Chương 16 Mảnh Ghép Cuối Cùng
Bây giờ nó xảy ra rồi. Ngay từ đầu tôi thấy đây là chuyện không tránh khỏi. Tôi đã nghĩ đến mọi chuyện xung quanh nó, thế nhưng vẫn chưa đụng được vào cốt lõi. Còn với quý ông già, vụ án đã diễn tiến theo chiều hướng tệ hại cho ông. Ông không bao giờ tự tha thứ cho mình vì đã liều mạng thử Aaron Dow trong nhà lao hạt Leeds, mà không có các nhân chứng trung lập; và bây giờ, khi chúng tôi ngồi trong xe của ông do Dromio lái, đi theo chiếc xe sấm sét của Hume lao xuống đồi trong bóng tối, ông cúi gằm mặt xuống ngực tiêu hóa sự thật cay đắng vụ giết bác sỹ Fawcett mà ông lẽ ra phải biết trước và ngăn chặn.
“Nói cậu biết,” ông buồn tẻ nói, “lẽ ra tôi không nên tới đây chút nào. Cái chết của Fawcett được bắt nguồn từ những thông tin. Tôi đúng là thằng ngu mù quáng…”
Ông không nói gì nữa, chúng tôi không biết phải nói gì để an ủi ông. Tôi thì đau khổ, bố tôi chìm trong màn sương mù dày đặc nhất. Cha Muir không đi cùng chúng tôi; cú đánh cuối cùng quá sức chịu đựng của ông. Chúng tôi đành bỏ ông lại trong phòng khách, nhìn trừng trừng cuốn Kinh Thánh với đôi mắt khiếp đảm.
Một lần nữa chúng tôi rẽ vào đường xe vào nhà tối thui, nhìn thấy tòa lâu đài sáng bừng những ngọn đèn, những người lính và cảnh sát đi lại xung quanh, bước qua ngưỡng cửa dường như trở thành bàn đạp định mệnh của những kẻ giết và bị giết.
Hầu như không thay đổi gì, chúng tôi có lẽ đã quay trở về với hiện trường đầu tiên vài tháng trước. Có cảnh sát trưởng Kenyon lực lưỡng, vây quanh lão ta là các thanh tra nghiêm nghị khác; có một căn phòng ở tầng trệt; và có một người chết…
Tuy nhiên, bác sỹ Ira Fawcett không bị giết trong phòng làm việc của thượng nghị sĩ. Chúng tôi tìm thấy xác ông ta đang nằm trên tấm thảm trải sàn trong phòng khám bệnh, biến dạng vì cái chết. Ông ta nằm cách bàn làm việc vài mét, nơi mới tối hôm qua, chính mắt tôi nhìn thấy ông ta đang xem xét mảnh gỗ nhỏ nhắn vô tội kia, có thể đó chính là mảnh giữa của một cái rương nhỏ. Chòm râu đen ngắn, nhọn, gọn gàng và bóng mượt của ông ta hoàn toàn nổi bật trên cái cằm hơi xanh xao; ông ta nằm ngửa tay chân dang rộng, hai mắt mở to đờ đẫn nhìn trừng trừng trần nhà. Ngoại trừ chân tay ở tư thế rối loạn cứng nhắc, trông ông ta chẳng khác gì vua Pharaon ở Ai Cập đang nằm đó suy tư về sự vĩnh hằng.
Từ bên ngực trái, thòi ra cái cán tròn của một vật trông giống con dao, tôi nhận ra nó là một dụng cụ phẫu thuật nào đó.
Tôi yếu ớt tựa người vào bố tôi, cảm thấy ông ôm lấy cánh tay tôi trấn an. Lịch sử đang lặp lại chính nó. Trong lớp sương mù gây buồn nôn trước mắt, tôi nghe thấy những tiếng nói và nhìn thấy những gương mặt quen thuộc. Có bác sỹ Bull nhỏ nhắn, người giám định pháp y, quỳ xuống bên cạnh cái xác bất động đang nằm ngửa, những ngón tay nhanh nhẹn của ông ta đang khám phá. Kenyon cau có như ông già nhìn lên trần nhà. Và đang tựa vào bàn làm việc, cái đầu hói hồng hào bóng nhẫy mồ hôi, đôi mắt già thông minh hiểm ác bối rối và sợ hãi, là Rufus Cotton, thần hộ mệnh về chính trị của John Hume.
