← Quay lại trang sách

HỒI THỨ NHẤT CHÁU VUA TẦN LÀM CON TIN Ở THÀNH HÀM DƯƠNG-NHÀ BUÔN Ở DƯƠNG ĐỊNH MUA ĐƯỢC MÓN HÀNG LẠ

Năm thứ bốn mươi sáu triều vua Chiêu Vương nhà Tần, tức năm 261 trước Công nguyên, một hội chợ rất lớn được tổ chức tại quảng trường chung quanh Tùng Đài, nơi thường diễn ra các yến tiệc, các buổi triều chính nghị sự và đón tiếp tân khách của vua Hiếu Thành nhà Triệu. Triều đình cho mở hội chợ là để mừng được mùa. Trời mới vào đông nên hơi se lạnh. Màn đêm đang buông dần. Hàng trăm ngọn nến rực sáng chiếu rọi trên một biển hàng hoá: nông sản, gia súc, gia cầm, lương thực, thực phẩm, rau quả, tơ lụa, gấm vóc, vàng bạc, đồ trang sức bằng ngọc ngà châu báu, cung tên, kiếm kích, vải vóc, da lông thú... muôn vàn thứ cần thiết cho con người, từ người giàu sang đến người bình thường, từ nhu cầu đời sống hàng ngày đến trận mạc chinh chiến. Nghe nói đây là một hội chợ lớn chưa từng có, người xe tấp nập, ồn ào náo nhiệt cả một vùng. Ở chính giữa chợ là một “nhà lán” rất lớn vì hàng hóa trong nhà này được bày thành vòng tròn. Khách mua hàng vừa đi vòng quanh vừa xem hàng và lựa chọn, ưng mua cái gì thì có thể tiện tay cầm lấy, rất dễ dàng và nhanh chóng. Xem thế đủ biết chủ hàng là một tay cao thủ trong nghề buôn, biết tạo ra một môi trường bán hàng rất thuận tiện cho khách hàng. Ở trước cửa chính của “nhà lán” có dựng một cột cờ rất cao, trên đó treo một lá cờ viền sóng lượn nền trắng với bốn chữ rất lớn: “Họ Lã. Dương Địch”. Nét chữ rắn rỏi sắc sảo, thể hiện một trình độ văn hóa cao siêu. Gió đưa lá cờ phấp phới tung bay, càng tăng thêm vẻ oai phong ngạo nghễ.

Người họ Lã, đất Dương Định (nay là huyện Ngu tỉnh Hà Nam) đó không ai khác, chính là Lã Bất Vi, một nhà buôn lớn lúc bấy giờ. Tuy tuổi đã ngoài bốn mươi, nhưng trông vẫn còn rất trẻ trung cường tráng, trán rộng, khuôn mặt nhẵn bóng và mồ hôi nhễ nhại, bước chân rất dài nhưng khoan thai. Lã Bất Vi nhã nhặn tiễn đưa một đoàn khách đi ra đến cửa, chắp tay và nói với khách như xin lỗi họ:

- Thưa các vị vương hầu, công khanh, cao nha, đại hộ [i], kẻ tiểu thương này vừa mới chở hàng từ quê nhà ở Dương Địch đến đây hôm qua. Sở dĩ đến chậm như vậy là vì đường xá bị chiến tranh liên miên tàn phá, xe cộ đi lại rất khó khăn chậm trễ. Vừa đến nơi đã phải vội vàng bày biện để kịp chào đón quý khách, cho nên hàng hóa chưa thật dồi dào, mẫu mã chưa thật đầy đủ. Hôm nay được chư vị thượng khách không quản ngại thì giờ vẫn chiếu cố đến dự, chúng tôi thật vô cùng cảm kích và vinh dự. Chỉ rất đáng tiếc là lúc này còn quá ít những thứ thượng hảo hạng, chúng tôi rất áy náy trong lòng. Đợi vài ngày nữa, sẽ chọn một ít hàng tinh xảo quý hiếm và đích thân mang đến tận nhà quý vị...

- Xin đa tạ, xin đa tạ. Đã nhận được quá nhiều rồi. - Một số vị khách, một tay cầm đồ trang sức hoặc da lông thú, một tay khoát về phía Lã Bất Vi, tỏ ý cảm ơn chủ hàng.

Lã Bất Vi nói tiếp:

- Các vị đã có tấm lòng thịnh tình như vậy, chúng tôi nhất định còn đến hầu hạ.

Một vị khách đáp lại:

- Ngài Lã hậu đãi như vậy, tôi cũng áy náy vô cùng. Không nhận thì bất kính, mà nhận thì rất phân vân.

Một người khách khác lên tiếng:

- Theo tôi thì cứ nên trả tiền cho ông chủ theo giá gốc của hàng hóa; không nên để cho nhà buôn cao quý ấy quá thiệt thòi!

