Phán quyết
“Kito, hôm qua cậu về khá muộn đúng không?”
Rời khỏi phòng thẩm phán Phòng hình sự số Một, Kajima Isao vừa nhìn mông lung vào bản án vừa hỏi nhỏ hội thẩm ghế phải Kito đang đứng ngay bên cạnh.
“Vâng, chắc khoảng 10 giờ ạ,” Kito trả lời, giọng hơi run làm âm cuối khẽ rung lên. “Có bản ghi chép em muốn đọc cho xong trong ngày nên đã ở lại muộn.”
“Thế sau giờ ấy mà tiệm cắt tóc vẫn mở cửa à?”
Nghe Isao hỏi vậy, Kito buông một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Cậu ta xoa xoa phía sau đầu vẻ bẽn lẽn.
“Vợ em cắt cho đấy ạ. Phần tóc gáy hai bên trái phải không đều nhau, cứ lởm chà lởm chởm. Mỗi lần soi gương em lại thấy bực cả mình.”
“Tóc gáy không lên hình đâu. Họ chỉ quay phía trước thôi. Ra là vợ cậu cắt cho à… Được đấy. Mới hôm qua với hôm nay mà trông cậu trẻ ra đến năm tuổi.”
Như để chữa ngượng, Kito nhún vai một cái.
“Liệu phiên xét xử hôm nay có lên thời sự không ạ?”
Trợ lý thẩm phán Nakanishi hỏi xen vào sau khi đã khóa xong cửa phòng thẩm phán. Nhìn mới thấy tóc của cậu ta cũng được uốn kỹ càng, từng lọn ánh lên bóng loáng.
“Chắc chắn sẽ lên bản tin chứ,” Isao trả lời. “Có thành tin nổi bật cũng không lạ gì.”
“Lên chứ,” Kito cũng gật đầu. “Không thể không lên được.”
“Đúng thật ạ,” Nakanishi gật đầu theo Kito.
“Nào chúng ta đi thôi.”
Isao và cả nhóm mở cánh cửa sắt bên cạnh phòng cấp nước và bước đi trên lối đi riêng dẫn tới pháp đình. Chỉ có tiếng áo thẩm phán cọ vào nhau, tiếng đế giày da gõ khô khốc trên sàn nhà. Isao thường rất để tâm đến bước đi dù ông không cố ý ra oai. Các thành viên khác cũng hòa nhịp bước với ông. Trước đây ông di chuyển nhanh hơn một chút nhưng vừa thở phì phò vừa khai mạc phiên tòa trông hơi kỳ cục nên kể từ khi bước sang tuổi ngũ tuần tác phong của ông đã trở nên điềm đạm hơn.
Từ lối đi ông vào phòng họp nhỏ phía sau pháp đình, ông không dừng lại mà cứ thế tiến tới mở cánh cửa pháp đình.
Ghế nghe xử của pháp đình số 205 Tòa án địa phương Tokyo chi nhánh Hachioji đã chật kín người, đúng như Isao dự đoán. Mỗi hàng chia thành ba khối, mỗi khối có bốn ghế ngồi. Có ba hàng như vậy nên tổng cộng là ba mươi ghế ngồi. Cánh phóng viên của cả báo viết và các đài truyền hình lớn đã được bố trí riêng ghế dành cho phóng viên ở hàng trên cùng, tuy nhiên giới truyền thông không chỉ có vậy.
Có vẻ phóng viên các tờ nguyệt san và phóng viên tự do cũng tham dự rất đông.
Từ khoảnh khắc hội đồng xét xử của Isao bước vào, máy quay phim của đài NHK được bố trí ở chính giữa hai hàng ghế phía sau lập tức khởi động quay. Máy quay này đại diện cho tất cả các hãng truyền thông. Đứng bên cạnh đội ngũ quay phim, cán bộ quản lý pháp đình với đồng hồ bấm giờ trên tay bắt đầu đếm đúng 2 phút theo quy định.
Isao vừa nghe những tiếng thở, tiếng khụt khịt mũi khe khẽ vừa ngồi xuống chiếc ghế dành cho thẩm phán ở chính giữa dãy ghế.
Ông ngước mắt lên, nhìn về phía trước. Lọt vào mắt ông trước tiên là nhóm người đang mặc tang phục ngồi ở khu ghế không bọc da trắng như dãy ghế phóng viên.
Một người đàn ông tầm trên bốn mươi tuổi đang đặt di ảnh của nạn nhân trên đầu gối. Anh ta, Ikemoto Tooru, là anh trai của Matoba Kumiko, người vợ trong gia đình nạn nhân. Người đàn ông to con với khuôn mặt dữ tợn như viên ngói hình mặt quỷ nhưng dáng vẻ lại đượm nét u sầu. Tóc tai bù xù như thể anh ta còn chẳng buồn đưa tay lên chải, trái hẳn với vẻ bề ngoài của nhóm thẩm phán Isao. Mắt anh ta long lên một cách dị thường.
Isao đã chứng kiến bộ dạng thảm thương của con người này biết bao lần, khi anh ta là nhân chứng với bên kiểm sát cũng như khi anh ta trả lời phỏng vấn báo đài. Tất nhiên ông cảm thông với những gì anh ta phải trải qua nhưng hôm nay thì… Isao đánh hơi được người đàn ông này có vẻ muốn nhắm đến truyền thông, nói ác mồm là hơi “diễn”. Điều đó thể hiện từ việc quyết định mặc tang phục trong ngày phán quyết, việc để tóc tai bờm xờm đến dáng vẻ tiều tụy trong khi anh ta biết thừa cánh phóng viên sẽ phỏng vấn gia đình nạn nhân sau phiên xét xử.
Trong khung ảnh có buộc khăn đen là khuôn mặt ba người đang cười tươi tắn. Đó là nụ cười của vợ chồng nhà Matoba và cậu con trai sáu tuổi Kenta. Ở phiên xét xử đầu tiên họ đã mang di ảnh của từng người trong số ba người nhà Matoba đến nhưng sau khi nhân viên pháp đình yêu cầu tiết chế, kể từ phiên xử thứ hai tấm ảnh gia đình ba người đã được phóng lớn, lồng khung và được Ikemoto Tooru ôm trên tay. Trong suốt phiên xử án kéo dài một năm, hình ảnh đó vẫn không hề thay đổi.