“Rufe!” Công tố viên kêu lên. “Chuyện này là sao? Ông phát hiện ra ông ta à?”
“Phải. Tôi… Trời ơi, trời ơi.” Vị chính trị gia già cả rút khăn tay lau cái sọ bóng loáng. “Tôi đã ghé qua… à… bất ngờ thôi, John. Không hề có hẹn trước. Để nói về một số… một… một số chuyện với bác sỹ Fawcett. Chiến dịch, cậu biết đấy. Và… Chúa ơi. John, đừng nhìn tôi kiểu đó!… Tôi thấy ông ta đã chết rồi, đúng như bây giờ cậu thấy đấy.”
Hume nhìn thẳng như khoan vào Rufus Cotton một lúc, với xúc cảm cay đắng, rồi thì thầm: “Được rồi, Rufe. Tôi sẽ không đi sâu vào các vấn đề cá nhân bây giờ. Ông tìm thấy ông ta lúc mấy giờ?”
“Thôi mà, John, làm ơn đừng xem nó…”
“Ông tìm thấy ông ta lúc mấy giờ?”
“Mười một giờ bốn mươi nhăm, John… Căn nhà này hoàn toàn vắng hoe! Tất nhiên, tôi gọi cho Kenyon ngay lập tức…”
“Ông có chạm vào cái gì không?” bố tôi gặng hỏi.
“Nói thật là không.” Ông già dường như run rẩy dữ hơn; không còn quả quyết nữa, đứng tựa hẳn vào bàn làm việc, lảng tránh ánh mắt Hume.
Ngài Drury Lane với đôi mắt đang khám phá từng đường nứt của căn phòng, lúc này nhẹ bước đến bên cạnh bác sỹ Bull khẽ cúi người xuống. “Tôi cho rằng ông là người giám định pháp y? Bác sỹ, người này đã chết được bao lâu rồi?”
Bác sỹ Bull cười toét. “Lại người nữa nhỉ? Từ vài phút sau mười một giờ. Khoảng mười phút sau mười một giờ.”
“Ông ta có chết ngay không?”
Bác sỹ Bull liếc mắt lên cao. “À… khó nói lắm. Có thể ông ta ngắc ngoải được một lúc.”
Quý ông già nhìn chằm chằm. “Cảm ơn ngài.” Nói xong ông đứng thẳng dậy bước đến bàn làm việc, đứng đó xem xét những thứ trên bàn với gương mặt vô cảm.
Kenyon quát ầm ầm: “Đã nói chuyện với người hầu chưa, Hume? Bác sỹ Fawcett đầu buổi tối nay đã đuổi hết họ khỏi nhà. Khôi hài thật, đúng không? Giống hệt ông anh trai.”
Bác sỹ Bull đứng dậy, đóng lại cái túi màu đen của mình. “Chà,” ông ta nói nhanh, “Điều này chẳng có gì bí ẩn hết. Một vụ án mạng đòi hỏi kỹ năng. Hung khí là một lưỡi trích, cách gọi khác của dao mổ trong ngành y tế. Được dùng để tạo ra những đường rạch rất nhỏ.”
“Nó được lấy từ cái khay này trên bàn làm việc,” ngài Lane trầm tư nói.
