Chương 15 Vượt Ngục!
Ngày hôm sau là thứ Năm, một ngày nắng ngập tràn sức sống hứa hẹn sẽ rất ấm áp. Bố tôi tự mặc lên mình bộ đồ bằng vải lanh mới, bộ đồ tôi một mực đòi mua tặng ông tại Leeds. Trông ông cũng rất thông minh cho dù hay càu nhàu, nói gì đó với ý rằng ông không phải là một bông huệ tây - chả hiểu nghĩa là gì - và suốt nửa tiếng đồng hồ ông không chịu nhúc nhích khỏi nhà Clay vì sợ người ta thấy. Những chi tiết lặt vặt của ngày hôm đó - ngoại trừ một chi tiết, mà là chi tiết quan trọng nhất chúng tôi dự định trải qua tại Leeds - nó nổi bật lên đẹp như ảnh chụp. Tôi nhớ mình đã mua một chiếc cà vạt màu cam cho bố tôi. Ai có con mắt nghệ thuật có thể nói ngay nó ăn dơ hoàn hảo với bộ đồ vải lanh. Chính tay tôi thắt nút cho ông, suốt thời gian đó ông cứ lẩm bà lẩm bẩm, trải qua quãng thời gian khó chịu nhất. Người ta có thể hình dung rằng ông vừa phạm một tội ác, rằng bộ đồ ông đang mặc là đồng phục của nhà tù. Tội nghiệp bố tôi! Một người bảo thủ vô vọng, khiến tôi cảm thấy cực kỳ vui sướng được làm đẹp cho ông - một việc tôi làm vì tình yêu thương, nhưng e rằng ông sẽ chẳng hài lòng.
Gần trưa thì chúng tôi quyết định đi bộ. Hay đúng hơn đó là quyết định của tôi.
“Đi dạo lên đồi đi bố,” tôi gợi ý.
“Trong cái bộ đồ đáng nguyển rủa này sao?”
“Dĩ nhiên ạ!”
“Không. Bố không đi đâu.”
“Thôi mà bố,” tôi nói. “Đừng có cổ hủ thế. Hôm nay là một ngày tuyệt vời.”
“Với bố thì không đâu,” bố tôi càu nhàu. “Thêm nữa bố… bố chỉ là cảm thấy không khỏe. Cái chân trái của bố lại nhức rồi.”
“Trong bầu không khí của núi sao? Chán òm! Chúng ta ghé chỗ ngài Lane. Và bố sẽ có thể khoe với ngài ấy bộ đồ mới này.”
Và chúng tôi cùng tản bộ, tôi hái một nắm lớn những bông hoa dại trên đường. Bố tôi không còn nữa vẻ e dè, ngượng ngập. Bố con tôi đã gần như vui vẻ được một lúc.
Chúng tôi thấy quý ông già đang vùi mặt vào cuốn sách, trên hàng hiên nhà Cha Muir - điều kỳ diệu trong những điều kỳ diệu! Ông đang diện đồ bằng vải lanh cùng chiếc cà vạt màu cam!
Hai lão già trân trân nhìn nhau, rồi bố tôi trông như tên ngốc, ngài Lane cười lặng lẽ.
“Thực sự hợp mốt đấy, thanh tra. Tôi nhìn thấy ảnh hưởng của Patience. Trời ạ, ngài rất cần một cô con gái đấy, Thumm!”
“Tôi đang bắt đầu vượt qua nó đây,” bố tôi lẩm bẩm. Rồi gương mặt ông rạng rỡ. “Chà, ít nhất tôi cũng có bạn đồng hành.”
Cha Muir bước ra khỏi nhà nồng hậu chào đón chúng tôi - trông ông vẫn nhợt nhạt và uể oải do trải nghiệm đêm qua - rồi tất cả chúng tôi cùng ngồi xuống. Bà Crossett tháo vát xuất hiện bê một khay đồ uống lạnh, trong đó đập ngay vào mắt là những chai rượu. Khi mấy ông già nói chuyện, tôi ngắm bầu trời lốm đốm mây, cố không nhìn những bức tường cao xám xịt của nhà tù Algonquin gần đó. Ở đây đang vào mùa hè nóng nực, nhưng bên trong các bức tường kia sẽ chỉ còn một mùa đông đáng sợ nhất. Tôi tự hỏi lúc này Aaron Dow đang làm gì.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi, tôi cứ ngồi đó tự ru mình trong cõi Niết Bàn vị tha, chìm trong sự tĩnh tại của bầu trời tuyệt đẹp. Dần dần những suy nghĩ của tôi tập trung về những biến cố của đêm qua. Cái mảnh rương thứ hai đó - nó cảnh báo điều gì? Rằng quá rõ ràng mảnh rương ấy có ý nghĩa nào đó với bác sỹ Ira Fawcett: biểu hiện tức giận trên gương mặt anh ta cho thấy anh ta biết về nó, hơn là nỗi sợ hãi khi không biết nó là gì. Làm sao anh ta nhận được nó nhỉ? Và ai đã gửi nó?… Tôi ngồi thẳng dậy, sợ hãi. Phải chăng Aaron Dow đã gửi nó đến?