Tuy nhiên, dù có nhìn bao nhiêu lần Isao cũng không thấy nổi sự hài hòa giữa ánh mắt của Ikemoto, ánh mắt đầy hận thù, với pháp đình trang nghiêm này. Đó là cảm xúc thật trong lòng Isao. Trong suốt gần bốn mươi năm cuộc đời làm thẩm phán, Isao đã chứng kiến nỗi oán hận của bao nhiêu người nảy sinh từ vô số những tội ác chứ không chỉ riêng gì Ikemoto, nhưng mỗi lần như thế ông vẫn cảm thấy có gì đó gờn gợn. Thảm kịch giáng xuống nạn nhân và gia đình của họ được lặp đi lặp lại qua bao trang hồ sơ nên ông có thể dễ dàng hình dung ra. Tuy nhiên công việc của người thi hành luật không phải là dấy thêm nỗi tức giận hay hận thù. Đó là cảm nhận thật của Isao từ những kinh nghiệm ông đã trải qua.
Điều cần hết sức lưu ý chính là thứ “chính nghĩa cực đoan” mà truyền thông tạo ra. Hàng triệu người dân Nhật Bản, tuy chưa từng gặp nạn nhân hay thủ phạm, nhưng thông qua truyền thông đã và đang chĩa vũ khí mang tên “dư luận” vào cổ họng của bị cáo. Không, nói đúng hơn là họ chĩa vũ khí vào cổ họng của hội đồng xét xử. Họ làm vậy rồi còn ra rả “hãy để nạn nhân được siêu thoát”.
Quả đúng đây là một vụ án thảm khốc. Theo như nhận định của bên kiểm sát thì bị cáo, Takeuchi Shingo, còn là một kẻ rất nham hiểm. Gã đã giết hại gia đình ba người trong đó có một đứa trẻ ngay tại nhà của họ rồi tự mình ngụy tạo hiện trường giả để lừa gạt rằng bản thân cũng là một nạn nhân của kẻ cướp của giết người. Sau khi không thể truy ra được tung tích của kẻ sát nhân đã tẩu thoát, Viện kiểm sát liền chuyển hướng sang điều tra nạn nhân duy nhất còn sống sót, không ngờ gã nhận tội nhanh đến kinh ngạc. Có điều khi phiên xét xử công khai chính thức bắt đầu gã lại thay đổi một trăm tám mươi độ, phủ nhận hoàn toàn những lời đã khai trước đó.
Một gã đàn ông như thế có lẽ sẽ khiến bất cứ ai cũng cảm thấy căm ghét và mong gã phải chịu mức án tử hình. Sống trong xã hội ngày nay chẳng ai có thể tránh được ảnh hưởng của truyền thông. Thẩm phán cũng không phải là ngoại lệ một khi đã biết rõ xu hướng của dư luận.
Tuy nhiên, cho dù dư luận ấy có đứng trên lập trường chính nghĩa đến đâu thì người thi hành pháp luật cũng không được để nó nuốt chửng. Vì nếu như vậy sẽ có khả năng không nhìn ra được sự thật.
Bình thản và nghiêm khắc. Vụ án càng thảm thương Isao càng ý thức phải điều hành phiên tòa theo hướng ấy.
Khi còn làm hội thẩm ghế phải, Isao đã trải nghiệm hai phiên tòa tuyên án tử hình. Trong đó ông không thể quên được vụ án bắt cóc và sát hại nữ sinh cấp hai mà ông phụ trách khi còn ở Phòng hình sự tòa án địa phương Osaka. Thủ phạm là gã đàn ông bốn mươi tuổi đang mắc nợ như chúa chổm. Gã bắt cóc nữ sinh cấp hai với mục đích tống tiền nhưng trước khi gọi điện thoại tới nhà nạn nhân gã đã bị cô bé chống cự nên nổi điên lên và sát hại cô bé. Gã cũng lỡ làm mất tờ giấy có ghi số điện thoại do cô bé khai ra, và vì chỉ nhớ mang máng nên cuộc gọi của gã cũng trở nên vô ích, gã đành vứt bừa thi thể nạn nhân trong núi. Trước sự mất tích bí ẩn của nữ sinh này, dư luận, trong đó giới truyền thông đóng vai trò chủ chốt đột nhiên dấy lên giả thuyết liệu đó có phải là một vụ bắt cóc, đồng thời tỏ ra lo lắng cho sự an nguy của nữ sinh sau khi có một người dân báo rằng đã nhận được một cuộc gọi nhầm. Từ lời khai nhìn thấy xe ô tô khả nghi cảnh sát đã lần ra hung thủ. Sau đó khoảng ba tháng gã đàn ông cũng chịu tự thú. Căn cứ theo lời khai của hung thủ, thi thể của nạn nhân đã được tìm thấy trong tình trạng gần như tróc hết da. Đó là phiên xét xử vụ án như vậy.
Phiên nghị án của hội đồng xét xử phân ra làm hai luồng ý kiến: Tử hình hay tù chung thân. Thông thường tội bắt cóc tống tiền trẻ em cộng thêm sát hại và phi tang là tội nặng đáng chịu mức án tử hình. Thế nhưng ở vụ án này, hành động của hung thủ thể hiện sự tùy tiện nông nổi chứ không thể coi là có tính toán tổ chức. Gã cũng đã sớm từ bỏ việc gọi điện tống tiền. Bị cáo cũng nói lời xin lỗi và sám hối trong các phiên xử án.
Tuy biết vậy nhưng Isao vẫn nhận định rằng không thể không tử hình. Truyền thông liên tục thể hiện niềm thương tiếc đối với nữ sinh. Bây giờ nghĩ lại Isao nhận ra rằng lúc đó mình quả có chịu sức ép bởi dư luận và bản thân ông cũng chưa thấm thía được sức nặng của việc đưa ra phán quyết tử hình. Trợ lý thẩm phán ngồi bên ghế trái thì cũng như ông, chỉ duy nhất thẩm phán là không hề tỏ rõ thái độ cho đến tận khi đưa ra phán quyết cuối cùng. Vị thẩm phán đó vốn là người rất nồng hậu, Isao rất kính trọng ông ta tuy nhiên riêng ở thời điểm đó ông cảm thấy không được hài lòng lắm với cách hành xử thiếu dứt khoát của người này.
Thế nhưng sau quá trình nghị án, dần dần, nhờ vị thẩm phán, Isao cũng đã nhận ra việc đưa ra phán quyết tử hình là một vấn đề nghiêm trọng đến thế nào đối với hội đồng xét xử và đặc biệt là đối với bản thân người thẩm phán. Vị thẩm phán lúc đó trăn trở đến mức ăn không ngon, suốt thời gian nghị án ông chỉ im lặng.
Nếu là vụ án mà ai nhìn vào cũng khẳng định là tử hình thì thẩm phán đã không trăn trở đến mức ấy. Nhưng vì cũng có thể lựa chọn phương án đưa ra phán quyết chung thân, nên ông ấy đã phải suy nghĩ rất lung. Dư luận bàn tán xôn xao, chánh án tòa án cũng góp ý. Thế nhưng cuối cùng ông đã quyết tuyên án tử. Không biết vị thẩm phán lúc ấy đã lấy cái gì làm tiêu chuẩn, cũng không biết phán quyết đó được rút ra sau những bước nhận định nào. Chỉ biết rằng, đáng tiếc đó không phải là phán quyết được đưa ra khi tâm trí người thẩm phán thật sự trấn tĩnh.