Bác sỹ Bull nhún vai. Có vẻ thế. Trên bàn làm việc là một cái khay tráng cao su đựng một nhóm lộn xộn các dụng cụ phẫu thuật trông đã cũ. Rõ ràng bác sỹ Fawcett đã có dự định tiệt trùng đống này bằng dụng cụ tiệt trùng nằm trên một chiếc bàn gần đó; cái nồi đấy vẫn đang sôi sùng sục. Bác sỹ Bull nhanh chóng bước qua tắt nó đi. Căn phòng đang bắt đầu hiện rõ ra; tôi thấy đó là một văn phòng y tế được trang bị tối tân, với một bàn khám bệnh đặt trong góc, một đèn huỳnh quang nghiệm to đùng, một máy chụp X-quang và vô số những máy móc hổ lốn khác mà tôi chẳng hiểu là máy gì.
Trên mặt bàn làm việc, ngoài cái khay, có một túi đồ nghề y tế màu đen đang mở nắp, khá giống túi đồ nghề của bác sỹ Bull. Dòng chữ Bác sỹ Y khoa Ira Fawcett được in ngay ngắn trên túi.
“Chỉ có một vết thương,” bác sỹ Bull nói tiếp, xem xét kỹ lưỡng hung khí ông đã rút ra khỏi xác chết trong khi khám nghiệm. Hung khí có một lưỡi mỏng dài, đầu trông hơi giống lưỡi câu; bề mặt thép suốt chiều dài con dao có màu đỏ sẫm. “Món này trông khó coi nhưng hiệu quả đấy, Hume. Khiến máu chảy ra xối xả, như cậu có thể thấy.” Ông ta hất đầu về phía người chết, chúng tôi trông thấy một vệt máu lan rộng trên mặt thảm trải sàn rất gần xác chết, như thể máu bắn ra từ vết thương qua quần áo nhỏ tong tỏng xuống sàn. “Thực ra, lưỡi dao đã làm gãy một xương sườn, vết thương kinh khủng, đúng vậy.”
“Nhưng mà…” Hume nóng ruột vừa bắt đầu thì Drury Lane nheo mắt lại, quỳ xuống bên cạnh người chết, giơ cánh tay phải lên và xem xét kỹ lưỡng.
Ông ngước mắt lên. “Cái gì đây?” ông hỏi. “Ngài có thấy cái này không, bác sỹ Bull?”
Người giám định pháp y hờ hững nhìn xuống. “À cái đó! Đúng, nhưng nó chẳng quan trọng gì đâu. Không phải vết thương, nếu đó là điều ngài muốn biết.” Chúng tôi trông thấy ở mặt dưới cổ tay bên phải bác sỹ Fawcett có ba dấu mờ mờ đỏ như máu, gần như là hình ô van nằm sát cạnh nhau. “Lưu ý là ở phía trên động mạch.”
“Phải, tôi lưu ý rồi,” ngài Lane đáp khô khốc. “Quan trọng đấy, bác sỹ, bất chấp ý kiến chuyên gia của ngài thế nào.”
Tôi chạm vào cánh tay quý ông già. “Ngài Lane,” tôi kêu lên, “trông như những ngón tay của ké sát nhân. Sau khi thực hiện cú đâm giết người, hắn đã bắt mạch nạn nhân.”
“Tuyệt hảo, Patience.” ông mỉm cười yếu ớt. “Đó chính xác là điều ta đang nghĩ. Tại sao hắn làm thế?”
“Để chắc chắn bác sỹ Fawcett đã chết,” tôi ngập ngừng thăm dò.
“À, dĩ nhiên rồi,” công tố viên ngắt lời. “Điều này dẫn cô tới đâu? Quay lại làm việc thôi Kenyon. Bác sỹ Bull, ngài sẽ tiến hành khám nghiệm đúng không? Chúng tôi muốn chắc chắn sẽ không bỏ lỡ điều gì.”
Tôi nhìn gương mặt đã chết của bác sỹ Fawcett lần cuối, trước khi bác sỹ Bull phủ tấm vải lên cái xác trong khi chờ Phòng Phúc lợi công cho xe đến. Gương mặt ấy không đáng sợ nữa, mà mang nét gớm ghiếc và vì lý do nào đó, là nét ngạc nhiên.
