vì các lý do chính trị, mối quan tâm của công tố viên, một phiên xử sẽ được thúc giục giải quyết nhanh gọn. Dự kiến Aaron Dow có thể chính thức bị truy tố, xét xử và tuyên án trong khoảng thời gian ngắn đến khủng khiếp.
“Ngài thanh tra,” Hume nói, “dân chúng chỉ muốn vụ này được giải quyết ngay không chậm trễ,”
“Lũ chuột,” bố tôi khó chịu nói. “Ủy viên công tố thì muốn thêm chiến thắng nữa để rộng đường hoạn lộ, còn băng nhóm của Fawcett thì muốn trả thù. À, mà bác sỹ Fawcett đâu? Cậu có thông tin gì về anh ta chưa?”
“Nghe này, thanh tra,” Hume ngắt lời, đỏ mặt. “Tôi không quan tâm đến giọng lưỡi của ngài. Tôi đã từng nói với ngài rằng, tôi chân thành tin rằng người này có tội, bằng chứng gián tiếp đang chiếm ưu thế. Tôi chú trọng vào thông tin, chứ không phải giả thiết! Và lời nói bóng gió của ngài rằng tôi đang tranh thủ về chính trị…”
“Kiềm chế đi,” bố tôi lạnh lùng nói. “Cậu chân thành, công nhận điều đó. Nhưng cậu cũng mù quáng và sẵn sàng nắm chắc lấy cơ hội. Xét theo quan điểm của cậu, thì không thể nói là tôi trách cậu. Nhưng Hume này, toàn bộ chuyện này quá thú vị. Cậu không thường xuyên nhận được vụ như thế này, khi bằng chứng chỉ ra một nghi phạm rõ ràng, về mặt tâm lý học thì sai bét. Kẻ ranh mãnh bé nhỏ đáng thương này thì không hợp tiêu chí đó, thế thôi… Mà cậu còn chưa trả lời câu hỏi của tôi về bác sỹ Ira Fawcett.”
“Vẫn chưa tìm được ông ta,” Hume nói bằng giọng thấp. “Tôi xin lỗi đã cảm thấy như vậy về Dow, thưa thanh tra. Tại sao lại phải đi tìm một lời giải thích khó hiểu, khi sự thật bày ra ngay trước mặt ngài? Ngoại trừ lời giải thích về cái mảnh rương bé tí ấy - mà đó không thể là chi tiết quan trọng ngoài ý nghĩa về mặt lịch sử - thì chỉ còn một nhúm việc chưa giải quyết nữa cần hoàn thành thôi.”
“Hừm,” bố tôi nói. “Thế hả? Vậy thì chúng tôi sẽ chúc cậu một ngày tốt lành.”
Thế rồi bố con tôi quay về nhà Clay trên đồi, với tâm trạng chán nản não nề.
Bố tôi dành trọn ngày Chủ nhật với Elihu Clay tại các mỏ đá, tham gia cuộc tấn công bất ngờ các sổ sách và ghi chép nhưng không đạt kết quả. Về phần mình, tôi tự giam mình trong phòng tỏ thái độ khó chịu không giấu giếm đối với Jeremy, và đốt hết một bao thuốc trong khi ngẫm nghĩ về vụ án. Mặt trời sưởi ấm những khớp ngón tay trần của tôi khi nằm ườn ra trên giường trong bộ pijama. Nhưng trái tim tôi đông cứng; tôi cảm thấy lạnh giá và phát ốm khi thấy khiếp đảm trước tình cảnh của Dow, và sự vô dụng của chính mình. Tôi điểm lại giả thiết của mình qua từng liên kết. Trong khi chuỗi sự kiện rất mạnh mẽ về mặt logic, thì tôi lại không thể tìm được cái móc nào đủ chắc làm bằng chứng pháp lý về sự vô tội của Dow. Họ sẽ chẳng bao giờ tin…
Jeremy gõ cửa phòng ngủ của tôi. “Lạnh lùng thế Pat. Đi cưỡi ngựa với anh đi.”
“Ra ngoài đi, nhóc.”
“Đúng là một ngày lạ thường, Patty ạ. Mặt trời, cây lá rồi mọi thứ. Cho anh vào đi.”
“Cái gì! Giải trí với một thanh niên khi mặc pijama à?”
“Thể dục thôi mà. Anh muốn nói chuyện với em.”
“Anh có hứa không tỏ ra mình đa tình đấy chứ?”
“Anh chẳng hứa chết tiệt gì cả. Cho anh vào đi.”
“Được rồi,” tôi thở dài, “cửa có khóa đâu, Jeremy. Và nếu anh cứ khăng khăng lợi dụng một phụ nữ yếu đuối sao em cản anh được.”
Anh bước đến ngồi trên mép giường tôi. Ánh nắng cũng ve vuốt dịu dàng mái tóc xoăn của anh.
“Chàng trai bé nhỏ của bố hôm nay tẻ nhạt thế?”
“Không nói thế! Nghe này, Pat, nghiêm túc đấy. Anh muốn nói chuyện với em.”
“Được thôi, tất nhiên. Amidan của anh có vẻ trong tình trạng tốt nhỉ.”
Anh xiết chặt tay tôi. “Sao em cứ loanh quanh với cái chuyện ghê tởm kia mãi thế?”
Tôi trầm tư phả từng làn khói ngắn lên trần nhà. “Giờ anh ngày càng ích kỷ rồi. Em không hiểu nổi anh, Jeremy. Anh không thấy một người vô tội đang sắp phải lên ghế điện à?”
“Cứ để những người có chuyên môn tốt nhất xử lý chuyện đó.”
“Jeremy Clay ơi, ” tôi cay đắng nói, “đó là lời nhận xét ngu xuẩn nhất em từng được nghe. Ai là người có chuyên môn tốt nhất hả? Hume à? Một thanh niên đẹp trai với những ảo tưởng sức mạnh quá rõ ràng. Anh ta không thấy được cái gì dài quá cái mũi mình hai phân. Kenyon à? Một lão nhà quê ngu như bò, với đôi ủng xấu kinh. Có luật pháp tại Leeds, chàng trai ạ; và giữa chúng là Aaron Dow tội nghiệp chẳng có lấy một cơ hội nào.”
“Thế còn bố em thì sao?” anh cố tình hỏi với ác ý.
“Ôi, bố em đi đúng hướng đấy nhưng một sự trợ giúp nhỏ có làm hại ai đâu… Và làm ơn đừng có vuốt ve bàn tay em nữa, ngài Clay. Ngài sẽ làm xước da đấy.”
Anh nghiêng người sang gần hơn. “Patience, em yêu, anh…”
“Đấy,” tôi nói, ngồi dậy trên giường, “cái kiểu bóng gió ám chỉ của anh đấy. Khi một thanh niên tăng thân nhiệt bất thường, với nét dục tính trong mắt, họ thường ăn nói như thế…”
Tôi thở dài khi anh bỏ đi. Jeremy là một thanh niên dễ coi nhất, nhưng anh ấy sẽ chẳng giúp được gì để cứu rỗi Aaron Dow khỏi biển bằng chứng gián tiếp.
Thế rồi tôi nghĩ đến già Drury Lane, và cảm thấy tâm trạng khá hơn. Nếu mọi nỗ lực đều sẽ thất bại…