Trong phiên xử cuối, vị thẩm phán ấy ngồi ở ghế của mình tại phòng thẩm phán, luyện đọc thành tiếng bản án bằng giọng thấp trầm.
“Phán quyết: Bị cáo lãnh án tử hình.”
Ông đã luyện tập rất nhiều lần phần đó. Má ông co giật rúm ró, dường như khuôn miệng không cử động được như ông mong muốn.
Thời khắc phán xử đã đến. Khuôn mặt của bị cáo đã xanh xám lại nhưng mặt thẩm phán còn xanh xao hơn.
“Trước hết tôi xin đọc lý do tuyên án.” Vị thẩm phán nói.
Chính việc đọc lời tuyên án sau đã ngầm ám chỉ rằng phán quyết tử hình là hoàn toàn hợp lý. Bị cáo ban đầu cứng đờ như bị bóng đè nhưng giữa chừng gã bắt đầu khóc rên lên mặc kệ những lời thẩm phán đang đọc. Nói rên lên chưa đúng, gã gần như gào rú. Tiếng kêu khóc của gã vang khắp pháp đình.
Nghe tiếng kêu khóc ấy, giọng đọc của thẩm phán trở nên loạn nhịp. Ông bị run không sao đọc tiếp được. Mặt xanh lét, ông thở gấp như cá mắc cạn.
“Phán quyết: Bị cáo lãnh án tử hình.”
Đến đoạn này hầu như không nghe rõ lời nữa. Isao chưa bao giờ nghe lời tuyên án nào tệ hại đến như vậy. Ông cảm thấy sợ hãi, rồi chợt nhận ra chính mình cũng đang run rẩy.
Không lâu sau đó vị thẩm phán ấy đã xin về hưu. Ông ấy lẩm bẩm, “Cho dù đó là kẻ sát nhân hay là gì đi nữa thì tôi cũng không thể xét xử được nữa rồi. Chính tôi cũng đã giết một con người.”
Ông ấy cũng có thể tuyên án tù chung thân cơ mà… Isao đã nghĩ như vậy. Thậm chí ông còn nghĩ mức án ấy hợp lý hơn. Thực tế ở tòa án tối cao mức án đã được chuyển sang tù chung thân. Vị quan tòa thuở ấy đã bị dư luận nuốt chửng. Ông đã giằng co với con quái vật mang tên “tử hình” và bị chính nó nghiền nát.
“Phải trừng trị nghiêm khắc hung thủ,” nói thì dễ lắm.
Thế nhưng xét xử một con người thì không đơn giản như thế. Thật ra dù chỉ tăng hay bớt một năm thi hành án người thẩm phán cũng phải đắn đo trăn trở vô cùng.
Sau đó Isao còn tham dự vào một phiên xử tuyên án tử hình nữa. Lúc đó ông cảm thấy tay mình như vấy bẩn vì đã ký tên và đóng dấu vào bản tuyên án. Mặc dù phán quyết khi đó là sự lựa chọn khó thay thế nhưng đâu đó trong lòng ông vẫn có cảm giác chua chát.
Ông nghĩ đây là một công việc có nhân có quả.
Mặc dầu vậy về cơ bản pháp đình vẫn do thẩm phán làm chủ. Cùng là một phán quyết nhưng áp lực khác hẳn so với lúc làm hội thẩm ghế phải hay ghế trái. Kể từ khi lên chức thẩm phán ông đã xét xử nhiều vụ mà không phải tính đến án tử hình. Ông cảm thấy đó là điều may mắn hơn bao giờ hết.
“Còn ba mươi giây nữa.”
Cán bộ quản lý pháp đình nhìn đồng hồ bấm giờ và lên tiếng, giọng không cảm xúc.
Dòng suy tưởng bị ngắt quãng bởi giọng nói đó, Isao vô thức nhìn xuống toàn thể khán phòng.
Ở một góc khán phòng, ông nhận ra một gương mặt quen quen. Ồ, đã lâu không gặp… Isao bất giác nghĩ ngợi những điều mông lung xa rời hiện tại.
Anh ta, Nomiyama Tsukasa, hai năm về trước từng là công tố viên trực thuộc Phòng công tố chi nhánh Hachioji thuộc Viện kiểm sát địa phương Tokyo. Nhưng hiện giờ đã chuyển sang Phòng hình sự cũng thuộc chi nhánh Hachioji và chuyên phụ trách điều tra.
Theo quy định, các công tố viên của Phòng công tố sẽ được chia ra phụ trách các phòng của Tòa án nên thẩm phán và công tố viên thường chạm mặt nhau trong một khoảng thời gian khá dài. Khi ấy, Nomiyama phụ trách Phòng hình sự số Một do Isao đứng đầu nên hai người gặp mặt nhau hằng ngày đến gần như phát chán.
Sau một thời gian không gặp, vẻ non nớt của Nomiyama đã biến mất, thay vào đó là dáng vẻ rắn rỏi của một thanh tra. Anh ta mới khoảng ba mươi lăm tuổi đổ ra, là công tố viên chính thức ưu tú đã thi đỗ kỳ thi Tư pháp với thành tích xuất sắc, đồng thời gây chú ý bởi cung cách làm việc mang cái tôi rất lớn. Các cử chỉ mang tính khiêu khích, cách hỏi cung đầy công kích, lối nói chuyện mỉa mai đến từng câu chữ… Anh ta thích sử dụng chiến thuật cố ý tạo sóng gió tại chốn pháp đình.
Tuy đứng từ phía người điều hành phiên xét xử, Isao nhiều lúc hơi khó chịu nhưng ngược lại cũng phải thừa nhận đó là khuôn mẫu điển hình của một công tố viên có năng lực. Công tố viên nữ tên Mihara phụ trách phiên xét xử này cũng là công tố viên chính khi tuổi đời còn trẻ, nhưng sự trẻ trung ấy lại thành khuyết điểm, không thể phủ nhận, nếu so với Nomiyama thì cô không có đủ uy phong.
Việc phụ trách xét xử của phía kiểm sát thường được giao cho công tố viên chính thức còn trẻ hay công tố viên phó có tuổi. Công tố viên chính thức còn trẻ sẽ tích lũy kinh nghiệm từ đây và sau đó sẽ được điều động sang phòng ban khác ví như Phòng hình sự chuyên trách điều tra. Có vẻ Nomiyama đang đi theo đúng lộ trình đó.