Nhóm lấy dấu vấn tay bắt đầu vào việc. Kenyon bước nặng nề, rống lên những mệnh lệnh. John Hume kéo Rufus Cotton sang một bên. Tiếp theo Drury Lane khẽ thốt lên một tiếng, tất cả ngẩng phắt đầu lên; lúc này ông đã quay lại bàn làm việc, trong tay đang cầm một thứ rõ ràng ông đã phát hiện dưới đống giấy tờ.
Đó là mảnh rương tôi đã thấy bác sỹ Fawcett đang xem xét một cách đầy hung bạo đêm qua.
“Ha!” Ngài Lane nói. “Thật ngưỡng mộ. Tôi khẳng định rằng nó sẽ đến đây. Nào, Patience, cháu nghĩ gì về nó?”
Giống như mảnh đầu tiên chúng tôi đã thấy, tức là mảnh rương bị cưa. Nhưng lần này cả hai mặt bên đều hở, rõ ràng nó là phần trung tâm của rương. Trên bề mặt rương là hai chữ cái viết hoa mạ vàng, giống mảnh rương đầu tiên. Nhưng lần này là hai chữ JA .
“Đầu tiên là HE ,” tôi lẩm bẩm, “còn giờ là JA . Ngài Lane, cháu thừa nhận cháu hoàn toàn không hiểu nổi.”
“Thật lố bịch,” Hume giận dữ thốt lên. Anh ta nghển cổ dòm qua vai bố tôi. “ HE là thằng quái nào? Còn JA nữa…”
“Trong tiếng Đức JA có nghĩa là “đồng ý”,” tôi lẩm bẩm, không quá hy vọng.
Hume khịt mũi. “Giờ thì hiểu rồi à?”
“Patience, cháu yêu của ta,” quý ông già nói, “đây là một đầu mối quan trọng sống còn. Lạ thật, lạ thật!” Ông nhìn quanh căn phòng thật nhanh, tìm kiếm gì đó. Đôi mắt ông vụt sáng lên. Ông lao đến góc phòng, trên giá sách nhỏ có một cuốn từ điển to khổ lớn. Hume cùng bố tôi há hốc mồm nhìn ông, nhưng giờ thì tôi biết ông muốn tra cái gì. Tôi nghĩ rất lung và rất nhanh. H - E - J - A…. Chắc chắn là thế, vì tôi không thể nghĩ ra hai nhóm từ này nghĩa là gì nếu tách riêng nhau ra. Thế nên nó chắc phải là một từ. H-E-J-A… Nhưng tôi tin chắc sẽ chẳng có từ nào như thế.
Ngài Lane chậm rãi đóng cuốn từ điển lại. “Dĩ nhiên,” ông nhẹ nhàng nói. “Đúng như ta nghĩ.” Ông cắn môi, bắt đầu rảo bước lên xuống trước mặt xác chết, đôi mắt khó hiểu. “Xét theo hình dạng hai mảnh rương liền một khối,” ông thì thầm, “Tôi nghĩ… thật không may chúng ta không có được mảnh đầu tiên ấy…”
“Ai bảo không có?” Kenyon cười chế nhạo. Trước sự ngạc nhiên của tôi, lão ta thọc tay vào túi lấy ra mảnh ban đầu. “Cứ nghĩ rằng lúc nào đấy nó sẽ có ích, điên rồ là đúng thật. Trước khi đến đây thế nào lại lôi nó ra từ đống hồ sơ tại Trụ sở.” Lão ta trao mảnh rương cho quý ông già một cách lơ đễnh.
Ngài Lane nắm chặt nó trong những ngón tay thèm khát. Ông cúi xuống bàn làm việc, dựng đứng hai mảnh rương lên theo đúng thứ tự. Đến lúc này đã rõ ràng đây là chiếc rương thu nhỏ bằng gỗ, thêm cả những móc khóa kim loại nhỏ. Các chữ cái vừa khít với nhau tạo thành một từ: HEJA . Vì bốn chữ cái này không tạo nên một từ hoàn chỉnh, một ý nghĩ tuyệt vời chợt lóe trong tôi.. Phải có một hoặc nhiều chữ cái nữa, vì hẳn nhiên là nếu một từ được sơn lên rương, hẳn người thợ phải sơn nó dọc suốt chiều dài rương. Nhưng với chữ A xuất hiện ở vị trí trung tâm, phần chữ sơn hẳn sẽ lệch tâm nếu không còn chữ nào thêm vào đó.