Lã Bất Vi vội nói:

- Khỏi! Khỏi! Khỏi! Chư vị đều là các yếu nhân của quý quốc nhà Triệu, nay họ Lã tôi đây được may mắn gặp mặt làm quen, là điều vinh hạnh vô cùng to lớn cho kẻ tiểu thương này rồi. Những thứ mà chư vị đã chọn, chỉ là một chút lễ mọn của họ Lã. Chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng của mình chứ không dám lấy tiền, không thể lấy tiền...

Các vị khách cũng không khách sáo mãi nữa. Họ nói:

- Quý nhau không bằng nghe lời nhau. Xin đa tạ tấm thịnh tình của ông chủ cao quý! Xin cáo từ. Xin ngài khỏi phải tiễn chân nữa.

- Xin chào quý khách. Xin tha lỗi, không tiễn chân xa hơn nữa!

Sau khi tiễn khách, Lã Bất Vi thấy trời đã tối hẳn, bèn dặn dò đám người giúp việc:

- Hôm nay chỉ bày hàng đến đây thôi, bây giờ phải thu dọn, đem phân loại và chất lên xe đưa về nhà!

Lã Bất Vi vừa dứt lời, mọi người liền bắt tay ngay vào việc thu dọn hàng hóa. Một số người dắt ngựa đến, vội lắp hàm thiếc vào mồm ngựa, lắp càng xe vào, chờ đến khi xe đầy hàng thì đánh ngựa đi về. Lúc này, người bạn tâm phúc và cũng là người quản lý sổ sách tiền nong của Lã Bất Vi là Lã Yên đến bên cạnh Lã Bất Vi. Lã Yên khe khẽ nói bên tai chủ:

- Ông chủ, thế còn cái lán này?

Lã Bất Vi nhìn lên bầu trời tối om, sau đó mới từ từ trả lời câu hỏi của người giúp việc:

- Không cần tháo dỡ lán. Theo ta thì mấy ngày tới trời vẫn không mưa gió gì, lán được dựng ngoài trời, không gây trở ngại cho bất cứ ai.

- Ông chủ nói đúng quá. Thế cũng đỡ mất công! - Lã Yên định quay gót bước đi, bỗng nhớ ra điều gì, liền dừng lại hỏi thêm - Có cần cắt cử người trông coi hay không?

- Cũng được. Khi nào đưa hàng về nhà xong, phiền bác chọn mấy đứa trẻ khỏe ở nhà đến đây canh chừng ban đêm. Những đứa đã làm việc mấy hôm nay ở đây đều mệt nhọc bở hơi tai rồi, để cho chúng nghỉ ngơi ở nhà.

Sau khi sắp xếp mọi việc đâu vào đấy, Lã Bất Vi cùng với Lã Yên đi kiểm tra một lượt tất cả các xe hàng, sau đó khoát tay ra hiệu cho một đoàn xe khởi hành. Hai người đứng nhìn đoàn xe lăn bánh khuất dần trong màn đêm. Bỗng Lã Bất Vi nhớ ra một điều gì, ông vội bảo người bạn già:

- Bác chạy theo đoàn xe lấy lại mấy tấm da lông thú, chúng ta phải đi bộ vì xe chở quá nhiều hàng. Dọc đường, tôi và bác có thể đi qua nhà các yếu nhân trong triều hoặc các bậc đàn anh trong ngành buôn bán, những người mà hôm nay họ chưa đến đây, tiện thể chúng ta có cái làm quà biếu họ.

Lã Yên gật đầu, im lặng vâng lời. Hai người rảo bước đi về. Khi hai người đi qua khu phố nhộn nhịp nhất, bỗng Lã Yên lên tiếng nhắc nhở Lã Bất Vi:

- Ông chủ, trời đã sang đông, gió đang thổi mạnh, càng về đêm càng lạnh buốt, không thể coi thường. Có lẽ chúng ta nên dừng bước ở đây, hớp vài chén cho ấm người.

Lã Bất Vi nghe người trợ thủ nói vậy, thấy cũng hợp lòng mình, bèn dừng chân và quay bước vào một quán rượu cạnh đường. Hai người vừa bước vào, chủ quán đã lập tức chạy đến đon đả mời chào:

- Té ra là Lã đại nhân! Đã bao nhiêu ngày rồi chẳng thấy ngài chiếu cố đến cái quán nhỏ này!

Lã Yên trả lời thay cho chủ:

- Chúng tôi về quê Dương Địch lấy hàng, nay mới quay lại đây. Xin sắp xếp một chỗ ngồi riêng cho hai chúng tôi và thắp đèn sáng lên.

Chủ quán lập tức đưa hai người vào một phòng riêng đúng theo yêu cầu và hỏi:

- Xin hỏi hai vị dùng gì?

- Cho một bình rượu đã hâm nóng, hai đĩa thịt, một canh hoa quỳ.

