← Quay lại trang sách

Chương 17 Tôi Làm Nữ Anh Hùng

Giờ đây khi nhìn lại những giờ phút nóng bỏng ấy, tôi mới thấy vụ việc lên đến đỉnh điểm một cách nhanh chóng và vững chắc đáng kinh ngạc như thế nào. Cho dù vào lúc đó chúng tôi đang ở giữa màn sương mù vô vọng. Ít nhất thì bố con tôi đã ở đó. Những gì đã diễn ra tôi chưa từng được chứng kiến: xác chết được bọc kín đưa ra ngoài, những mệnh lệnh khô khốc của công tố viên Hume, cuộc nói chuyện của anh ta trên điện thoại với cai ngục Magnus tại Algonquin, những kế hoạch của họ hòng bắt sống tên tù vượt ngục, bầu không khí im lặng đáng sợ khi chúng tôi quay về nhà và vẻ trầm lặng nghiêm trọng của ngài Lane.

Và rồi vào ngày hôm sau… Tất cả đã diễn ra quá nhanh. Tôi gặp Jeremy vào sáng sớm, sau trận cãi vã quyết liệt với ông bố, anh rời nhà ra mỏ đá như thường lệ. Già Clay bị suy sụp khá nặng trước tin tức về cái chết của bác sỹ Fawcett. Cũng là bình thường khi ông ta có ys trách bố tôi dự đoán đúng tình huống ông ta đang lâm vào: có tên trong danh sách ứng cử vào chức thượng nghị sĩ, được viết bằng máu của hai kẻ bị giết.

Bố tôi cũng bất ngờ, khuyên ông ta nên rút khỏi cuộc đua này. “Không hiệu quả đâu, chỉ thế thôi,” ông nói khô khốc. “Đừng có trách tôi. Ngài đang nghĩ gì vậy hả Clay? Kêu gọi đám báo chí vào đi. Và đặc biệt nếu ngài không phiền chuyện xúc phạm người quá cố, nói với họ ngài đã nhận đề cử ngay từ đầu chỉ để tìm ra điều dối trá ở bác sỹ Fawcett. Nói với họ sự thật, thế thôi. Hoặc có thể đó không phải sự thật; có thể ngài đã muốn mình được đề cử…”

“Dĩ nhiên là không,” Clay nói, nhíu mày.

“Thế thì được. Hãy thảo luận với Hume, chuyển cho anh ta tất cả bằng chứng tôi đã thu được liên quan đến việc sử dụng các hợp đồng của Fawcett, thảo đơn rút lui gửi báo chí với lời giải thích tôi đã cho ngài. Hume sẽ nhậm chức thượng nghị sĩ mà không ai phản đối, anh ta sẽ rất vui với thỏa thuận đó. Ngài sẽ biến thành Tiểu Huân tước Fauntleroy * của hạt Tilden trong suốt phần đời còn lại.”

“À…”

“Và công việc của tôi ở đây xem như xong,” bố tôi vui vẻ nói tiếp, “tôi chẳng làm được việc quái gì tốt cả. Thế nên tôi không đòi ngài xu nào đâu, ngoại trừ phí tổn thôi. Khoản tiền trả trước của ngài là ổn rồi.”

“Vớ vẩn, ngài thanh tra! Tôi không có ý…”

Tôi bỏ mặc hai người cãi nhau ầm ĩ trong hòa thuận, vì bà quản gia Martha gọi tôi đến nghe điện thoại. Đó là Jeremy. Anh đang trong trạng thái kích động đến mức ngay từ đầu tiên đã khiến da tôi nhồn nhột.

“Pat!” anh nói bằng giọng thấp, căng thẳng, gần như lời thì thầm. “Có ai cạnh em không? Nghe này, Pat. Anh đang ở công trình, đang gọi điện từ văn phòng hiện trường tại mỏ đá,” anh gấp gáp nói. “Đây là chuyện khẩn cấp. Xuống đây ngay lập tức. Xuống ngay đi Pat!”

“Nhưng tại sao, Jeremy, tại sao?” tôi kêu lên.

“Đừng hỏi gì hết. Lấy xe mui trần của anh mà đi. Đừng nói lời nào với bất kỳ ai hết. Đến với anh đi? Giờ thì cho xe lăn bánh đi, Pat, lăn đi vì Chúa!”