Nhắc mới nhớ, anh ta cũng tham gia khởi tố vụ án lần này. Trong bản cáo trạng có tên của anh ta. Hẳn là anh ta cũng quan tâm xem vụ án này được phán quyết ra sao. Isao cứ có cảm giác bên điều tra vụ án lần này có cái gì đó hơi khiên cưỡng và gấp gáp quá, mà đầu tiên phải kể đến biên bản lấy lời khai v.v. Nhưng biết người phụ trách là Nomiyama thì ông nghĩ mình đã hiểu nguyên nhân vì sao.
“Giờ quay phim đã hết.”
Cán bộ quản lý pháp đình nói. Đội ngũ quay phim ngừng quay, nhanh chóng thu dọn hành lý.
Thông thường bị cáo sẽ phải vào pháp đình trước hội đồng xét xử, nhưng khi có quay phim trước giờ xét xử thì bị cáo sẽ phải chờ ở nhà tạm giam nằm trong khuôn viên tòa án. Sau khi quay phim xong cán bộ pháp đình sẽ gọi bị cáo ra.
Trong thời gian đó Isao lại nhìn về phía Nomiyama đang ngồi dưới khán phòng một lần nữa. Bốn mắt chạm nhau, Nomiyama chỉ khẽ động đậy cổ chứ không gật đầu chào hẳn.
Anh ta ưỡn ngực ra phía trước, tựa hẳn người vào ghế, khoanh tay trước ngực đầy tự mãn. Bộ com-lê đầy đủ ba lớp màu xanh thẫm đã thành thương hiệu. Nút thắt chiếc cà-vạt màu nâu vàng lớn đến bất thường. Mặt anh ta hình tam giác với chiếc cằm nhọn, ánh mắt tràn đầy tự tin đến nay vẫn không thay đổi. Cả bờ môi mỏng khẽ nhếch lên một bên như sắp buông ra lời mỉa mai nào đó cũng vẫn vậy.
Sau phán quyết ngày hôm nay, biểu cảm khó ở đó sẽ thay đổi như thế nào nhỉ? Isao hào hứng khi nghĩ đến điều đó… Ấy chết, có phải ông xấu tính quá rồi không.
Cánh cửa chếch phía sau lưng Isao mở ra. Bị cáo Takeuchi Shingo trong dáng vẻ bị còng tay và tròng dây ngang thắt lưng bước vào pháp đình với hai cán bộ tòa án đi sau.
Bị cáo năm mươi mốt tuổi, mặc bộ com-lê màu xám, vừa bước vào pháp đình đã cúi chào thật thấp. Bên trong áo khoác là áo sơ-mi trắng có khuy cổ, gã không thắt cà-vạt.
Gã đàn ông dáng người vừa phải. Hình như ai bị tròng dây quanh eo cũng sẽ khom lưng xuống thì phải, gã cũng không ngoại lệ, đầu gã hơi chúi về phía trước. Trên tấm lưng đang khom lại đó vẫn còn dấu tích bị đánh trong vụ án mà theo như lời bên kiểm sát thì là do gã tự dùng gậy đánh bóng chày bằng kim loại để đánh vào mình… Cú đánh làm biến dạng vùng da thành sẹo lồi cả đời không thể biến mất.
Phần eo chiếc áo khoác rộng hơn hẳn so với cơ thể, cuộc sống trong trại tạm giam một năm nay rõ ràng đã làm gã gầy đi trông thấy. Mặc dù vậy trên lớp vải áo từ vai đến hết lưng cũng không có lấy một nếp nhăn rẻ tiền nào. Nó khiến cho người mặc có vị thế của một quý ông. Có lẽ đó là bộ com-lê hàng hiệu cao cấp hay được đặt may tại một tiệm may đẳng cấp. Khuôn mặt tròn và hai mắt to, Takeuchi có phong thái của một quý ông lịch lãm không chỉ ở ngoại hình mà còn cả cách hành xử trong suốt phiên tòa.
Nghe nói tài sản của gã sau khi bán đi khu đất rừng được truyền lại từ bao đời vẫn còn tới hơn 400 triệu yên. Gã còn độc thân, cũng không có họ hàng thân thích. Gã hoàn toàn không phải bận tâm tương lai sẽ phải sống thế nào hay phải cố gắng ra sao.
Một kẻ như vậy đã đánh chết cặp vợ chồng người bạn thân tại chính ngôi nhà của họ, rồi còn bóp cổ chết đứa con trai của bạn mình, đó là khái quát về vụ án mà phía Viện kiểm sát đang truy tố.
Bên kiểm sát cho rằng Takeuchi Shingo đã giết người do nhất thời nóng giận. Vì đây là vụ án giết vợ chồng bạn thân mà không hề có mâu thuẫn như vay mượn tiền nên chỉ có thể xét đoán động cơ nằm ở đó. Thế nhưng nếu là như thế thì bên kiểm sát buộc phải chứng minh Takeuchi có đủ lý do để cơn giận bùng phát tới mức ấy.
“Vì tôi bị phản bội.” Takeuchi đã khai như vậy khi tự thú. Và khi được hỏi bị phản bội điều gì, gã đã trả lời rằng, “Vì Matoba không chịu dùng cái cà-vạt tôi đã tặng.”
Liệu động cơ như vậy có được coi là thỏa đáng hay không? Isao không có ý phủ định hoàn toàn rằng chẳng có tội ác nào có thể nảy sinh vì một lý do ất ơ như vậy. Đúng là ai cũng có thể cảm thấy khó chịu khi biết mình đã mất công tặng cà-vạt mà đối phương hoàn toàn không muốn dùng. Nhưng người nhận quà cũng có sở thích riêng, nên cho dù được bạn bè yêu quý tặng thì cũng sẽ không dùng nếu như không thích. Rất có thể việc không hiểu nhau giữa người tặng và người nhận biến thành mồi lửa làm xích mích bùng lên lắm chứ.
Tuy nhiên, theo như quan sát của ông về cách hành xử ôn hòa trước tòa mà người đàn ông tên Takeuchi này thể hiện suốt thời gian qua thì không thể không thắc mắc, “Liệu con người này có thể chỉ vì chiếc cà-vạt mà giết người không?” Điều này quả thực không phù hợp và không thỏa đáng. Thêm nữa đến phiên xét xử công khai Takeuchi đã phủ nhận toàn bộ lời khai đó nên Isao càng có cảm giác những lời khai ban đầu chỉ như một thứ hàng giả rẻ tiền.
Chiếc cà-vạt đó đã được Takeuchi dùng làm hung khí thắt cổ cậu con trai chạy từ tầng hai xuống vì nghe tiếng ồn lúc bố mẹ mình bị đánh chết. Đây cũng là một chìa khóa của vụ án. Nhưng phía luật sư biện hộ thì lại cho rằng, bên điều tra đã lợi dụng chiếc chìa khóa đó một cách tài tình để khiến cho động cơ giết người của bị cáo trở nên logic, họ liên tục dẫn dắt bị cáo đã kiệt sức vì bị điều tra suốt bao ngày mệt mỏi và mớm cung như vậy. Isao thấy lời biện hộ đó cũng hơi có lý.