Rượu thịt đã được mang lên, Lã Bất Vi vừa tớp một ngụm rượu vừa bảo Lã Yên mang mấy tấm da lông thú vắt lên tấm bình phong chắn gió.

Lã Yên vừa ăn vừa nhỏ to với ông chủ:

- Tôi nói thế này nếu không phải, xin ngài bỏ quá đi cho. Vừa rồi ngài quá vung tay, người ta đã nói đến chuyện trả tiền các tặng phẩm ấy, lẽ ra có thể chiều theo ý khách để thu về một ít vốn, hà tất phải lên mặt sĩ diện, nhất loạt miễn phí cho mọi người!

- Không sĩ diện thì mặt của tôi vẫn thế. Bác không biết trên đời này từng có câu nói rằng kẻ đến thì chẳng tốt gì, người tốt thì không đến. Nếu lấy của họ một ít tiền để họ chê mình là anh chàng tiểu nhân, chi bằng cho không họ còn hơn. Mà mấy ông lớn này nhận được quà của mình, họ sẽ sai bảo quan chức cấp dưới của họ nới tay cho ta, ta có thể rộng đường định giá hàng hóa, họ cũng có thể đánh thuế của ta thấp hơn một chút. Vậy chẳng mấy chốc mà lại vốn! Đại quản gia của tôi có hiểu không? - Nói xong, Lã Bất Vi cười sảng khoái.

- Ngài tính toán thật tinh tường chu đáo, già này xin phục sát đất! - Lã Yên vừa nói vừa nâng cốc.

Lã Bất Vi chạm cốc và uống một hơi thật dài, rất đắc ý:

- Làm cái nghề buôn bán này không phải chỉ biết nghĩ mà còn phải biết nhìn, nhìn thương trường đã đành, lại còn phải nhìn quan trường!

Vừa lúc ấy bỗng có hai người đẩy cửa bước vào. Họ ngồi ở một phòng rộng bên ngoài, đối diện với căn phòng mà Lã Bất Vi đang ngồi. Sau khi nhấm nháp rượu thịt, vị khách lớn tuổi ngước mắt nhìn thấy tấm da lông thú vắt trên bức bình phong, hình như rất ưa mắt nên ông ta bước đến ngắm nghía rất kỹ, toan đưa tay sờ vào hiện vật.

Lã Yên thấy vậy bèn vội bước tới can ngăn:

- Hình như ngài muốn dùng mấy tấm da thú này phải không ạ?

- Cố nhiên rồi. Loại hàng này, ta cũng có hiểu biết đôi chút. Chẳng qua ngồi đằng ấy hơi xa, trời lại tối, đèn dầu mù mờ nhìn không rõ, nên mới đến tận nơi xem kỹ một chút. - Vị khách nói hơi dài nhưng rất nhã nhặn.

- Xem thì được, nhưng xin đừng sờ tay vào. - Lã Yên nói năng hơi nặng giọng một chút.

- Không được sờ thì làm sao biết được tốt hay xấu. - Người khách tỏ vẻ không vui.

Lã Bất Vi thấy hai người cứ đôi co mãi bèn vội đứng dậy phân giải:

- Xin ngài quan khách chớ hiểu lầm chúng tôi. Mấy tấm da này chúng tôi sửa soạn đem biếu mấy đại nhân trong phủ, chứ không phải đem bán. Bác quản gia của tôi nói năng không rõ ràng, xin các vị bỏ quá đi cho.

- Đã vậy thì không ép bán nữa.

Vị khách kia nắm chặt hai tay để chào và cáo từ, nhưng bỗng nhận ra Lã Bất Vi, vội “ồ” lên một tiếng và mừng rỡ:

- Té ra là Lã đại thương gia. Đây là hàng của Lã phủ Dương Địch, hẳn phải là loại thượng hảo hạng, danh bất hư truyền mà.

Nghe nói vậy, Lã Bất Vi bất giác cảm thấy có chút ngỡ ngàng. Ông vội đáp:

- Không dám, tôi chỉ vào hạng tiểu thương mà thôi. Xin hỏi đại nhân tại sao lại biết tôi là Lã Bất Vi?

- Kẻ hạ quan là Công Tôn Càn, được triều đình giao cho chức “lễ tân” ở nhà khách Tùng Đài. Hạ quan đã nhiều lần nhìn thấy đại thương gia đến dự tiệc hoặc tiếp kiến tân khách ở đó. Nơi ấy chỉ đón tiếp các thượng khách của triều đình hoặc của các đại thần. Hạ quan rất may mắn được phục dịch nơi sang trọng đó và cũng từng chứng kiến phong độ quan lớn của ngài. - Vị khách kia một lần nữa nắm chặt hai lòng bàn tay để tỏ thái độ cung kính Lã Bất Vi.

- Vậy ra ngài là Công Tôn đại nhân, thầy tớ chúng tôi có mắt như mù, chẳng nhận ra thượng quan tôn quý, để đến nỗi buông lời thất lễ, xin ngài rộng lượng hải hà.