Tôi ngồi lại, lo lắng sâu sắc. Điều này mang lại một lời giải thích khác cho các thông tin. Mảnh rương đầu tiên do tù nhân gửi đến - ông ta đã thú nhận như vậy - thế tức là ông ta tự làm nó tại xưởng mộc trong tù. Phải chăng ông ta làm thêm cái thứ hai, rồi bằng kênh ngầm trong nhà tù chuyển đến cho nạn nhân thứ hai? Đến lúc này thì tôi hoảng hốt, trái tim tôi đập như trống trận. Nhưng thật ngớ ngẩn. Aaron Dow đã không giết thượng nghị sĩ Fawcett… Tôi cảm thấy chóng mặt.
Vào lúc quá mười hai rưỡi hơn một chút, chúng tôi đột nhiên hướng sự chú ý sắc sảo về phía các cánh cổng nhà tù. Một phút trước, mọi thứ vẫn như bình thường - những lính gác có vũ trang đang chậm rãi bước trên những bức tường rộng, các vọng gác xấu xí yên lặng và dường như thiếu sức sống, cho đến khi trông thấy các họng súng sáng bóng không rõ nét đang thò ra. Và giờ đang có sự khuấy động không thể nhầm được của một hoạt động bất thường.
Tất cả chúng tôi cùng ngồi dậy, ba người dừng nói chuyện, chúng tôi cùng nhìn.
Hai cánh cửa thép to bật mở vào trong, một lính gác ngục đội mũ xanh xuất hiện trang bị một bao súng và một khẩu súng trường. Sau đó anh ta bước lùi lại, đôi vai rộng quay về phía chúng tôi quát lác gì đó chúng tôi không nghe được. Có một nhóm người xuất hiện trên ngưỡng cửa. Những tù nhân… Họ lê bước về phía trước trên con đường đầy bụi, mỗi người cầm theo một cái cuốc hoặc xẻng nặng, đầu ngẩng cao hít hít làn không khí êm dịu như những con chó háo hức. Bọn họ đều ăn mặc hệt như nhau - chân đi giày cao gót nặng, quần dài và áo khoác xám nhăm nhúm mặc ngoài áo sơ mi Hickory thô. Cả nhóm gồm hai mươi người, rõ ràng họ thẳng tiền sang bên kia đồi, đến nơi nào đó trong rừng để xây hoặc sửa đường. Theo tiếng quát từ lính gác, những người đi đầu vụng về rẽ trái đưa dòng người dần khuất tầm nhìn của chúng tôi. Một lính gác thứ hai có vũ trang đi bộ phía cuối hàng, tên lính gác đầu tiên đi cạnh phía bên phải, cảnh giác và thi thoảng quát một mệnh lệnh. Thế rồi hai mươi hai con người biến mất.
Chúng tôi ngồi lại, Cha Muir mơ màng nói: “Đây là Thiên Đường đối với những người này. Đó là làm việc chăm chỉ, đổ mồ hôi sôi nước mắt mà làm. Nhưng Thánh Jerome đã nói: “Cứ làm công việc nào đó đi, và ác quỷ sẽ thôi quấy rầy bạn.” Tức là họ đang được dẫn ra ngoài trời, tránh xa khỏi những bức tường. Những người đàn ông thích làm công việc sửa đường.” Rồi ông thở dài. Chính xác là một tiếng mười phút sau đó, đã có chuyện xảy ra.
Bà Crossett phục vụ một bữa trưa ăn nhẹ, chúng tôi vừa kịp thư giãn trên hàng hiên như lúc nãy, thì chuyện gì đó trên các bức tường khiến chúng tôi chú mục vào đó, mọi cuộc nói chuyện đều ngưng lại.
Một trong số các lính gác đang đi trên tường dừng chân, cứng người lại, chăm chú dòm vào sân tù bên dưới. Dường như anh ta đang lắng nghe điều gì đó. Chúng tôi cứng người lại hết trên ghế.
Khi xảy ra chuyện, tất cả chúng tôi cùng chấn động và hơi co người lại. Thật thô lỗ, thật tàn bạo và thật nhẫn tâm - một tiếng còi rền rĩ, buốt óc và the thé kéo dài, những ngọn đồi bao quanh trả lại những tiếng vọng chói tai, rồi lịm dần như tiếng rên rỉ của một con quỷ hấp hối. Tiếp theo lại một tiếng còi nữa, một tiếng nữa rồi cứ thế khiến tôi phải bịt tai lại, cảm thấy như muốn thét lên.