Ngài Lane lẩm bẩm: “Từ những gì chúng ta tạo nên ở đây, giờ tôi hiểu rằng chỉ còn một mảnh nữa để hoàn chỉnh mô hình một cái rương. Việc tra cuốn từ điển to kia đã khẳng định nghi ngờ của tôi. Chỉ có một từ trong từ điển tiếng Anh bắt đầu bằng H-E-J-A.”
“Không thể nào!” Hume ngắt lời. “Tôi chưa từng nghe đến nó.”
“Không nhất thiết phải tương tự về nghĩa,” Ngài Lane nói, cười nhẹ. “Tôi nhắc lại: chỉ có một từ trong từ điển tiếng Anh bắt đầu bằng H-E-J-A. Và nó không hề là một từ tiếng Anh, mà là một từ bị Anh hóa.”
‘Là từ gì ạ?” Tôi chậm rãi hỏi.
“Hejaz.”
Tất cả chúng tôi cùng chớp mắt, như thể ông vừa thốt ra một câu thần chú u mê nào đó. Hume càu nhàu: “Thưa ngài, cứ cho là đúng đi, thì cái từ quái quỷ này nghĩa là gì?”
“Hejaz,” quý ông già bình thản lặp lại, “là một vùng ở Ả Rập Xê Út. Và thật lạ kỳ, thủ phủ của Hejaz là Mecca.”
Hume giơ hai tay lên. “Tiếp theo là gì đây, ngài Lane? Đây là điều vớ vẩn kinh khủng đấy, ngài biết không. Ả Rập! Mecca!”
”Vớ vẩn sao ngài Hume? Không hề đâu, khi cái chết của hai người này liên quan đến nó,” Ngài Lane khô khốc nói. “Nó quái lạ, tôi thừa nhận, nếu ngài chấp nhận giải thích theo nghĩa đen cái từ liên quan đến Ả Rập hay người Ả Rập. Nhưng tôi không biết rằng đó là con đường tất yếu của tội ác. Tôi có những ý niệm lạ kỳ nhất…”
Ông chợt im lặng, rồi lặng lẽ nói tiếp: “Chúng ta vẫn chưa xong đâu, ngài biết đấy Hume.”
“Chưa xong?”
Đôi mày bố tôi nhướng lên. “Ý ngài là chúng ta sắp có một án mạng nữa?” ông hoài nghi hỏi. Quý ông già chắp hai tay sau lưng. “Có vẻ sẽ như thế, không đúng sao? Đầu tiên chúng ta có án mạng, nạn nhân trước khi chết nhận được một mảnh rương có chữ HE ; sau đó là một án mạng nữa, nạn nhân trước khi chết nhận được một mảnh rương có chữ JA …”
“Vậy là ai đó sẽ nhận được mảnh rương cuối cùng rồi bị khử à?” Kenyon hỏi với tiếng cười khô khốc.
“Không nhất thiết.” Ngài Lane đáp rồi thở dài. “Nếu những hành vi trước kia không có ý nghĩa gì, có vẻ một cá nhân thứ ba sẽ nhận được mảnh rương cuối. Trên mảnh rương đó sẽ sơn chữ Z , và mạng sống người đó sẽ bị cướp đi. Nói cách khác, là một dạng án mạng chữ Z .” Ông mỉm cười. “Nhưng trong trường hợp này, tôi không dám chắc chúng ta sẽ có thể tin điều đó. Điều quan trọng,” ông nói câu cuối bằng giọng sắc lạnh, “đó là một người thứ ba có liên quan, người cuối cùng trong nhóm tam hùng được tượng trưng trong hai vụ thượng nghị sĩ Fawcett và bác sỹ Fawcett.”