Tôi liền làm theo. Bỏ ống nghe xuống, vuốt phẳng lại quần áo, chạy lên cầu thang quơ vội mũ rồi găng tay, tôi nhảy xuống mấy bậc cầu thang, tôi phóng ào ra hiên. Bố tôi cùng Elihu Clay vẫn đang tranh luận.

“Con nghĩ mình sẽ lấy xe Jeremy lượn vài vòng,” tôi bình thản nói. “Được không ạ?”

Thậm chí chẳng ma nào thèm nghe. Tôi bèn nhanh chóng ra nhà để xe, nhảy lên chiếc mui trần của Jeremy phóng ra như mũi tên, lảo đảo đi thẳng xuống đồi như thể bầy quỷ đang đuổi theo tôi. Tâm trí tôi trống rỗng. Tôi tập trung nhìn đường xuống Mỏ đá Cẩm thạch nhà Clay nhanh nhất có thể.

Tôi chạy như điên, sáu dặm một giờ mất chưa đầy bảy phút. Tôi ngoặt xe vào chỗ trống gần văn phòng thực địa, cuốn tung một lớp bụi mù. Jeremy đang đứng trên bậc lên xuống xe nở nụ cười ngớ ngẩn, như thể anh chàng bất ngờ khi có người đẹp đến chơi.

Nhưng lời nói của anh thì không ngớ ngẩn, cho dù tôi liếc thấy một nụ cười rộng ngoác trên gương mặt một công nhân người Ý. “Ngoan lắm, Pat,” anh nói, nét mặt không thay đổi. Nhưng giọng anh gần như hoảng loạn. “Đừng có ngạc nhiên thế. Cười với anh đi.” Tôi mỉm cười với anh nhưng chắc là khá yếu ớt. “Pat, anh biết Aaron Dow đang trốn ở đâu!”

“Ôi, Jeremy,” tôi thở gấp.

“Suỵt! Cười lên, anh bảo rồi… Một trong số các thợ khoan của anh, một người kín miệng anh cực kỳ tin tưởng gặp anh tại mỏ đá vài phút trước. Anh ta vào rừng khám phá vào giờ ăn trưa để tìm địa điểm tốt cho việc khai thác. Nửa dặm về phía đằng xa kia. Anh ta thoáng thấy Dow đang trốn trong một ngôi nhà cũ đã bị bỏ hoang!”

“Anh ta có chắc không?” Tôi thì thầm.

“Chắc như bắp. Nhận ra được ông ta qua bức ảnh trên báo. Chúng ta làm gì đây Pat? Anh biết em nghĩ ông ta vô tội…”

“Jeremy Clay,” tôi mạnh mẽ nói. “Ông ấy vô tội. Và anh thật đáng yêu khi đã gọi cho em.” Trông anh rất trẻ con trong bộ quần áo lao động đầy bụi, bẩn thỉu. “Chúng ta sẽ tới đó, lôi ông ta ra khỏi rừng và đưa đi trốn…”

Chúng tôi nhìn nhau trừng trừng một lúc lâu, hai kẻ theo thuyết âm mưu rất đáng sợ.

Quai hàm Jeremy cứng lại, anh nói cộc lốc: “Thôi nào. Hành động thật tự nhiên vào. Chúng ta sẽ đi dạo trong rừng.”

Vẫn mỉm cười anh giúp tôi xuống xe, nắm lấy cánh tay tôi xiết chặt để trấn an và bắt đầu dẫn tôi lên đường mòn. Anh cúi đầu xuống rì rầm gì đó, như thể những lời dỗ ngọt với đám công nhân đang ngu ngốc đứng nhìn. Tôi cười khúc khích, nhìn vào đôi mắt anh và xúc động sâu sắc; nhưng tâm trí tôi suốt thời gian đó căng như dây đàn. Chúng tôi đang sắp làm một chuyện đáng sợ. Tuy nhiên, nếu lần này Aaron Dow bị bắt, ông ta chắc chắn sẽ không tài nào thoát khỏi cái ghế điện kinh hoàng kia…

Sau một lúc tưởng chừng dài vô tận, chúng tôi bước vào rừng, với những cành cây che kín mít trên đầu, mùi những lá kim cây vân sam xộc vào mũi khiến tôi cảm thấy thế giới ghê sợ kia như đã lùi xa. Ngay cả những tiếng nổ thi thoảng vang lên tại mỏ đá cũng trở nên yếu ớt và xa xôi. Rũ bỏ những thái độ giả tạo, chúng tôi vùng chạy cật lực. Jeremy dẫn đường, vừa đi vừa nhảy cẫng lên như một thổ dân Da Đỏ. Tôi bám theo sát gót anh. Không báo trước, anh dừng khựng - bất ngờ đến mức tôi đâm sầm vào - một biểu hiện hốt hoảng xuất hiện trên gương mặt thành thật của anh, hoảng hốt, khiếp hãi sau đó là thất vọng.