Ngay từ tiếng còi đầu tiên, Cha Muir nắm chặt hai tay ghế, trắng bệch còn hơn cả cổ áo của ông.
“Big Ben à,” ông thì thầm.
Chúng tôi khiếp đảm lắng nghe bản giao hưởng của quỷ. Rồi ngài Lane sắc lạnh nói: “Có cháy à?”
“Là vượt ngục,” bố tôi càu nhàu, liếm môi. “Patty, vào nhà thôi…”
Cha Muir đang nhìn trừng trừng các bức tường. “Không,” ông ta nói. “Không. Một vụ vượt ngục… Lạy Chúa lòng lành!”
Chúng tôi đồng thời đứng dậy khỏi ghế, lao vào trong vườn đứng tựa vào bức tường phủ hoa hồng. Ngay cả những bức tường của Algonquin cũng cứng lại trước tiếng còi kinh hoàng kia. Từng cơ bắp những lính gác đang đứng trên đó đều căng ra, hoảng loạn nhìn hết bên nọ sang bên kia, súng giơ lên - run rẩy, lưỡng lự nhưng sẵn sàng cho bất kỳ điều khẩn cấp nào. Và rồi những cánh cửa thép lại bật mở, một chiếc xe mạnh mẽ gầm rú phóng ra, trên xe chật ních lính là lính mặc áo xanh, tất cả đều trang bị súng trường. Xe nghiêng hai bánh sang bên trái và khuất tầm nhìn. Theo sau là một xe khác, rồi một xe nữa cho đến khi đủ năm xe chở đầy lính, vũ trang đến tận răng đều tập trung nhìn vào cái gì đó trước mắt. Tôi đã thấy trong chiếc xe đầu tiên, cai ngục Magnus đang ngồi cạnh tài xế, khuôn mặt ông ta nghiêm nghị và trắng bệch.
Cha Muir thở hồng hộc: “Xin lỗi!” rồi vén chiếc áo dài linh mục lên trên đôi chân già nua, ông nhanh chóng lao xuống đường tiến đến cánh cổng đang bắn tung bụi mù. Chúng tôi thấy ông chạy đến một nhóm lính gác có vũ trang đang đứng ngay trong cổng, dừng chân nói chuyện với họ. Mấy tay lính ra hiệu về phía bên trái, nơi đó một cánh rừng rậm che phủ các chân đồi đang nằm dưới và bên cạnh nhà tù.
Linh mục quay lại với những bước chân kéo lê, đầu gục xuống, một hình ảnh thất vọng.
“Sao rồi, thưa Cha?” Tôi nóng ruột hỏi khi ông bước qua cổng đến đứng cạnh chúng tôi, những ngón tay dò dẫm sợi vải đã phai màu trên chiếc áo choàng.
Ông chẳng buồn ngẩng đầu lên. Trên gương mặt ông, tôi nghĩ mình phát hiện ra nét bối rối, đau đớn và một tổn thương nào đó không thể phân tích. Như thể ông bất ngờ bị cướp đi niềm tin, cho dù có thể là sự đau khổ về tinh thần nào đó chưa từng có tiền lệ trong trải nghiệm của ông.
“Một trong số các tên thuộc băng đảng đường phố,” ông ấp úng, những ngón tay run rẩy, “đã thoát khỏi nhà tù trong khi họ đang làm việc và… trốn đi rồi.”
Ngài Drury Lane nhìn chú mục vào những quả đồi. “Và đó là…?”
“Tôi…” Giọng vị linh mục nhỏ thó run rẩy, rồi ông ngẩng đầu lên. “Đó là Aaron Dow.”
Tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều cấm khẩu. Đó là một cú sốc quá lớn đối với bố con tôi, ít nhất sẽ không thể tiêu hóa nếu không có thời gian nghiền ngẫm. Aaron Dow vượt ngục ư? Trong số tất cả những tình huống bất ngờ, đây là tình huống ít trông đợi nhất - trong bất kỳ trường hợp nào đó là tôi. Đưa mắt nhìn quý ông già, tôi tự hỏi liệu ông có đoán trước tình huống này. Nhưng gương mặt như chạm khắc sắc sảo của ông điềm tĩnh, ông vẫn đang dò xét những ngọn đồi rộng bao la với mối ưu tư thật đẹp, như một người nghệ sĩ đang thưởng ngoạn một cảnh hoàng hôn đẹp mê hồn.
Chẳng làm được gì nữa ngoài chờ đợi, chúng tôi cùng chờ tại nhà Cha Muir cả buổi chiều. Chúng tôi rất ít trò chuyện, rất ít cười. Như thể những quý ông già này đã trở lại tâm trạng kinh hoàng của đêm qua, và cái bóng của tử thần thực sự đã phủ chụp xuống hàng hiên nhỏ. Đến mức tôi có thể hình dung chính mình trong căn phòng hành hình đáng sợ đó, ngắm nhìn Scalzi vùng thoát khỏi những sợi dây da tìm sự sống.