“Làm sao ngài biết điều này?” bố tôi hỏi.
“Rất đơn giản. Tại sao cái rương bị cắt làm ba phần ngay từ đầu? Rõ ràng vì nó mang nghĩa là được gửi đến cho ba người.”
“Kẻ thứ ba là Dow,” Kenyon càu nhàu. “Mọi người đã nói gì - hắn gửi đi đúng không? Hắn đã dành mảnh cuối cùng cho chính mình.”
“À, đó là điều vớ vẩn nhất, Kenyon,” ngài Lane nhẹ nhàng nói. “Không phải Dow.”
Và đó là tất cả những gì ông nói về cái rương. Từ biểu hiện trên nét mặt họ, tôi có thể thấy cả cảnh sát trưởng Kenyon cũng như John Hume đều không tin vào giải thích của ông về cái rương, ngay cả bố tôi cũng có vẻ hoài nghi.
Ngài Lane bặm môi lại, đột ngột lên tiếng: “Các quý ông, lá thư. Nó đâu rồi?”
“Thế quái nào…?” Kenyon bắt đầu, đôi môi như cao su của lão há hốc.
“Thôi đi ông. Chúng ta đang phí thời gian đấy. Ông đã tìm thấy chưa?”
Câm lặng lắc đầu, Kenyon lôi từ trong túi ra một mảnh giấy nhỏ gấp tư rồi trao cho quý ông già. “Tìm thấy nó trên bàn làm việc,” lão lẩm bẩm ngu ngốc. “Sao ngài biết nó ở đó?”
Đó là mảnh giấy tôi đã thấy trên bàn bác sỹ Fawcett, bên cạnh mảnh giữa cái rương đêm hôm qua.
“Ha!” Hume thốt lên, giật mẩu giấy khỏi tay ngài Lane. “Ý tưởng lớn gì thế này Kenyon? Tại sao ông không hề nói với tôi về cái này?” Anh ta bặm môi thành tiếng. “Mà dù sao chúng ta lại quay về vạch xuất phát.”
Thông điệp được viết bằng mực, chữ viết thường; giấy bẩn thỉu như thể đã được dùng nhiều. Hume đọc to thông điệp lên:
Đã chốt kế hoạch vượt ngục vào chiều thứ Tư. Vượt ngục trong khi ra ngoài lao động với nhóm. Lính gác đã lo xong. Tìm thức ăn, quần áo trong ba lô tôi đã dặn trong mẩu giấy trước. Ẩn mình, qua đây vào thứ Tư, 11h30 đêm. Tôi sẽ ở một mình, chuẩn bị sẵn tiền. Vì Chúa cẩn thận đấy.
I.F.
“Ira Fawcett!” Công tố viên thốt lên. “Chà, chà! Lần này nhất định chúng ta tóm được Dow rồi. Vì lý do điên rồ nào đó, Fawcett lại dàn xếp vụ vượt ngục của Dow, mua chuộc lính gác ngục…”
“Để xem nó có nằm trong nắm tay của Fawcett không?” bố tôi càu nhàu. Ngài Lane nhìn theo với nỗi u buồn, vẻ thích thú dường như không còn.
Các mẫu chữ viết tay của bác sỹ Fawcett được đưa ra. Cho dù không ai có mặt ở đây đủ trình độ như một chuyên gia chữ viết, một người bình thường cũng đủ tự tin nói rằng đây đích thực là chữ viết của bác sỹ Fawcett.
“Lá mặt lá trái,” cảnh sát trưởng Kenyon cay cú nói. “Có một đường dây từ đây. Tôi vừa định đợi anh, Hume, để gây bất ngờ cho anh. Dow há miệng ngậm tiền, giết chết Fawcett sau đó cao chạy xa bay.”
“Hơn nữa,” bố tôi nói bằng giọng châm biếm, “tôi cho rằng hắn cố tình để lại mẩu giấy này để ta tìm thấy.”