Nói xong, Lã Bất Vi còn ra hiệu cho Lã Yên nói lời xin lỗi. Lã Yên là con người rất khéo mồm khéo miệng:

- Không đáng trách kẻ tiểu nhân không biết việc biết người. Công Tôn đại nhân là thượng quan nơi phủ đường, chắc là không chấp những chuyện nhỏ mọn ấy. - Nói xong, Lã Yên liền bảo chủ quán đưa rượu thịt của Công Tôn Càn đến phòng riêng của Lã Bất Vi, bốn người cùng chén thù chén tạc một bàn. Khi mọi người đã ngà ngà say, Lã Yên nhanh nhẩu đưa tiền thanh toán toàn bộ.

Công Tôn Càn vừa gọi người trẻ tuổi kia cùng lại nhậu nhẹt vừa nói lời cảm tạ Lã Yên:

- Ngẫu nhiên gặp nhau, sao lại để một mình quý ngài trả cả tiền, e rằng không tiện.

Lã Bất Vi nâng cốc chúc rượu hai người, bỗng thấy nét mặt người trẻ tuổi không vui, lại còn cúi đầu như đang nghĩ ngợi điều gì mông lung ghê lắm, bèn hỏi Công Tôn Càn:

- Xin ngài giới thiệu vị khách này để chúng tôi tiện bề giao tiếp. Chúng tôi là tiểu thương ở nơi khác đến đây, cũng chỉ là khách tạm trú và nương tựa vào sự giúp đỡ và chiếu cố của các thương gia quý quốc mà thôi. Hôm nay may mắn được gặp Công Tôn đại nhân, thật là duyên phận quá dày. Nay ngồi với nhau bên chén rượu với bữa cơm thường, chẳng phải là mâm cao cỗ đầy, chỉ bày tỏ chút lòng thành kính của kẻ hèn mọn.

Lúc này Công Tôn Càn mới sực nhớ ra, bèn vội vàng trả lời:

- Xin ngài thứ lỗi, suýt nữa thì tại hạ quên mất một việc trọng đại. - Nói xong liền quay người sang hai phía và nói giới thiệu:

- Đây là đại thương gia Lã Bất Vi, quê ở Dương Địch nước Hàn.

Gã thanh niên vội nắm tay chào và nói:

- Rất vinh hạnh! Rất vinh hạnh!

Công Tôn Càn nói tiếp:

- Đây là công tử Dị Nhân đến từ Hàm Dương nước Tần.

Khách chưa nói dứt lời Lã Bất Vi đã rất kinh ngạc, bất giác thốt lên:

- Vậy là đại huynh đây là cháu của vua Chiêu Vương nước đại Tần, là con của điện hạ An Quốc Quân. Và ngài đã đến đây làm con tin nhiều năm nay ở nước Triệu này?

- Đúng thế, ta là công tử Doanh Dị Nhân! - Người thanh niên bẽn lẽn trả lời.

Lã Bất Vi tỏ ra vui mừng, giọng nói cũng có vẻ xúc động. Ông ta nói rất trịnh trọng:

- Kẻ tiểu thương này từ lâu đã hay tin đại vương nhà Tần cho người cháu của mình sang làm con tin ở nước Triệu và ở tại Tùng Đài, nhưng không ai cho gặp, nên không dám mạo phạm tiếp kiến. Nay bỗng được hội ngộ ở đây thật là dịp may ba kiếp đời [ii] mới có một lần!

- Ta cũng chỉ là khách ở Hàm Đan này mà thôi. Nhưng so với ngài thì còn hèn kém hơn, thật tự thẹn trong lòng. - Doanh Dị Nhân nói rất thẳng thắn.

Lã Bất Vi tỏ vẻ hoảng sợ và nói rất khiêm nhường:

- Họ Lã tôi đây bất quá cũng chỉ là một lái buôn, sao có thể sánh ngang với công tử là con cháu hoàng gia được!

Doanh Dị Nhân không tiện đối đáp bèn đưa mắt ra hiệu cho Công Tôn Càn, có ý để ông ta nói.

Công Tôn Càn biết ý bèn nói với Lã Bất Vi:

- Ngài là đại thương gia, dù buôn chuyến hay buôn ngồi, cũng đều tự do làm theo ý mình. Còn công tử đây làm con tin, mỗi lời nói hay hành động đều bị theo dõi chặt chẽ. Bỉ chức tiếng là làm lễ tân nhưng thực ra là trực tiếp giám thị công tử Doanh Dị Nhân theo đúng lệnh của nhà vua Hiếu Thành nước Triệu.

Câu trả lời ấy càng làm cho Lã Bất Vi thêm kinh ngạc, Lã hỏi lại:

- Sao, có chuyện như vậy ư?