Cả buổi chiều chỉ có một hoạt động tẻ ngắt là vào ra khỏi nhà tù, chúng tôi nhìn trong câm lặng chẳng thu được gì. Giác quan của chúng tôi choáng váng vì cơn sốc. Vài lần vị linh mục già lao vào nhà tù tìm kiếm thông tin, nhưng lần nào ông cũng quay về mà chẳng có tin gì. Dow vẫn đang ngoài vòng pháp luật. Cả vùng thôn quê đang được lùng sục. Toàn bộ công dân của vùng này đã nhận được cảnh báo, tiếng còi không ngừng rền rĩ kêu lên. Chúng tôi hiểu rõ rằng, trong nhà tù ngay sau tiếng còi báo động đầu tiên toàn bộ tù nhân đã được lùa hết vào các xà lim, không được thả ra cho đến khi kẻ vượt ngục được bắt lại… Vào đầu buổi chiều, chúng tôi trông thấy nhóm ra ngoài lao động đã quay về. Bọn họ bước đi với những bước chân cứng nhắc dưới kỷ luật sắt, những họng súng đe dọa của nửa tá lính gác và chỉ có mười chín người - trong tốp này - tôi đếm một cách lười nhác. Tất cả họ nhanh chóng biến mất trong sân tù.
Cuối chiều những chiếc xe truy tìm bắt đầu trở về. Chiếc xe đi đầu có cai ngục Magnus ngồi. Khi tất cả lính mệt mỏi xuống xe trong cánh cổng, chúng tôi có thể thấy ông ta đang chứng tỏ uy quyền đối với một gác ngục - Gác ngục chính, Cha Muir thì thầm - bằng những tiếng quát tháo có thể nghe thấy, nhưng không thể phân biệt. Rồi với những bước chân mệt mỏi, cai ngục tiến thẳng đến chỗ chúng tôi. Ông ta chậm rãi bước lên những bậc thềm, thở hổn hển, dáng người to bè của ông ta mệt rũ. Gương mặt ông ta cáu đầy bụi lẫn mồ hôi.
“Ôi!” ông ta nói, thở dài nhẹ nhõm khi ngồi lún xuống một ghế bành. “Thằng cha đó là một rắc rối. Giờ thì ngài nghĩ thế nào về Dow quý báu của mình hả ngài Lane?”
Quý ông già đáp: “Ngay cả con chó cũng sẽ cắn lại nếu bị dồn vào đường cùng, ngài cai ngục. Thật chẳng dễ dàng gì nếu phải đối mặt với án tù, vì một tội mà anh không phạm.”
Cha Muir thì thầm: “Chẳng tìm được gì à, cai ngục?”
“Chẳng tìm thấy gì cả. Hắn ta biến mất như thể mặt đất nuốt chửng hắn. Nói cho mọi người biết - đây không phải công việc của một người. Hắn có đồng lõa. Nếu không chúng tôi hẳn đã tóm được hắn vài giờ trước rồi.”
Chúng tôi ngồi trong im lặng chẳng còn gì để nói. Khi một nhóm lính gác ngục tiến ra khỏi cổng nhà tù về phía chúng tôi, cai ngục nói nhanh: “Thưa linh mục, tôi xin mạn phép mở một cuộc điều tra nhỏ và tiến hành ngay tại đây - trên hàng hiên của ngài. Tôi không cần quan tâm đến chuyện làm nhà tù náo loạn trong các bức tường kia. Nó khó chịu lắm… Ngài không phiền chứ?”
“Không, không. Tất nhiên là không.”
“Chuyện gì thế, ngài cai ngục?” bố tôi lẩm bẩm.
Cai ngục trông chán nản. “Nhiều chuyện lắm, tôi e là vậy. Trong hầu hết trường hợp, nỗ lực vượt ngục là một âm mưu khởi phát trong tù - với sự giúp đỡ của các tù nhân khác, và những tù nhân được hưởng đặc ân riêng phải biết giữ im lặng. Những vụ đào tẩu như thế gần như luôn thất bại. Dẫu sao chăng nữa, những vụ vượt ngục là hiếm hoi lắm. Chúng tôi chỉ có hai mươi ba vụ vượt ngục trong mười chín năm, và chỉ bốn vụ trong số này không bắt lại được tù nhân. Điều đó dễ khiến tù nhân chắc mẩm rằng hắn có thể làm được điều đó, trước khi bị bắt lại. Hắn có quá nhiều thứ để mất một khi thất bại - mất đi những đặc quyền cơ bản của hắn, và điều đó nghiêm trọng đấy. Không, tôi có một suy nghĩ rằng trong vụ này…” Ông ta ngừng lời, quai hàm ông ta cứng lại. Nhóm lính gác đã đến gần các bậc thềm nhà Cha Muir và đang đứng chờ được chú ý. Tôi để ý hai người trong số này không mang vũ khí; và có điều gì đó trong cách những người còn lại vây quanh họ khiến tôi run rẩy.