Và tôi cũng đã nghe thấy, những tiếng sủa của lũ chó.

“Chúa lòng lành!” anh thì thầm. “Chỉ còn một quãng ngắn nữa thôi, Patty. Chúng đã ngửi thấy mùi của ông ta rồi!”

“Không kịp đâu,” tôi thì thầm, trái tim đau đớn bám chặt cánh tay anh. Anh xiết chặt đôi vai tôi, rung lắc tôi cho đến khi răng tôi đánh lập cập vào nhau.

“Đừng có tỏ vẻ đàn bà yếu đuối nữa đi, chết tiệt!” anh giận dữ nói. “Cố lên, có thể vẫn chưa hết hy vọng đâu!”

Nói rồi anh quay lưng, phóng như tên bắn trên con đường tối lờ mờ sâu hơn vào rừng. Tôi sải bước theo anh, bối rối, bấn loạn và giận dữ với anh. Rung lắc tôi, anh ta dám? Chửi thề với tôi, anh ta dám?

Một lần nữa anh dừng khựng lại, đưa bàn tay lên che miệng tôi, cúi khom người xuống bò bằng cả bốn chân qua một đám bụi rậm nhỏ đầy bụi. Anh kéo lê tôi theo. Tôi cắn chặt hai môi ngăn mình không hét lên; chiếc áo dài trên người tôi đang bị bụi cây mâm xôi xé rách. Thứ gì đó sắc nhọn đâm vào những ngón tay tôi. Thế rồi tôi chợt quên đi cơn đau. Chúng tôi đang nhìn trừng trừng vào một khoảng rừng thưa bé nhỏ.

Quá muộn rồi! Có một ngôi nhà lụp xụp, xiêu vẹo ọp ẹp, mái nhà đang lún xuống đến thảm hại. Từ phía bên kia khoảng rừng thưa, tiếng sủa của những con chó săn ngày càng to.

Có lúc khoảng rừng thưa chìm trong tĩnh lặng thanh bình, phút sau nó choàng tỉnh bởi những người đội mũ xanh, bởi các nòng súng trường chĩa vào ngôi nhà. Tiếp theo là lũ chó - lũ súc vật to xác, xấu xí băng qua bãi đất đến trước cánh cửa ngôi nhà đóng kín. Chúng đưa móng cào cửa, phá cửa rồi nhảy cẫng lên, gây ra những tiếng ồn khủng khiếp nhất… Ba người đàn ông chạy vụt về phía trước, nắm lấy những sợi xích kéo chúng về đằng sau.

Chúng tôi ngồi nhìn trong im lặng tuyệt vọng.

Một ánh lửa đỏ lóe lên, kèm theo là một tiếng nổ đanh gọn phát ra từ một trong hai ô cửa sổ nhỏ của ngôi nhà. Tôi trông thấy nòng một khẩu súng lục ổ quay vừa thụt vào. Một con chó trong bọn, đang chảy dãi ghê tởm, dũng mãnh lao lên phía trước nhưng đổ gục xuống đất, chết thẳng cẳng.

“Cút đi!” một giọng nói cuồng loạn rít lên như mũi khoan - giọng của Aaron Dow. “Cút đi, cút đi! Nếu không cả lũ đần độn chúng mày sẽ phải chết. Chúng mày sẽ không bao giờ bắt sống được tao đâu. Cút đi, tao nhắc lại!” Ông ta thét lên the thé.

Tôi bò lồm cồm bằng đầu gối, một ý niệm hoang dại sôi sùng sục trong đầu. Tôi tuyệt vọng; tôi cảm thấy rằng Dow nói thật. Đôi tay ông ta sẽ gây ra án mạng thực sự. Nhưng cơ hội vẫn còn, dẫu là cơ hội mong manh nhất, ngớ ngẩn nhất…

Bàn tay Jeremy lại kéo tôi xuống. “Em nghĩ mình đang làm cái quái gì thế, Pat?” anh thì thầm. Tôi bắt đầu vùng vẫy, anh há hốc mồm kinh ngạc…