- Cũng không hoàn toàn như vậy. - Doanh Dị Nhân vừa cười gằn đau khổ, vừa nói: - Mỗi khi hai nước hòa hiếu với nhau thì tôi được mặc gấm vóc, ăn cao lương mỹ vị, và nghiễm nhiên đóng vai một sứ giả của nước lớn. Nhưng khi nào hai bên xảy ra bất hòa, chống đối lẫn nhau, lúc ấy người ta coi tôi chẳng khác gì một tên giặc ngoại xâm bị bắt làm tù binh, họ theo dõi từng lời ăn tiếng nói của tôi, chàng những làm nhục một công tử như tôi, mà còn liên lụy đến đại nhân Công Tôn Càn, làm cho ngài đây vô cớ bị oan, khiến lòng tôi luôn thấp thỏm lo âu.

Đến đây, Lã Bất Vi thật sự cảm thấy rất khó ăn nói. Công Tôn Càn lại bổ sung thêm. Ông ta hạ giọng:

- Lúc bình thường thì công tử là thượng khách; ở tại dịch quán Tùng Đài, bỉ chức làm phục dịch lễ tân. Công việc như vậy cũng vui vẻ êm xuôi. Nhưng chẳng hiểu cớ gì gần đây hai nước lại xích mích rồi đi đến gầm ghè lẫn nhau, bên nào cũng gươm tuốt khỏi vỏ, nỏ đã căng dây. Vua Triệu bèn đưa công tử ra ở ngoại thành Hàm Đan, tăng cường giám sát. Hạ quan đã theo hầu công tử nhiều năm, nên được triều đình tin cậy và giao cho giữ chức “úy” để giám sát công tử. Vai hôm nữa sẽ lên ngựa đi đến chỗ ngoại ô xa xôi hẻo lánh đó.

- Tuổi còn trẻ thế này mà đã phải hứng chịu bao nỗi nhọc nhằn vì quốc sự. Đất trời xoay chuyển khôn lường, vậy mà công tử cũng chịu nổi! - Lã Bất Vi tỏ lòng đồng cảm sâu sắc với Doanh Dị Nhân.

- Tôi đã nếm trải mười mấy năm trời trong cảnh ngộ biến đổi thất thường như thế này rồi. Hầu như chỉ còn cách nhẫn nhịn chịu lụy, chứ biết làm sao được? - Doanh Dị Nhân lại cười gằn trong đau khổ, rồi đăm chiêu hồi tưởng lại những năm tháng buồn thảm của cuộc đời.

Mười tám năm trước đây, tức năm thứ hai mươi tám vua Chiêu Vương nhà Tần (năm 279 trước Công nguyên), nước Tần và nước Triệu ký kết thỏa ước ngừng chiến và hòa hiếu. Sở dĩ hai nước đi đến sự thỏa thuận lịch sử đó là vì nước nào cũng muốn được nghỉ ngơi để lấy lại sức sau bao nhiêu năm đánh nhau liên miên, lúc thì bên này thắng, lúc thì bên kia đánh bại bên này, gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho cả hai nước, sản xuất đình đốn, đời sống nhân dân ngày càng lầm than khốn khổ, nhân khẩu ngày một hao mòn. Trong hai nước, thì nước Tần dù sao cũng là nước lớn hơn, nên đã chủ động gửi con tin sang Triệu. Con tin đó phải là con cháu hoàng gia, như vậy sẽ có giá trị làm yên lòng nước Triệu.

Sau khi suy nghĩ xếp đặt như trên, Tần Chiêu Vương cho gọi thái tử An Quốc Quân và vợ là Hoa Dương phu nhân đến và ra khẩu dụ:

- Nay nước ta đã ngưng chiến và hòa hiếu với nước Triệu; lại còn phải đưa một hậu duệ hoàng gia sang Hàm Đan nước Triệu, thay mặt nước ta làm con tin bên ấy để giữ chữ tín với họ.

An Quốc Quân chăm chú lắng nghe và có ý thăm dò suy nghĩ của vua cha. Tuy hơi sợ sệt những cũng hỏi lại:

- Ý chỉ của phụ vương là tìm một người trong hàng anh em nhi thần? [iii]

- Không. Không. Không. Thế hệ các người đã quá tuổi tự lập. Hơn nữa, đều đã có gia thất, không tiện đi xa sang tận nước khác. - Nhà vua trả lời.

- Như vậy thì chỉ có thể lựa chọn trong hàng cháu của phụ vương mà thôi. - Hoa Dương phu nhân nói. Nhờ có cương vị ở “đông cung” [iv] của thái tử, nên Hoa Dương phu nhân có hiểu biết chút ít ý đồ của vua cha. Vì vậy, bà vừa nói xong, Tần Chiêu Vương liền gật đầu chấp nhận.

- Ý trẫm cũng chính là ý nhà ngươi vừa nói. - Chiêu Vương vừa đưa tay vuốt nhẹ chòm râu vừa mỉm cười gật đầu.