Nhưng không chỉ có vậy, vụ án này còn có một bí ẩn không giải thích nổi nữa là vết tích hành hung khá lớn còn lưu lại trên lưng bị cáo. Giám định viên bên phía kiểm sát và cả phía luật sư biện hộ đều nhất trí rằng đó là vết đánh bởi chiếc gậy bóng chày bằng kim loại. Từ việc áo sơ-mi của bị cáo có dính máu của vợ chồng nạn nhân, họ kết luận cây gậy kim loại đó được dùng để đánh vào lưng bị cáo sau khi đã đánh chết hai vợ chồng chủ nhà. Chiếc gậy đánh bóng chày còn lưu lại ở hiện trường là đồ của người chồng, Matoba Yosuke, và nó cũng chính là hung khí gây án.
Vấn đề là ai đã đánh vào lưng bị cáo Takeuchi?
Theo như hồ sơ, Takeuchi bị đánh hầu như khắp lưng từ vai đến eo. Gã bị rạn hai bên xương vai, rạn xương cánh tay trái, đau xương cổ và còn các triệu chứng khác như nôn mửa và sốt v.v.
Bên kiểm sát cho rằng thương tật của Takeuchi là do gã tự ngụy tạo. Lý do lớn nhất là trong khi vợ chồng Matoba bị thương chủ yếu ở đầu thì Takeuchi lại hầu như không có thương tích gì đáng kể phía sau đầu mà chỉ tập trung ở lưng.
Ngược lại, theo bên luật sư biện hộ, nguyên nhân đơn giản là do Takeuchi đã lấy tay che đầu nên mới tránh được bị tổn thương, bằng chứng là hai mu bàn tay của gã có các vết bầm tím, mu bàn tay trái còn bị rạn xương. Hơn nữa giám định viên bên luật sư biện hộ còn nêu ý kiến, xem xét kỹ vết bầm tím sau lưng bị cáo, phải do người trưởng thành cầm gậy kim loại đánh bóng chày vung lên và vụt mạnh xuống ít nhất hai mươi lần trở lên mới có thể để lại hậu quả như vậy. Có nghĩa là nếu tự biên tự diễn thì không thể tạo ra vết đánh đập nặng đến thế.
Giám định viên bên kiểm sát cho rằng nếu là nam giới khỏe mạnh cầm gậy bóng chày vung ra đằng sau rồi đập vào thì lực cũng khá mạnh, và nếu đập liên tục thì có thể tạo ra vết thương như của bị cáo. Thật ra ngay từ đầu giám định viên bên kiểm sát cũng không nhận định rằng việc này không thể tự gây ra. Thành thử về điểm này có mâu thuẫn trong nhận định từ hai phía. Thế nhưng thực tế chính Isao đã thử cầm gậy bóng chày bằng kim loại đánh ra sau lưng mình và thật lòng ông cảm thấy tư thế ấy không thể tạo ra vết thương khủng khiếp như trên các tấm ảnh chụp bằng chứng.
Căn nhà của gia đình Matoba, cũng là hiện trường vụ án, là một căn nhà hai tầng ở thành phố Chofu thuộc Tokyo. Thời điểm gây án là 5 rưỡi chiều ngày 27 tháng Tám. Trong nhà không có dấu hiệu bị lục soát như mấy vụ trộm cướp thường thấy và cũng không có thông tin gì về việc nhân chứng bắt gặp kẻ khả nghi ở gần đó trước và sau thời điểm gây án. Vì cửa ra vào không khóa nên hiển nhiên ngôi nhà nằm trong tình trạng có thể bị đột nhập.
Tuy nhiên, trong nhà không có dấu tích ai đó đi cả giày vào, cũng không có dấu vân tay nào đáng lưu ý. Phần tay cầm của gậy kim loại đã bị lau sạch dấu vân tay.
Bên biện hộ chủ trương, Takeuchi trước khi tự thú đã khai nhất quán rằng khi gã ta và vợ chồng Matoba đang trò chuyện vui vẻ ở phòng khách tầng một thì đột nhiên có một người đàn ông bịt mặt bằng tất da chân xuất hiện. Hắn có vóc dáng trung bình, mặc áo sơ-mi đen và quần bò. Trên tay hắn cầm chiếc gậy đánh bóng chày bằng kim loại được để ở cửa vào nhà Matoba, hắn không nói không rằng trước hết đánh thẳng xuống vai của Takeuchi đang ở gần đó nhất. Sau khi Takeuchi bị đánh gục, gã đàn ông tiến vào giữa phòng và đánh liên tục vào hai vợ chồng nhà Matoba.
Lúc này ở nhà Ikemoto kế bên, vợ của Ikemoto là Kyoko đang tưới nước cho cây cảnh trong vườn. Chị ta nghe thấy tiếng như tiếng người la hét và tiếng đồ đạc va đập. Tuy nhiên, tiếng la và tiếng động đó không to đến mức giật mình và cũng không kéo dài nên chị ta đã bỏ qua không để tâm đến.
Khi Takeuchi cố gắng gượng dậy định lao vào gã đàn ông thì hắn đã tấn công xong vợ chồng nhà Matoba. Hắn đẩy Takeuchi ra rồi đánh liên tục vào lưng bị cáo.
Nếu ngay từ đầu thủ phạm định vào nhà với mục đích hành hung thì hắn phải mang theo hung khí gì đó chứ tại sao lại dùng cây gậy đánh bóng chày vô tình có sẵn đó làm hung khí? Bên kiểm sát đã đặt ra nghi vấn như vậy nhưng Takeuchi tất nhiên không thể đưa ra lời đáp. Chỉ có hung thủ thật sự mới trả lời được mà thôi. Giả dụ hắn ta cũng có mang theo hung khí nhưng khi nhìn thấy chiếc gậy bóng chày liền nhận ra cái đó hiệu quả hơn nên chuyển sang dùng thì cũng không có gì khiên cưỡng.
Người báo cho cảnh sát đầu tiên là Takeuchi. Cảnh sát ghi nhận gã đã gọi vào đường dây nóng 110 lúc 5 giờ 58 phút chiều, nghĩa là khoảng ba mươi phút sau khi tội ác được thực hiện. Bản thân Takeuchi thì khai rằng gã đã mất thời gian để gượng dậy do còn chấn động và bị thương. Chưa kể hung thủ vẫn có khả năng còn ở trong nhà. Nếu sơ suất có thể sẽ lại bị hắn tấn công lần nữa. Takeuchi đã không dám cử động suốt một lúc lâu vì nỗi sợ ấy và cũng vì lưng đang bị thương.