“Park! Callahan! Lên đây,” cai ngục Magnus quát lên.
Hai người miễn cưỡng bước lên những bậc thềm. Khuôn mặt họ đều tái nhợt, bám đầy bụi, cả hai rất căng thẳng. Một trong hai người - tên là Park - còn sợ đến mức môi dưới của anh ta run bần bật như một đứa trẻ bị mắng.
“Đã xảy ra chuyện gì?”
Park liếm một vệt nước bọt trên môi mình, nhưng chính Callahan mới là người nói: “Hắn khiến chúng tôi mất cảnh giác, ngài cai ngục. Ngài biết nó thế nào mà. Suốt tám năm ở đây, khi dẫn tù nhân ra ngoài chúng tôi chưa thấy thằng khốn nào trốn. Chúng tôi đang ngồi trên đá, xem chúng làm việc. Dow bước xuống đường một chút, có nhiệm vụ lấy nước uống. Ai dè hắn quẳng thùng đi, bỏ chạy trối chết vào rừng. Tôi cùng Park vừa thét gọi các tù nhân còn lại nằm xuống đường, vừa đuổi theo hắn. Tôi đã bắn ba phát, nhưng tôi nghĩ là tôi…”
Cai ngục giơ tay lên, Callahan câm bặt. “Daly,” Magnus lặng lẽ nói với một trong số các lính gác ngục bên dưới, “cậu có xem xét con đường ở đó như ta bảo không?”
“Dạ có, ngài cai ngục.”
“Cậu đã tìm thấy gì?”
“Tôi đã tìm thấy hai viên đạn dẹt trong một cái cây cách nơi Dow chạy vào rừng hai mươi feet * .”
“Trên cùng mặt đường đó à?”
“Trên mặt đường bên kia, ngài cai ngục.”
“Ra vậy,” Magnus nói, cũng bằng giọng trầm điềm tĩnh. “Park và Callahan. Hai cậu đã nhận của Dow bao nhiêu để giúp hắn trốn thoát vậy?”
Callahan lắp bắp: “Tại sao chứ, ngài cai ngục, chúng tôi chưa bao giờ…”
Nhưng hai đầu gối Park lảo đảo, rồi anh ta kêu lên: “Tao đã dặn mày rồi, Callahan! Mày làm tao dính vào chuyện này, chó chết! Tao đã bảo chúng ta không thể thoát được với…”
“Hai người đã nhận hối lộ à?” Magnus ngắt lời.
Park tự vả vào mặt mình. “Vâng, ngài cai ngục.”
Tôi nghĩ rằng ngài Lane có vẻ cực kỳ khó chịu trước chuyện này, đôi mắt ông thoáng lấp lánh rồi lại chìm sâu vào suy tư.
“Kẻ nào là người trả tiền?”
“Kẻ đê tiện nào đó tại Leeds,” Park lẩm bẩm, gương mặt Callahan đầy sát khí. “Không biết tên hắn. Một kẻ trung gian cho ai đó.”
Ngài Lane phát ra một âm thanh trầm khác thường trong cổ họng, vươn người về phía trước thì thầm gì đó vào tai cai ngục. Magnus gật đầu. “Làm thế nào Dow được thông báo về những dàn xếp này?”
“Tôi không biết, ngài cai ngục, thề có Chúa là tôi không biết! Tất cả đã được lên kế hoạch rồi. Ngài cai ngục, trong tù chúng tôi không đến gần hắn. Chúng tôi chỉ được bảo rằng hắn đã được lo liệu rồi.”
“Hai cậu đã nhận được bao nhiêu?”
“Năm trăm bảng mỗi người. Tôi… Tôi không cố ý làm thế, ngài cai ngục! Vợ tôi sắp phải làm phẫu thuật, còn con tôi phải…”
“Đủ rồi,” Magnus cắt ngang, rồi hất đầu. Hai lính gác quay bước về phía nhà tù.
“Magnus,” Cha Muir căng thẳng nói, “đừng nghiệt ngã quá, đừng quan trọng hóa vụ này. Chỉ cần sa thải họ thôi là đủ. Tôi quen biết vợ của Park, cô ta thực sự có bệnh đấy. Và Callahan cũng tốt mà. Nhưng cả hai người họ đều có gia đình, ngài biết lương đây thấp thế nào…”
Magnus thở dài. “Tôi biết mà, giám mục. Nhưng tôi không thể đặt ra tiền lệ được, tôi bị trói chân trói tay lắm. Vụ này sẽ làm rung chuyển nền móng đạo đức của những lính gác ngục khác, ngài biết rằng nó sẽ ảnh hưởng ra sao đến đám đàn ông.” Ông ta phác một cử chỉ hơi lạ lùng. “Hài thật đấy,” ông lẩm bẩm. “Cái chuyện làm sao Dow được lo lót khi vượt ngục. Trừ phi Park nói dối… Một thời gian dài tôi đã nghi ngờ có rò rỉ ở đâu đó trong tù. Nhưng về cách thức, nó thông minh thật…”
Quý ông già buồn bã nhìn chăm chú mặt trời như quả cầu đỏ. “Tôi nghĩ mình có thể giúp ngài vụ này, cai ngục,” ông lẩm bẩm. “Nó thông minh như ngài nói, nhưng rốt cuộc nó lại rất đơn giản.”