An Quốc Quân lập tức ủng hộ:

- Phụ vương đã có chỉ dụ rõ ràng như vậy, nhi thần nhất định tìm người đúng theo ý chỉ phụ vương, quyết không để cho ai gây khó khăn cản trở.

Chiêu Vương vẫn giữ thái độ khách quan, công bằng:

- Trẫm và các cháu cách xa nhau một đời người, không hiểu rõ mọi chuyện nên chỉ có thể nói với các ngươi những hướng lớn vậy thôi. Cụ thể chọn ai, các ngươi phải bàn bạc và định đoạt. Khi nào lựa chọn được người cụ thể hãy trình lên Trẫm, để phát thánh chỉ, giao cho triều đình sai sứ đưa sang Hàm Đan nước Triệu. Việc này rất gấp cần làm ngay cho kịp.

Vợ chồng thái tử An Quốc Quân trở về phòng của mình. Hai người ra lệnh cho các tỳ nữ và hoạn quan lui ra để bàn bạc kín đáo. Lúc này, An Quốc Quân tỏ ra rất do dự, chẳng biết nên lựa chọn đứa con nào của mình.

Hoa Dương phu nhân chủ động nói với thái tử:

- Thần thiếp rất thông cảm với nỗi lòng trắc ẩn của thái tử. Chỉ vì thần thiếp là chánh thất ở đông cung, nhưng ông trời không ban phúc cho thiếp, không sinh cho thái tử một đứa con làm thừa tự, nếu có con thì hôm nay đã có người đi làm con tin, thái tử sẽ bớt phần lo nghĩ.

- Nàng không sinh con, hóa ra những lời vừa nói chỉ là “đánh giặc trên giấy”, chẳng giúp ích gì cho công việc trước mắt. Điều rất gay cấn hiện nay là ta có khoảng hai mươi đứa con trai do sáu, bảy cung phi sinh ra. Đưa một đứa đi làm con tin là hết sức hệ trọng, là chuyện sống chết. Các con đều là máu mủ của mình, các phi đều là mẹ đẻ của chúng. Ai có thể nhẫn tâm dằn lòng cho con mình đi xa ngoài nghìn dặm để quỳ lạy nơi thù địch, sống cuộc đời một tên tù cô đơn khổ hạnh?

Hoa Dương phu nhân không cầm được nước mắt:

- Thiếp vì số kiếp không sinh con, nhưng bẩm sinh vẫn có tình mẫu tử, vẫn đau cái đau của bất cứ người mẹ nào có con phải đi làm con tin. Phụ vương bảo thần thiếp phải cùng bàn bạc và định đoạt việc này là có ý coi trọng vai trò chủ trì đông cung của thiếp. Nhưng thiếp trộm nghĩ, nếu như các cung phi biết được thiếp có can dự vào việc này, e rằng khó tránh khỏi bị họ nghi kỵ, chê trách, thậm chí trả thù. Cho nên rất mong thái tử tự mình quyết lấy!

An Quốc Quân cảm thấy những lời tâm huyết của người vợ mà mình chiều chuộng nhất, thật sự xúc động, chân thành, nên không trách móc nàng nữa. Ông quay ra ôn tồn an ủi Hoa Dương. Ông trằn trọc suy nghĩ rất lâu như trăm mối tơ vò, không sao chợp mắt được, mặc dù Hoa Dương đã thở đều đều trong lòng ông, bình an vô sự như không có bất cứ điều gì đang xảy ra. Ông hiểu rất rõ rằng dẫu cho đưa đứa con của bất cứ cung phi nào đi làm con tin thì cũng đều gieo tai họa đau đớn cho người mẹ. Vì vậy, phải suy xét thật chu đáo, cân nhắc kỹ càng xem mức độ chịu đựng đau khổ của mỗi người mẹ đối với người con như thế nào; cũng như quan hệ của bản thân ông đối với mẹ con họ ra sao, sau đó mới có thể quyết định. Bằng cách đó An Quốc Quân đã lần được manh mối, đã tìm được đứa con có thể làm con tin. Đến đây, ông thấy mình thư thái hơn, nhẹ nhõm hơn, thanh thản hơn, rồi giấc ngủ kéo đến với ông lúc nào không biết nữa. Lúc tỉnh dậy thì đã quá muộn, đã quá giờ Tỵ sắp sang giờ Ngọ rồi. Ông vội ngồi dậy, chải qua tóc và nói những điều suy nghĩ tối hôm qua với nàng Hoa Dương yêu quý. Một mặt, ông sai nô tỳ cho gọi nàng Hạ Cơ đến.