Trong khoảng thời gian đó thủ phạm đã lấy chiếc cà-vạt nằm trên bàn phòng khách vừa được nhắc tới siết cổ cậu con trai Matoba Kenta tại cầu thang rồi bỏ trốn. Bên kiểm sát đưa ra suy luận rằng Takeuchi đã sử dụng khoảng trống ba mươi phút ấy để tự biên tự diễn ngụy tạo hiện trường giả.
Không có manh mối nào mang tính quyết định. Khoảng thời gian trống. Thủ phạm trong tưởng tượng. Người đàn ông duy nhất còn sống sót… Khi quá trình điều tra đi vào ngõ cụt, cũng dễ hiểu tại sao bên điều tra lại cần đầu mối từ người báo tin đầu tiên. Thế nhưng giả thiết Takeuchi là thủ phạm mà họ nhào nặn ra chẳng phải quá méo mó và thiếu tự nhiên hay sao? Một kẻ vừa giết người do không kìm nén được cảm xúc lại lập tức trở nên bình thản để ngụy tạo hiện trường, câu chuyện nghe không hợp lý chút nào.
Dẫu vậy bên kiểm sát vẫn ra sức đẩy vụ án lên đến giai đoạn khởi tố. Chỉ cần chất vụ án đó lên chiếc băng chuyền mang tên “tư pháp” là có thể khoanh tay chờ nó tự trôi đến giai đoạn “có tội” với xác suất 99,9%. Hàng lỗi chỉ chiếm tỷ lệ một trên một nghìn. Không biết những người ấy có trông chờ vào câu chuyện thần thoại đó hay không nhưng chắc chắn họ vẫn có một sự yên tâm nhất định khi “gửi gắm” cho tòa án.
“Toàn hội trường đứng dậy.”
Viên điều hành tòa án hô hiệu lệnh, những người có mặt tại tòa đồng loạt đứng lên. Tất cả cùng cúi xuống làm lễ thật nghiêm trang.
“Sau đây chúng tôi xin bắt đầu phiên xét xử.”
Isao ngồi ngay ngắn xuống ghế rồi bắt đầu nói bằng một giọng hết sức điềm đạm.
“Sau đây, tôi sẽ đọc phán quyết. Bị cáo hãy bước lên phía trước.”
Sau khi đã được tháo còng và dây thừng buộc lưng, Takeuchi tiến lên ghế dành cho bị cáo với những cử động cứng ngắc, đối mặt với Isao ở phía chính diện. Khuôn mặt hơi cúi xuống không để lộ bất kỳ cảm xúc gì. Cũng dễ hiểu khi môi gã tái xanh.
“Được rồi, bây giờ tôi sẽ đọc phán quyết.” Isao nói nhanh hơn, từng lời thốt ra bình thản. “Tôi sẽ đọc phán quyết chính về vụ án sát nhân dành cho bị cáo, hãy lắng nghe.”
Đọc lời phán quyết trước có nghĩa là không phải tử hình… Isao bắt đầu đọc thật nhanh, không để những người có mặt tại đó có đủ thời gian để nhận ra điều này.
“Phán quyết: Tòa tuyên bố bị cáo vô tội.”
Toàn bộ pháp đình im bặt như thể không ai nghe thấy lời nói của Isao.
“Sau đây tôi sẽ đọc về chi tiết nhận định và lý do phán quyết. Nội dung sẽ hơi dài nên bị cáo hãy ngồi xuống nghe.”
Takeuchi mấp máy bờ môi cứng đờ khẽ thốt một tiếng “Vâng” rồi cúi đầu.
Sau khi Takeuchi đã loạng choạng ngồi xuống ghế dành cho bị cáo như một con rối thì những người dưới khán phòng bắt đầu có phản ứng.
“Vô tội, vô tội.”
Những tiếng thì thào không giấu nổi sự hưng phấn vang khắp không gian, một số người đã đứng dậy rời khỏi pháp đình.
Isao không nhìn mặt của gia đình nạn nhân, cũng không nhìn mặt kiểm sát viên Nomiyama.
Ông chỉ đọc bản phán quyết một cách bình thản, nghiêm nghị.
“Mặt cô Mihara lúc ấy tái xanh luôn nhỉ. Tôi cứ lo cô ấy sẽ ngã lăn ra đấy.”
Trên lối đi trở về phòng thẩm phán, trợ lý thẩm phán Nakanishi mở lời. Mặc dù cậu ta giữ giọng trầm nhưng trong lời nói không giấu nổi vẻ hưng phấn. Hội thẩm ghế phải hay ghế trái đều không có gì phải làm trong khi thẩm phán đọc bản phán quyết nên có thể quan sát kỹ toàn cảnh phiên tòa.
“Cô ấy mà ngã ra thì có phải tôi đã được dịp làm anh hùng cứu mỹ nhân rồi không.”
Hội thẩm Kito nói đùa, mấy thực tập viên tư pháp khẽ cười.
“Anh chàng Nomiyama cũng có mặt nhỉ, thật là hiếm thấy.”
Nghe Isao nói, Nakanishi há hốc miệng ngạc nhiên. Có vẻ cậu ta không nhận ra điều đó.
“Vâng anh ta đã đến đấy ạ,” Kito cười nhăn nhở. “Nhưng mặt mũi anh ta đỏ bừng, trái ngược hẳn với cô Mihara đấy. Kiểu này thế nào anh ta cũng đến đây kêu ca cho mà xem. Chắc là sẽ đến đấy ạ.”
“Kêu ca với chúng ta thì cũng vậy thôi mà.”
Mặc dù không nói thẳng ra là “tự làm tự chịu” nhưng trong lời nói của Isao rõ là có bao hàm ý đó.
“Nhưng nói thật thì em cũng đã lo lắng, may mà mọi việc kết thúc êm xuôi…”
Kito nói, Isao mỉm cười gật đầu. Trước phán quyết gần như chấn động ấy, các bên liên quan trong phiên tòa có lẽ đều có những cảm xúc riêng tùy theo lập trường của mình, tuy nhiên không ai làm ầm lên tại tòa án cả.
“Nếu ta cứ tiến hành phiên tòa một cách bình thản và nghiêm nghị thì sẽ như vậy đấy,” Isao nói rồi đánh mắt qua các thực tập sinh tư pháp. “Phiên tòa hôm nay là một kinh nghiệm quý báu đó. Tôi có thể làm được điều này chính là nhờ sự độc lập của thẩm phán luôn được bảo vệ. Các bạn hãy tin vào bản thân, dũng cảm đưa ra quyết định. Nếu các bạn làm thẩm phán thì chuyện gặp phải ca như hôm nay một lần trong đời cũng không có gì lạ. Hãy trau dồi để có được cái mũi thính biết phân biệt đúng sai nhé.”