Giữa lúc tôi đang ngoằn nghoèo, uốn éo bò thì khung cảnh trong khoảng rừng thưa có biến chuyển. Tôi trông thấy bóng dáng trầm tĩnh, mập lùn của cai ngục Magnus lẫn trong đám lính; tất cả đều nấp sau những bụi rậm hoặc cây cối. Vài người bắt đầu làm theo cách của chúng tôi, dù có nhìn đi đâu tôi cũng chỉ thấy lính gác ngục có vũ trang, với ánh thèm khát của thợ săn trong mắt…

Cai ngục bước vào khoảng rừng thưa. “Dow,” ông bình tĩnh gọi, “đừng có ngốc thế. Căn nhà bị bao vây rồi. Chúng tôi sắp tóm được ông. Chúng tôi không muốn giết ông…”

Đoàng! Như trong một giấc mơ, tôi thấy một vệt màu đỏ tự bay đến cánh tay phải để trần của cai ngục, máu bắt đầu nhỏ tong tỏng xuống mặt đất rát bỏng. Khẩu súng của Dow lại lên tiếng. Một lính gác ngục vùng chạy ra từ chỗ nấp, lôi cai ngục đang choáng váng ra khỏi khoảng rừng thưa.

Với sức mạnh nảy sinh từ thất vọng, tôi vùng thoát khỏi vòng tay của Jeremy. Với trái tim đang đập thình thịch khiến cổ họng đau buốt, tôi chạy vào khoảng rừng thưa. Vào đúng khoảnh khắc thời gian như ngưng đọng ấy, từ khóe mắt tôi thấy mọi thứ xung quanh đột nhiên câm lặng. Như thể cai ngục, các lính gác, lũ chó, ngay cả chính Dow cũng kinh hãi khi thấy tôi ngu dại xông thẳng vào giữa vùng lửa đạn. Nhưng khi nửa điên nửa khùng vì phấn khích, khiếp đảm với mục đích điên rồ, tôi không còn kiểm soát được cơ bắp của mình. Tôi âm thầm cầu nguyện Jeremy sẽ không nhảy theo tôi vào đây. Và cũng đúng tích tắc này, tôi thấy anh đang cố vùng thoát khỏi vòng tay ba lính gác ngục, những người đã kịp bò lên tóm lấy anh.

Tôi ngẩng đầu lên cất cao giọng nói, to và rõ ràng: “Aaron Dow, cho tôi vào đi. Ông biết tôi là ai mà. Tôi là Patience Thumm. Hãy cho tôi vào. Tôi phải nói chuyện với ông.” Nói rồi tôi bước vững từng bước trên lớp băng mỏng, tiến về phía ngôi nhà.

Trí não tôi đã hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn cảm thấy gì nữa. Nếu Dow trong cơn kinh hoàng có nổ súng bắn tôi, tôi cũng không còn biết cái gì đã đánh gục mình.

Những làn sóng âm thanh chói tai khủng bố tinh thần tôi. “Lùi lại, tất cả lùi lại! Tao chấp nhận cho con bé vào. Hễ đứa nào trong các ngươi cử động, con bé sẽ ăn đạn! Lùi lại!”

Bằng cách nào đó tôi đến được cửa trước, nó mở ra trước mặt tôi. Tôi suýt ngã bổ chửng vào vùng bóng tối bao phủ trong nhà, toát lên mùi ẩm mốc. Nghe thấy tiếng cửa đóng sầm lại sau lưng mình, tôi ngã ngửa ra sau, chóng xoay cả mặt vì sợ hãi, run rẩy như một bà già lên cơn sốt rét…

Con người bất hạnh, tội nghiệp kia đang lâm vào một tình cảnh đáng thương - bẩn thỉu, rớt dãi, râu ria lởm chởm, xấu xí, ghê tởm và hèn hạ như Quasimodo * vậy. Chỉ có con mắt vẫn kiên định, là điểm tựa khiến con người quả cảm này giữ được sự bình thản và quyết tâm khi đối mặt với cái chết không tránh khỏi. Trong bàn tay trái ông ta, khẩu súng lục đang bốc khói.

“Nhanh lên,” ông ta nói bằng giọng thấp cay nghiệt. “Nếu muốn giở trò lừa đảo, tôi sẽ khử cô.” Ông ta ném ánh mắt sắc lạnh ra ngoài cửa sổ. “Nói đi.”