Hạ Cơ ăn mặc sơ sài, khuôn mặt xanh xao vì đau yếu. Tuy nhiên đằng sau khuôn mặt u buồn với đôi mắt đẫm lệ của nàng vẫn lộ rõ những nét đẹp quyến rũ và dáng vẻ dịu hiền nhưng mềm yếu của người mẹ trẻ. Hạ Cơ quỳ xuống, sợ hãi trong lòng, nói khẽ khàng:

- Thần thiếp cúi đầu vấn an thái tử điện hạ và Hoa Dương phu nhân.

An Quốc Quân nói với nàng, giọng hơi dè dặt:

- Ngươi hãy ngẩng đầu lên để nghe ta đọc ý chỉ của phụ vương.

- Thần thiếp xin tuân thủ! - Hạ Cơ ngẩng đầu, nhìn thẳng. Đôi mắt nàng vẫn không giấu nổi sợ hãi và thất vọng. Trong khi đó, An Quốc Quân, người chồng đã có một con với nàng, nói rất trịnh trọng và nghiêm khắc:

- Nước đại Tần ta và nước Triệu đã ngừng chiến giảng hòa. Để giữ chữ tín với đối phương, phụ vương đã chỉ định Doanh Dị Nhân, con trai nhà ngươi, sang làm con tin ở Hàm Đan nước Triệu, coi như đi làm sứ mạng theo mệnh lệnh quốc gia.

- Bẩm thái tử điện hạ, con trai Doanh Dị Nhân của thiếp cũng là con của thái tử. - Hạ Cơ nhắc nhở đức ông chồng tôn quý - Nàng nói rất bình tĩnh.

Tâm trí An Quốc Quân bỗng hụt hẫng chốc lát, ông phải gật đầu:

- Điều đó là lẽ đương nhiên rồi. Cũng chính vì lẽ đó mà ta được giao việc truyền đạt ý chỉ phụ vương cho nhà ngươi, rất mong nhà ngươi thấu hiểu để làm theo đúng chỉ lệnh phụ vương.

- Đã là ý chỉ của phụ vương, dù con đẻ hay con dâu, đều phải kính cẩn chấp hành. Có điều, việc lựa chọn này có lẽ không phải là ý tưởng của phụ vương! - Hạ Cơ tuy đang ở vào thế bị lép vế, nghịch cảnh, nhưng vẫn không kìm nổi đức tính ngay thẳng chân chất của mình.

- Ngươi nói vậy, hóa ra trong chuyện này phải chăng có điều gì lắt léo, khuất tất? - Hoa Dương phu nhân nói xen vào. Nhưng nếu tinh ý thì thấy những lời của bà có vẻ giấu đầu hở đuôi.

Nhân đà đó, Hạ Cơ nói tiếp, giọng đanh lại:

- Phụ vương hàng ngày phải lo trăm công nghìn việc, luôn luôn nhọc nhằn vì quốc sự, rất hiếm khi phụ vương có thì giờ hỏi han đến đàn cháu vừa đông vừa xa cách về tuổi tác nên hầu như không hiểu hết mọi chuyện. Việc sai phái người làm con tin, sao không chọn những đứa cháu đàn anh đã khôn lớn hiểu đời, sao lại bắt con thiếp là đứa trẻ chưa một chút từng trải, còn rất non dại, phải gánh vác trọng trách quốc sự nặng nề như vậy. Theo thần thiếp, trong chuyện này chắc chắn là có điều gì lắt léo, khó hiểu!

An Quốc Quân chịu không nổi nữa, bèn phát khùng lên:

- Nhà ngươi sao dám nghi ngờ công việc triều chính, cả gan huyền hoặc phụ vương!

- Thần thiếp không dám. Nhưng Doanh Dị Nhân miệng còn hôi mùi sữa, vậy mà cũng bắt đi làm con tin, rõ ràng là do lòng thiên vị của thái tử! - Hạ Cơ nói rất quyết đoán.

An Quốc Quân không khỏi động lòng, song vẫn dè dặt bao che cho việc làm của mình:

- Hai mươi mấy đứa con trai đều là ruột rà của ta cả, làm gì có chuyện thiên vị đứa này đứa kia?.

Hạ Cơ đáp lại một cách lạnh lùng, chua chát:

- Sự thiên vị của thái tử không phải nhằm vào con trai chúng ta là Doanh Dị Nhân, mà là nhằm vào thần thiếp đây này!

- Xem ra nhà ngươi rất biết soi mình. Nhưng sở dĩ ta có đối xử thiên lệch với nhà ngươi, cũng đều là do nhà ngươi tự mình chuốc lấy mà thôi. - Như vậy, An Quốc Quân càng nói càng bộc lộ rõ sự thiên vị của mình, mặc dù ông ta cứ muốn ép đối phương tự nhận lấy mọi tội lỗi về mình.