“Hả?” Cai ngục Magnus chớp mắt. “Là sao?”
Ngài Lane nhún vai. “Tôi đã nghi ngờ có chỗ rò một thời gian rồi, ngài cai ngục, đơn giản đây chỉ là kết quả của việc quan sát những hiện tượng kỳ lạ nhất định. Tôi chưa từng nói điều gì và lạ lùng thay, lời giải thích lại liên quan đến bạn cũ của tôi, Cha Muir.”
Miệng đức giám mục già nua há hốc. Cai ngục Magnus nhảy dựng lên, quắc mắt đe dọa và hét lên: “Nhảm nhí! Tôi không tin chuyện đó! Tại sao chứ, linh mục là người cực kỳ…”
“Tôi biết, tôi biết,” ngài Lane nhẹ nhàng đáp. “Ngồi xuống, ngài cai ngục và bình tĩnh lại đi. Còn thưa Cha, đừng có hoảng lên thế. Ta sẽ không buộc Cha tội gì ghê gớm lắm đâu. Cho phép ta giải thích. Đã có nhiều dịp kể từ khi ta ghé qua nhà cùng bạn, ta đã quan sát thấy một chuyện kỳ lạ, ngài cai ngục - một hoàn cảnh mới nhìn qua tưởng chẳng có gì, nhưng có thể nói rằng, nó lại phù hợp với nghi ngờ rò rỉ trong tù của ngài đến nỗi ta buộc phải đưa ra kết luận rằng… Thưa Đức Cha, Cha còn nhớ chút nào về những biến cố bất thường xảy ra gần đây trong những lần Cha đến thăm thị trấn không?”
Đôi mắt nhạt của Đức Cha chìm trong suy tư; nghiêm túc nhìn chằm chằm từ phía sau cặp mắt kính dày cộp. Rồi ông lắc đầu. “Thực là… Không, ta không thể nhớ được gì hết.” Ông mỉm cười vẻ hối lỗi. “Trừ phi ngài có ý nói ta đâm sầm vào ai đó. Ngài biết đấy, ta bị cận thị rất nặng mà, ngài Lane, và ta e rằng cả hơi đãng trí nữa…”
Quý ông già mỉm cười. “Chính xác. Cha bị cận thị, đãng trí và trong những lần đến thăm thị trấn, ngài đã đâm sầm vào người ta trên phố. Lưu ý chuyện đó, ngài cai ngục. Ta đã nghi ngờ chuyện này một thời gian dù ta không biết chính xác thủ đoạn phạm tội. Thưa Cha, chuyện gì xảy ra khi Cha đâm sầm vào… à… người bộ hành vô tội nào đó?”
Cha Muir bối rối. “Ý ngài là sao? Ta nghĩ là người ta sẽ luôn tử tế và tôn trọng bộ trang phục của ta, vì đôi khi ta đánh rơi cái ô, cái mũ hay cuốn kinh nhật tụng xuống vỉa hè…”
”Ha! Cuốn kinh nhật tụng của Cha ư? Đúng như tôi nghĩ. Và những con người tử tế, đang tôn trọng này làm gì với cái ô, hay cuốn kinh nhật tụng của Cha?”
“Ờ, thì họ nhặt lên và trả lại cho ta.”
Ngài Lane cười thầm. “Ngài cai ngục, giờ thì ngài đã thấy vấn đề này cơ bản thế nào chưa. Những con người tử tế nhặt cuốn kinh nhật tụng của Cha lên, thưa Cha, giữ lại nó rồi tráo bằng cuốn khác. Một cuốn kinh trông gần giống như thế, nhưng không phải! Và ta e rằng, trong cuốn kinh nhật tụng bị đánh tráo kia là những thông điệp, và đích thân cha sẽ mang chúng vào trong tù. Hoặc bên trong cuốn kinh nhật tụng khách bộ hành tử tế của Cha trân trọng đó mang thông điệp từ nhà tù ra thế giới bên ngoài!”
“Nhưng làm sao ngài phát hiện ra chuyện này?” Cai ngục lẩm bẩm.