“Aaron Dow,” tôi thì thầm, “ông sẽ chẳng nhận được gì nếu làm thế này. Ông biết tôi tin tưởng vào sự vô tội của ông như thế nào, và ngài Lane - quý ông già thông minh, nhân hậu đã thử ông trong xà lim - và còn bố tôi nữa, thanh tra Thumm, họ đều tin…”

“Chúng sẽ không tha cho Aaron Dow này được sống,” ông ta lẩm bẩm.

“Aaron Dow, làm thế này tòa chắc chắn sẽ xử ông tội chết!” Tôi kêu lên. “Ông tự thú đi, đó là cách duy nhất cứu vớt ông…” Cứ thế tôi tiếp tục nói mãi, chỉ nhận thức được một nửa những gì tôi đang nói. Tôi nghĩ mình đã lầm bầm điều gì đó về việc chúng tôi sẽ đại diện cho ông ta, về cách chúng tôi nhất định sẽ cứu ông ta ra sao…

Dù ở một khoảng cách xa, tôi lờ mờ nghe thấy Dow thì thầm đứt quãng: “Tôi vô tội, thưa cô. Tôi chưa bao giờ tấn công ông ta. Tôi không bao giờ làm thế. Cứu tôi đi, cứu tôi đi!” Ông ta quỳ sụp xuống, bắt đầu hôn lên hai tay tôi. Tôi cảm thấy hai đầu gối mình run lẩy bẩy. Khẩu súng lục bốc khói rơi xuống sàn nhà. Tôi đỡ ông già đứng dậy, quàng tay lên đôi vai héo hon của ông ta, mở cửa bước ra ngoài. Tôi tin ông ta sẽ lặng lẽ tự nộp mình.

Thế rồi tôi ngất đi. Điều tiếp theo tôi biết là gương mặt Jeremy sát gần mặt tôi, và ai đó đang xối nước lên mặt tôi.

Chỉ còn sự suy sụp đắng cay. Tôi vẫn không ngừng run rẩy mỗi khi nghĩ lại về buổi chiều hôm đó. Bố tôi cùng ngài Lane bất ngờ xuất hiện từ nơi nào đó. Tôi nhớ mình đang ngồi trong văn phòng của John Hume lắng nghe câu chuyện của Dow. Và tôi cũng nhớ ông ta cúi gập người trên ghế ra sao, chốc chốc lại hèn hạ quay đầu nhìn hết mặt tôi, mặt ngài Lane rồi mặt bố tôi. Tôi đang trong trạng thái ngơ ngẩn vì tuyệt vọng. Gương mặt ngài Lane là chiếc mặt nạ bi thảm. Trong vòng một tiếng trước khi chúng tôi ngồi trong văn phòng của Hume, tôi sẽ nhớ mãi những gì ông đã nói, cách ông nhìn tôi khi kể cho ông nghe về lời tôi hứa với Dow trong ngôi nhà đó.

“Patience, Patience!” ông kêu to lên trong nỗi đau đớn cực độ rất chân thành. “Lẽ ra cháu không nên làm thế. Ta không biết. Thực sự ta không biết. Ta đang đi lần theo điều gì đó - điều gì đó lạ lùng. Nhưng vẫn chưa xong. Có thể là không cứu được ông ta đâu.” Và rồi tôi nhận ra mình đã làm gì. Lần thứ hai tôi ban cho người đàn ông này hy vọng, và lần thứ hai…

Ông ta đã trả lời những câu hỏi. Không, ông ta không giết bác sỹ Fawcett. Thậm chí ông ta còn chưa bước vào căn nhà đó… John Hume lấy ra từ ngăn kéo khẩu súng lục Dow đã dùng trong ngôi nhà.

“Khẩu này thuộc sở hữu của bác sỹ Fawcett,” anh ta nghiêm nghị nói. “Đừng nói dối. Người hầu của bác sỹ Fawcett mới chiều qua còn thấy nó ở ngăn kéo trên cùng bàn làm việc trong phòng khám của bác sỹ. Ông đã lấy nó, Dow. Ông đã vào trong ngôi nhà đó.”

Dow đổ gục xuống. Vâng, đúng thế, ông ta hét lên. Nhưng ông không giết Fawcett. Ông ta đã hẹn gặp bác sỹ vào lúc mười một rưỡi. Khi bước vào ngôi nhà đó, ông ta đã phát hiện Fawcett đang nằm trên sàn, khắp người đầy máu. Trên bàn có một khẩu súng lục. Trong cơn hốt hoảng ông ta đã chộp lấy nó rồi chạy ra khỏi nhà… Vâng, ông ta là người đã gửi mảnh rương đó. Như thế nào? Trông ông ta xảo quyệt, ông ta sẽ không nói. JA nghĩa là gì? Ông ta bặm môi lại.