Vẻ chế nhạo biến mất trên gương mặt Kenyon. Nhưng tay công tố viên vẫn giữ vẻ mặt lo lắng đến hàng tá lần trong vụ này.
Kenyon ngu xuẩn nói tiếp. “Tôi đã gọi cho bên ngân hàng trước khi anh tới, Hume. Không một kẻ nào được phỗng tay trên của tôi hết. Thưa ngài thông tin ngọt ngào lắm đấy. Sáng hôm qua, bác sỹ Fawcett đã rút hai mươi nhăm nghìn đô la Mỹ khỏi tài khoản của mình, số tiền này không nằm trong nhà nữa.”
“Ngài nói là sáng hôm qua?” Ngài Lane bất ngờ thốt lên. “Kenyon, ngài chắc chứ?”
“Nghe này,” Kenyon càu nhàu, “khi người ta nói hôm qua…”
“Ồ, đây là điều quan trọng bậc nhất,” quý ông già lẩm bẩm. Tôi chưa từng thấy ông thực sự phấn khích hơn thế. Đôi mắt ông lấp lánh, đôi má ông đỏ bừng lên như thanh niên. “Dĩ nhiên ý ngài là sáng thứ Tư, không phải sáng thứ Năm?”
“Chết tiệt, phải,” Kenyon khó chịu đáp.
“Nghĩ về chuyện đó đi,” Hume lầm bầm, “mảnh giấy này nói Dow sẽ vượt ngục vào ngày thứ Tư. Nhưng hôm nay hắn mới làm thế. Vào ngày thứ Năm. Thật khôi hài, đúng thế.”
“Hãy nhìn mặt kia tờ giấy,” Ngài Lane nhẹ nhàng khuyên, ông sở hữu đôi mắt cực kỳ sắc sảo, nhìn ra được thứ tất cả chúng tôi đã bỏ qua.
Hume lập tức lật mặt kia tờ giấy. Có một thông điệp thứ hai, được viết bằng bút chì, viết hoa - phong cách quen thuộc như tờ giấy đầu tiên chúng tôi tìm thấy của thượng nghị sĩ Fawcett đã rất lâu trước kia. Mẩu giấy có viết:
Không thể vượt ngục vào thứ Tư. Sẽ vượt ngục vào thứ Năm. Chuẩn bị cho tôi số tiền nhỏ vào thứ Năm. Gặp nhau buổi tối.
AARON DOW
“Ôi!” Hume nói, nhẹ nhõm. “Thế thì rõ ràng rồi. Dow đã tuồn tin nhắn này ra khỏi Algonquin, cũng dùng đúng mảnh giấy Fawcett đã gửi cho hắn, có thể khiến Fawcett biết rằng tin nhắn này là thật. Tại sao hắn lại muốn trì hoãn không quan trọng nữa - có lẽ là do điều gì đó trong tù khiến hắn quyết định chờ thêm một ngày, hoặc hắn chết nhát và muốn chờ thêm ngày nữa cho can đảm. Có phải ngài muốn nói thế không ngài Lane? Khi ngài cho rằng chi tiết bác sỹ Fawcett đi rút tiền hôm thứ Tư là quan trọng?”
“Không hề,” ngài Lane đáp.
Hume nhìn chằm chằm một lúc rồi nhún vai. “Giờ thì đây là vụ án rõ rành rành, chẳng nghi ngờ gì nữa. Dow sẽ không thoát khỏi ghế điện lần nữa đâu.” Anh ta mỉm một nụ cười dễ chịu, những nghi ngờ đầu tiên của anh ta dường như đã biến mất. “Ngài vẫn cho rằng Dow là người vô tội à, ngài Lane?”
Quý ông già thở dài. “Tôi chẳng tìm thấy gì ở đây khiến niềm tin đó của tôi bị lung lay.” Và ông nói thêm, như thể vừa mới nghĩ ra. “Và mọi thứ đều cho thấy kẻ có tội - là một người khác.”
“Kẻ nào ạ?” cả hai bố con tôi đồng thanh hỏi.
“Chính xác thì… tôi không biết.”