Isao nói rồi mỉm cười, bốn thực tập sinh cúi đầu thật lễ phép.
Nói là “mãn nguyện” thì hơi quá nhưng quả thật qua buổi xét xử hôm nay, Isao thấy có thể tự khen ngợi chính mình. Việc phán vô tội cho một bị cáo đã từng bị dồn đến đường phải tự thú có thể nói gần như là kỳ tích trong giới xét xử thông thường. Bản thân Isao cũng chưa từng đưa ra phán quyết nào liều như vậy. Ông đã có thể kết thúc phiên xét xử kịch tính như vậy trong trang nghiêm. Đây có thể coi là màn kết huy hoàng cho cuộc đời thẩm phán lâu năm của ông.
Họ ra khỏi lối đi chuyên dụng và vào tòa nhà phía Bắc nơi có Phòng hình sự số Một. Thông thường phòng dành cho thẩm phán được bố trí ở phía trong phòng thư ký, tuy nhiên Phòng hình sự số Một ở đây lại bố trí phòng thư ký và phòng thẩm phán nằm đối diện nhau, ở giữa là hành lang.
“Hôm nay chúng ta đã xét xử xong một vụ án khó, giờ ta đi làm một chầu ở Tachikawa hay đâu đó thôi nhỉ?”
Kito vừa cởi cúc áo choàng thẩm phán vừa nhìn sang Isao và Nakanishi.
“Hôm qua anh làm thêm giờ cũng là để chuẩn bị cho phút giây này đúng không?”
Nakanishi ghẹo Kito, cả nhóm cười rộ lên.
Trong khi mọi người đang xôn xao bàn tán thì đột nhiên có tiếng giày lộp cộp của ai đó đang chạy qua hành lang về phía họ.
“Này, ông thẩm phán, dừng lại!”
Trước tiếng gọi đó, Isao dừng chân quay đầu lại. Người đàn ông mặc bộ com-lê đen đang kẹp khung ảnh dưới nách sừng sộ tiến lại gần ông. Là Ikemoto Tooru. Chỉ thoáng nhìn cũng đủ thấy mắt anh ta đang long lên vì tức giận.
“Ông nghĩ cái gì thế? Hả?”
Ikemoto nói mà như quát với hơi thở gấp gáp, tóm lấy áo thẩm phán của Isao như thể sắp lao bổ vào ông. Nắm đấm cứng tựa đá của gã siết vào bắp tay Isao.
“Khoan đã, dừng lại,” những người cùng phòng đang đi chung với Isao vội lao vào can ngăn.
“Thằng khốn này, thả tao ra! Đồ súc sinh! Cái đồ thẩm phán bố láo!”
Phản ứng của người xung quanh lại càng làm Ikemoto thêm kích động, anh ta chửi rủa với vẻ phẫn nộ.
“Nguy hiểm đấy,” Isao cố giữ vẻ điềm tĩnh, hất tay đối phương ra khỏi áo thẩm phán của mình.
“Này, chờ đã, đừng có trốn…”
“Thôi nào, thôi nào.”
Các thanh niên trẻ trong phòng vội vàng kéo Ikemoto lại khi gã định lao vào Isao lần nữa. Thế nhưng Ikemoto mặc kệ, vẫn cố tiến lên phía trước nên trượt chân ngã phịch xuống sàn.
Tiếng thủy tinh vỡ vang lên, mọi người có mặt ở đó sững sờ ngưng bặt.
Phần kính của chiếc khung nhét ảnh nạn nhân vụ án vỡ tan. Tấm ảnh bên trong rơi ra đáp nhẹ xuống sàn, tay Ikemoto rớm máu.
Ikemoto nhìn tấm ảnh rơi xuống sàn rồi lại nhìn sang tay mình, đoạn ngẩng đầu lên nhìn Isao.
Isao thoáng rùng mình trước ánh mắt dị thường của Ikemoto nhưng ông vẫn chỉ thốt ra những lời bình thản.
“Nguy hiểm đấy.”
Ikemoto không vội đứng lên ngay. Anh ta nhặt tấm ảnh lên rồi nhét lại vào khung ảnh đã vỡ mất lớp kính. Vừa chớp mắt liên tục nhìn Isao, anh ta vừa thở ra những hơi gấp gáp, và cứ tiếp tục nhìn Isao như vậy.
“Hãy nhặt kính lên cho anh ta đi.”
Isao chỉ thị thư ký thẩm phán và các thực tập sinh. Khi cấp dưới bắt đầu nhặt kính, Isao quyết định rời đi. Nakanishi mở cửa phòng thẩm phán.
“Nguy hiểm đấy.”
Isao nói thêm một lần nữa với Ikemoto rồi bước vào phòng thẩm phán dưới sự bảo vệ của Kito và các phụ tá.
“Ôi… Sợ quá…”
Nakanishi cố ý làm ra vẻ rùng mình như để xua tan bầu không khí nặng nề rồi đóng cửa.
Chuyện những người liên quan đến phiên xét xử lao vào tận phòng thẩm phán trước nay cũng không phải là ít, tuy nhiên manh động như Ikemoto quả thật khiến người ta lạnh gáy. Trong suốt cuộc đời làm thẩm phán lâu năm của Isao, đây là lần đầu tiên ông bị lao vào tóm tay như vậy. Để bảo đảm an toàn, không có biển treo trước cửa phòng thẩm phán, cũng không có chỉ dẫn gì về căn phòng này trên bản đồ hướng dẫn, tuy nhiên vẫn có rủi ro tình cờ gặp hành lang.
“Kêu ca với chúng ta thì cũng đâu có được gì…”
Isao lẩm bẩm những điều vừa nói lúc nãy và khẽ buông ra một tiếng thở dài. Ông cởi áo thẩm phán, cất vào tủ, bấm máy pha một tách cà phê đầy rồi quay về chỗ chiếc bàn làm việc có đống tài liệu chất như núi bên trên.
Sau khi ông nới lỏng cà-vạt, lôi hộp bánh quy từ trong ngăn kéo ra và nhón lấy một miếng bỏ vào mồm thì có tiếng gõ cửa nhẹ. Chánh văn phòng thò đầu vào.
“Thưa trưởng phòng, anh Nomiyama…”
Chánh văn phòng chưa nói hết câu thì từ đằng sau một cánh tay đã với tới mở toang cánh cửa. Nomiyama với khuôn mặt nhăn nhó đang đứng đó. Ánh mắt như đang suy tính điều gì của anh ta nhìn thẳng vào Isao.
Isao định đứng lên nhưng Nomiyama đã giơ tay ra ngăn lại.
“Tôi đứng đây được rồi.”