“Ông có tìm thấy xác chết không?” Ngài Lane căng thẳng hỏi.

“Tôi… Vâng, tôi có tìm thấy nhưng vào lúc đó ông ấy chết rồi…”

“Dow, ông chắc chắn rằng ông ta đã chết?”

“Vâng. Vâng, thưa ngài, tôi chắc chắn!”

Sau đó công tố viên cho người tù xem mảnh giấy viết nguệch ngoạc tìm thấy trên bàn Fawcett. Và đúng lúc này - ngoại trừ Drury Lane - tất cả chúng tôi đều ngạc nhiên khi Dow lên tiếng phủ nhận mạnh mẽ và thực sự thành thật. Ông ta rít lên rằng chưa bao giờ trông thấy mảnh giấy này. Ông ta chưa bao giờ đọc thông điệp viết tay có chữ ký của Fawcett viết bằng mực; ông ta chưa bao giờ viết thông điệp chữ đen ký tên Aaron Dow bằng bút chì.

Quý ông già nói nhanh: “Dow, mấy hôm trước ông có nhận bất kỳ thông điệp nào của bác sỹ Fawcett không?

“Có, thưa ngài Lane. Nhưng tôi không yêu cầu! Đó là hôm thứ Ba. Tôi nhận được một… một lá thư của Fawcett. Ông ấy bảo tôi vượt ngục vào thứ Năm. Đó là sự thật, ngài Lane. Mẩu giấy đó đã viết là thứ Năm.”

“Ông có mang mảnh giấy theo người không?” Ngài Lane chậm rãi hỏi.

Tuy nhiên Dow đã vứt nó xuống cống thoát nước trong tù, hoặc ông ta chỉ nói vậy.

“Không hiểu nổi,” Hume lẩm bẩm, “tại sao Fawcett lại chơi lá mặt lá trái với ông ta theo cách đó. Hay có thể …”

Dường như quý ông già định nói gì đó, nhưng rồi ông lắc đầu và giữ im lặng, về phần tôi - thật chậm, thậm chí rất chậm - bắt đầu nhìn thấy được chút ánh sáng.

Chỉ còn lại nỗi kinh hoàng. Một lần nữa John Hume lựa chọn giải pháp đơn giản hơn; một lần nữa anh ta cho phép trợ lý công tố viên Sweet điều hành phiên tòa. Vì Dow đã chính thức bị buộc tội giết người cấp độ một, dễ dàng và mau lẹ đến đáng ngờ, nên phiên tòa được mở ngay trước khi chúng tôi kịp nhận ra. Khó khăn lớn nhất là ngăn chặn người dân Leeds tự tiện thi hành luật pháp. Lời buộc tội giết người thứ hai với chính ông ta dường như thổi bùng lên cơn phẫn nộ của quần chúng, báo hại nhà chức trách phải tăng cường bảo vệ nghiêm ngặt nhất khi di chuyển Dow đi về giữa nhà tù hạt Leeds và tòa án.

Mark Currier là một câu đố. Ông ta không nhận tiền của ngài Lane. Khuôn mặt phì nộn của ông ta có vẻ tự mãn, khó dò. Một lần nữa ông nhận biện hộ một vụ khó bất chấp vô vọng.

Trong khi Drury Lane ngồi đó câm lặng, chìm trong tấm áo tuyệt vọng và bất lực, Aaron Dow bị xét xử. Bồi thẩm đoàn tuyên bố ông ta phạm tội giết người cấp độ một sau khi thảo luận suốt bốn mươi nhăm phút. Cũng chính vị thẩm phán mới hơn tháng trước một chút vừa tuyên Aaron Dow án chung thân, giờ đây tuyên ông ta án tử hình ghế điện.

“Aaron Dow… sẽ phải chết theo luật định trong một tuần bắt đầu từ hôm nay.”

Bị xích tay với hai phó cảnh sát trưởng, vây quanh là các lính gác có vũ khí, Aaron Dow nhanh chóng bị áp giải đến nhà tù Algonquin. Nơi ấy sự câm lặng của những xà lim án tử vây chặt ông ta, giống như lớp đất lạnh lẽo của ngôi mộ mùa đông trên đầu ông ta.