“Có gì thần kỳ đâu,” quý ông già mỉm cười. “Tôi đã quan sát vài lần trong khi Đức Cha tốt bụng đây rời nhà này, hoặc rời nhà tù với cuốn kinh nhật tụng hơi bị sờn. Nhưng khi quay về ông ta luôn mang theo một cuốn kinh sáng bóng, rõ ràng là còn mới. Cuốn kinh của ông ta dường như không bao giờ cũ đi, mà luôn có vẻ ngoài mới coóng như phượng hoàng bất tử vậy. Dĩ nhiên, suy luận đó là không thể tránh khỏi.”
Cai ngục Magnus lại nhảy dựng lên, đi lại trên hàng hiên với những sải chân dài. “Tất nhiên, đúng là chiêu thông minh chết tiệt. Nào, nào linh mục, Cha không cần phải trông hoảng lên như thế. Không phải lỗi của Cha đâu. Thế Cha nghĩ kẻ nào nghĩ ra được chiêu này vậy hả?”
“Ta… ta chẳng biết gì hết,” linh mục yếu ớt nói.
“Tabb, dĩ nhiên rồi!” Ông ta quay sang chúng tôi. “Tabb là khả năng duy nhất. Ngài thấy đấy, Cha Muir ngoài việc là Cha tuyên úy thì còn phụ trách thư viện trong tù - vốn là điều bình thường trong các nhà tù lớn. Cha có một tù nhân tên Tabb làm trợ lý - một trong số những tù nhân được hưởng đặc ân của chúng tôi, đúng là như thế; nhưng tội phạm thì vẫn là tội phạm thôi, và Tabb chắc phải lợi dụng linh mục như một thứ công cụ. Làm trung gian giữa các tù nhân với những kẻ bên ngoài, được trả khá hậu đối với mỗi mảnh thư, mảnh giấy được gửi và nhận. Ôi, giờ chuyện đó thành bình thường rồi! Cảm ơn một ngàn lần, ngài Lane, tôi sẽ phải mắng chửi thằng khốn kia một trận ra trò.”
Và với đôi mắt sáng rực, cai ngục nhanh chóng quay lại nhà tù.
Những ngón tay dài màu đen ánh xanh phủ xuống những ngọn đồi, bóng tối bắt đầu buông. Cùng với hoàng hôn xuống, hầu hết những người truy tìm của nhà tù đã trở về, những ánh đèn pha của họ làm chộn rộn con đường; nhưng họ đều ra về tay trắng. Dow vẫn đang được tự do.
Chúng tôi chẳng còn việc gì để làm ngoài quay về nhà Clay hoặc đợi chờ, chúng tôi chọn đợi chờ. Bố tôi gọi cho Elihu Clay bảo không cần lo lắng cho chúng tôi. Cả hai bố con tôi cảm thấy không thể rời khỏi vùng lân cận Algonquin, nếu không biết kết quả cuộc săn người. Và thế khi bóng tối càng trĩu nặng, chúng tôi ngồi túm tụm lại bên nhau, chẳng nói gì và có lúc tôi đã nghĩ mình nghe thấy tiếng sủa của lũ chó săn…
Vấn đề của Tabb vô đạo chẳng khiến chúng tôi phiền nhiễu mấy - Cha Muir là ngoại lệ. Ông buồn phiền, không chịu tin vào điều xấu xa của một “thanh niên trẻ tốt bụng, quan tâm đến những cuốn sách của chúng ta như thế, và là người ham đọc sách như thế,” như khắc họa tính cách một phó thủ thư vậy. Sau đó vào lúc khoảng mười giờ - chúng tôi vẫn chưa hề ăn gì kể từ bữa trưa, nhưng không ai cảm thấy đói - linh mục, bồn chồn, áy náy không thể chịu đựng thêm nữa bèn xin lỗi và rảo bước xuống đường về phía nhà tù. Và khi quay về ông ở trong một tâm trạng đau buồn. Ông xua tay tỏ ý không muốn được an ủi, gương mặt ông bắt đầu chuyển sang trạng thái mà tôi e là sẽ biến thành nét kinh ngạc lâu dài, như thể với trái tim nhẹ nhàng của mình, ông không còn tin rằng tất cả những bong bóng niềm tin lạc quan, tươi vui của mình vào những con người này đã bị thực tế nghiền nát một cách tàn nhẫn.
“Ta vừa mới gặp Magnus,” ông thở hổn hển, ngồi lún xuống ghế. “Đúng thế, đúng thế! Tabb… ta không thể hiểu nổi, thật đấy, thật đấy, cái gì đã chiếm hữu những chàng trai tốt bụng này!… Tabb đã thú nhận rồi.”
“Hắn đã lợi dụng Cha à?” bố tôi nhẹ nhàng hỏi.
“Phải, à phải! Đáng sợ thật. Ta đã gặp cậu ta một lúc, cậu ta bị tước hết chức vụ và đặc quyền. Magnus đã… ôi, cũng thích đáng thôi, chẳng nghi ngờ gì nữa, nhưng dường như cứng rắn quá - cậu ta bị gửi trả về Hạng C. Cậu ta không dám nhìn thẳng vào mắt ta. Làm sao cậu ta lại có thể…”
“Hắn đã chuyển cho Aaron Dow bao nhiêu tin nhắn?” ngài Lane lẩm bẩm, “Hắn có nói không?”