Tay công tố viên bốc phải thẻ hung của 0,1% còn lại đang đút tay vào túi chiếc quần âu màu tối, bước từ phải qua trái ở lối đi hẹp trước bàn Isao một cách khó hiểu.
“Anh có thù hằn gì với tôi sao?” Anh ta hỏi, mặt đanh lại.
“Làm gì có chuyện đó,” Isao cười đáp.
“Anh tự đưa ra phán quyết đó à?”
“Tất nhiên là sau khi hội ý với hội đồng xét xử.”
Thực ra phán quyết đó có sự dẫn dắt khá lớn từ Isao, tuy nhiên bản thân Isao cũng khá tự tin với quyết định của mình. Một khi trưởng phòng đã dẫn dắt cuộc họp với một lòng tin không đổi thì hội thẩm ghế trái hay ghế phải cũng khó mà chĩa mũi giáo lại mãi được. Kito và Nakanishi đều là các hội thẩm bình thường nên mọi chuyện diễn ra êm xuôi.
“Tôi sẽ lật lại phán quyết ở tòa án nhân dân cấp cao. Và tiểu sử của anh sẽ có vết nhơ đấy.”
“Tòa án nhân dân cấp cao? Có nghĩa là anh định kháng cáo?”
Khuôn mặt Nomiyama cho thấy câu trả lời đã quá rõ ràng.
Bên kiểm sát và bên biện hộ đều có quyền kháng cáo, tuy nhiên ngay cả khi đưa ra xử lại, phán quyết của lần xét xử đầu tiên cũng vẫn được coi trọng. Bởi vì lần xét xử đầu tiên là phiên tòa sống động được diễn ra khi vụ án còn chưa mất đi tính thời sự. Kháng cáo có thể sẽ làm thay đổi hình phạt ở một mức nào đó, tuy nhiên hầu hết kết quả sẽ là bãi bỏ kháng cáo và giữ nguyên phán quyết. Cho dù phán quyết ở lần xét xử đầu tiên có vô lý đến đâu thì phán quyết sau kháng cáo cũng không thể đổi trắng thay đen từ có tội thành vô tội hay từ vô tội thành có tội. Bởi nếu cứ thay đổi phán quyết liên tục thì sự tin cậy dành cho toàn bộ chức năng của tòa án sẽ bị ảnh hưởng. Những người tử tù đau khổ vì án oan cũng gặp khó khăn vì thông lệ này.
Nếu có mầm mống của án oan thì phải cắt bỏ ngay từ lần xét xử đầu.
“Tôi biết mình hơi bao đồng nhưng tôi khuyên anh đừng nên kháng cáo. Bản thân anh cũng nên nói với mọi người ở phòng kiểm sát. Việc điều tra vừa rồi không ổn lắm đâu. Phòng hình sự nên làm việc tỉ mẩn hơn nữa. Cô Mihara bị cô lập chẳng ai giúp đáng thương lắm.”
Nomiyama chống tay vào bàn của Isao và vươn người về phía ông.
“Takeuchi là thủ phạm. Hắn đã tự đầu thú.”
“Tôi biết bên kiểm sát các anh luôn cho là như vậy.”
“Anh đã không trừng trị kẻ sát nhân mà thả hắn về xã hội đấy.”
“Nomiyama,” Isao đứng lên, lôi cây gậy đánh bóng chày bằng kim loại từ tủ để đồ của mình ra. “Anh hãy thử dùng cây gậy này đánh vào lưng của mình xem? Không thể nào tạo ra vết thương như vậy được. Việc anh nên làm không phải là trút giận vào tôi mà là tìm ra thủ phạm bí ẩn đã khiêu khích cảnh sát và bỏ trốn. Nếu không làm vậy thì ngay cả ba người nhà Matoba cũng không thể yên lòng nơi chín suối đâu.”
Ánh mắt sắc lẹm của Nomiyama hết nhìn cây gậy rồi lại nhìn sang Isao. Anh ta không nói thêm lời nào.
“Nhưng mà…” Isao cất cây gậy lại vào tủ rồi mở lời xoa dịu bầu không khí căng thẳng. “Chắc tôi cũng chẳng có cơ hội gặp anh như thế này nữa đâu.”
“Anh sắp chuyển công tác ư?” Nomiyama buông một câu hỏi lạnh lùng, mắt vẫn tối sầm. “Nhưng hình như trưởng phòng Kajima cũng đang đảm trách cả vụ giết người hàng loạt để lấy tiền bảo hiểm ở Mitaka mà, vụ ấy chưa kết thúc thì anh đâu thể chuyển công tác?”
Vụ án giết người hàng loạt để lấy tiền bảo hiểm là vụ án lớn với số nạn nhân lên tới bốn người, việc xét xử được tiến hành từ ba tháng trước.
“Tôi cũng không ngờ mình lại bị giao vụ đó… Tôi cũng băn khoăn nhưng nếu cứ cả nể thì không biết bao giờ mới dứt ra được, lòng tôi đã quyết rồi.”
“Anh nói thế có nghĩa là gì?” Nomiyama cau mày.
“Tôi sẽ về hưu.”
“Thế à?” Nomiyama cảm thán bằng giọng không cảm xúc.
“Tôi cũng không mong anh sẽ hiểu cho vấn đề của gia đình tôi. Mẹ tôi gần như liệt nửa người rồi. Nên nếu tôi có bị điều động đi đâu tiếp cũng khó đáp ứng được. Nhà thiếu người chăm sóc bà, vì vậy nhân cơ hội này tôi đã quyết định xin về hưu.”
Thật ra còn có một lý do nữa là ông được mời làm giảng viên ở một trường đại học nọ. Nhưng lúc này không phải là thời điểm thích hợp để nói ra điều đó nên ông chỉ dừng lại ở đây.
“Vậy… anh hãy cố chăm sóc cho cụ nhà.” Nomiyama nói với vẻ mặt tỏ ra đồng cảm nhưng khóe miệng vẫn nhếch lên. “Tôi không biết trưởng phòng Kajima lại là người con hiếu thảo như vậy đấy. Chắc không phải là anh xin về hưu để lẩn tránh vụ ở Mitaka, vụ mà chắc chắn sẽ phải tuyên án tử hình đấy chứ?”
Nói đoạn anh ta quay lưng bỏ đi. Isao cũng chẳng buồn trả lời, chỉ lặng yên nhìn theo gã đàn ông khó chịu đã làm cả phòng mất hứng rồi ngạo mạn rời đi đó.
“Có lẽ tôi sẽ không đến dự tiệc chia tay của anh được. Tôi bận lắm.”
Khi đã chạm tay vào tay nắm cửa Nomiyama còn cố ném lại một câu chỉ có thể gói gọn trong hai chữ “thừa thãi”.
“Anh đừng lo. Tôi cũng không mời anh đâu.” Isao nói với theo.