Cha Muir nhăn nhó. “Có. Dow chỉ gửi một tin nhắn thôi - vài tuần trước đến thượng nghị sĩ Fawcett. Nhưng Tabb không biết nội dung của nó. Có một hoặc hai tin nhắn tiếp theo nữa. Ngài thấy đấy, thật kinh ngạc - cậu ta đã đang làm cái nghề phụ sinh lời này được nhiều năm rồi. Cậu ta vừa thấy rằng một tin nhắn được lấy ra khỏi cuốn kinh nhật tụng mới khi ta… ta mang nó vào. Nó được khâu vào trong lớp lót… hoặc tin nhắn được nhét vào trong cuốn kinh nhật tụng cũ khi ta chuẩn bị ra về. Cậu ta nói cậu ta không hề biết nội dung tin nhắn đó là gì. Ôi trời ơi…”
Tất cả chúng tôi ngồi đó và đợi chờ cái điều chúng tôi e rằng sẽ xảy ra. Liệu họ có tìm được tù nhân bỏ trốn không? Dường như không có khả năng hắn có thể thoát khỏi tay các lính gác ngục.
“Mấy tên lính có nói với nhau,” Cha Muir run rẩy nói, “chuyện thả chó ra.”
“Cháu nghĩ mình nghe thấy chúng - đang sủa,” tôi thì thầm. Tất cả chúng tôi cùng im lặng. Mấy phút đã trôi qua. Từ khi đám tù nhân quay về, những tiếng quát lác và những chùm đèn chiếu điên loạn lên bầu trời. Cả buổi tối, mấy chiếc xe liên tục vào ra khỏi sân tù, vài xe thẳng tiến lên con đường xuyên rừng, vài xe gầm rú lao qua cửa nhà Cha Muir. Có lần chúng tôi thực sự trông thấy một người mặc đồ đen, đang nắm chắc rất nhiều sợi xích được tròng vào cổ những con chó tàn ác đáng sợ.
Từ lúc quá mười giờ một chút, khi linh mục quay về cho đến nửa đêm, chúng tôi ngồi bất động trên hàng hiên; và dường như đối với tôi, đằng sau lớp mặt nạ của mình, ngài Drury Lane đang đấu tranh với một niềm tin nào đó, khiến ông không thể nắm bắt được rõ ràng. Ông không nói gì, nhưng trầm tư nhìn lên bầu trời đêm bằng con mắt nhắm hờ, những ngón tay của ông đan vào nhau trước mặt. Dường như đối với ông chúng tôi không hiện hữu. Có phải trước kia từng có lần Aaron Dow rời khỏi nhà tù Algonquin, và một người đã chết? Phải chăng ông đang cố nắm bắt điều đó? Tôi nghĩ mình có thể nói điều gì đó…
Sự gián đoạn đến thật nhanh vào lúc nửa đêm, như thể được dàn xếp trước bởi những vị thần may rủi. Một chiếc xe với tiếng động cơ gầm rú leo lên đồi từ hướng Leeds, phả khói ra rồi dừng lại ngoài cổng nhà. Chúng tôi đứng dậy ngay lập tức, chẳng ai bảo ai thò cổ vào trong bóng tối.
Một người đàn ông nhảy ra khỏi xe từ ghế sau, lao như bay trên lối đi lên hàng hiên.
“Thanh tra Thumm? Ngài Lane?” anh ta kêu lên.
Đó là công tố viên John Hume, quần áo xốc xếch, trong tình trạng kích thích thở hổn hển.
“Chuyện gì thế?” bố tôi càu nhàu.
Hume bỗng ngồi phịch xuống bậc thềm thấp nhất. “Tôi có tin cho mọi người đây. Tất cả mọi người… Các người vẫn nghĩ Dow vô tội đúng không?” anh ta nói thêm, như thể suy nghĩ đến sau.
Drury Lane bước lên một bước ngắn, nhát một, rồi dừng lại. Trong ánh sao mờ mờ, tôi trông thấy đôi môi ông mấp máy không thành tiếng. Rồi ông nói bằng giọng khàn và thấp. “Ý cậu không phải là…”
“Ý tôi muốn nói,” Hume lẩm bẩm, giọng anh ta mệt mỏi, cay đắng và phẫn nộ. Như thể anh ta xem chuyện đã xảy ra là một sự lăng mạ đối với riêng mình. “Ý tôi là bạn của các người, Aaron Dow đã trốn thoát khỏi nhà tù Algonquin chiều nay, và tối hôm nay - mới vài phút trước thôi - bác sỹ Ibra Fawcett được phát hiện đã bị giết rồi!”