Đến đây, Hạ Cơ biết rằng chuyện này đã được định đoạt xếp đặt đâu vào đấy rồi, chắc không thể thay đổi được nữa, nên không tiếp tục tìm kiếm may rủi nữa, nàng không thể giấu mãi nỗi buồn chất chứa bấy lâu trong lòng:

- Năm xưa thần thiếp được tuyển vào đây, chưa bao giờ dùng “mỹ sắc” để đùa bỡn với thái tử, thiếp chỉ dựa vào “mỹ đức” là điều duy nhất để phò tá thái tử đứng ra làm chủ đông cung. Ngờ đâu lại bị ghẻ lạnh đến nỗi này!

- Nhà ngươi đã biết rõ là mình bị thất sủng, cớ sao cứ lấy chuyện nọ xọ chuyện kia để oán trách ta? - An Quốc Quân không muốn nghe Hạ Cơ nói tiếp nữa.

Nhưng Hạ Cơ vẫn tiếp tục thổ lộ hết tâm trạng đau buồn trong lòng:.

- Thái tử đã đối xử với thần thiếp như vậy, thần thiếp cũng chỉ biết cam chịu số phận. Nhưng vẫn trông ngóng thái tử nhìn nhận Doanh Dị Nhân với tình nghĩa cha con. Được vậy thì thiếp mãn nguyện lắm rồi. Ai ngờ nay lại vì ghét mẹ mà đày con đi xa, nhẫn tâm đưa giọt máu của mình cho kẻ thù chà đạp giày xéo. Hỡi trời cao đất đày, chẳng lẽ ngài lại lòng gang dạ sắt như vậy ư? Thái tử chẳng còn chút tình nghĩa gì với thần thiếp thì đã đành, nhưng với đứa con dứt ruột đẻ ra vẫn không chút thương xót nào hay sao?

An Quốc Quân cảm thấy xấu hổ nhưng lại phát khùng phát cáu lên:

- Nhà ngươi dám ăn nói bất kính với ta như vậy ư, thật quá lắm, quá lắm! Bay đâu, đem con giặc này vào “cấm cung”, từ nay không cho gặp Doanh Dị Nhân nữa!

Mấy viên quan hoạn xộc vào, lôi xềnh xệch Hạ Cơ ra ngoài. Hạ Cơ vẫn tiếp tục nói:

- Thần thiếp từ lâu đã không còn cầu mong gì đến chuyện sủng ái, nhưng thái tử lại nỡ chia lìa mối tình mẫu tử, tâm địa đâu mà tàn nhẫn thế, sao lại có người tàn nhẫn thế? - Tiếng kêu than não nùng của người mẹ đáng thương cứ xa dần, xa dần.

Mọi người chứng kiến cảnh ấy ai cũng cảm thấy vô cùng sửng sốt nhưng không ai dám lên tiếng.

Hôm nay, cung điện Hàm Dương nước đại Tần rộn ràng tiếng trống, văn võ bá quan tề tựu. Còn có mặt cả các hoàng thân quốc thích mà xưa nay rất ít tham dự triều chính. Họ đứng hai bên theo thứ tự đẳng cấp và vương vị trên dưới. Vua Tần Chiêu Vương ngồi chính giữa điện, tiếp nhận quần thần bái lạy. Sau đó ngài đưa tay ra hiệu cho An Quốc Quân tuyên đọc thánh chỉ.

An Quốc Quân đứng trước mặt nhà vua, hai tay giơ thẳng bản thánh chỉ và đọc dõng dạc:

Duy ngã đại Tần, đức uy viễn đá.

Chư hầu hàm phục, cao tấu khải ca.

Vi dân sinh tụ, vĩnh cố sơn hà.

Toại dự Triệu quốc, đính ước câu hòa.

Vương tôn Dị Nhân, thiên lý bôn ba.

Vi chất bỉ bang, tương giao hòa mục.

Quốc sự tại thân, xã tắc trọng thác.

Khắc thành sứ mệnh, tổ đức di mô.

Khâm thử.

Dịch ý:

Nước đại Tần ta, uy đức hải hà

Chư hầu bái phục, khải hoàn ngợi ca

Còn dân còn nước, xây đắp sơn hà

Nay cùng Triệu quốc, hòa hiếu cầu thân

Vương tôn Dị Nhân, cử sang quý quốc

Đặng làm con tin, bang giao hòa mục.

Việc nước nặng nề, xã tác giao phó.

Làm tròn sứ mạng, báo đáp tổ tiên.

Khâm thử.

Hoa Dương phu nhân dắt tay Doanh Dị Nhân (năm ấy lên mười) đi nhanh đến trước mặt thái tử và ấn tay lên vai em, bảo quỳ xuống và nhắc:

- Mau nhận chỉ, tạ ơn đi!

Doanh Dị Nhân đang ngỡ ngàng trước khung cảnh lễ nghi quá ư long trọng, bỗng luống cuống nhắc lại như con vẹt lời nói của Hoa Dương phu nhân:

- Mau nhận chỉ, tạ ơn đi!

Mọi người bật cười. Nhà vua đành phải giải thoát cho mọi người bằng cách khẽ gật đầu và nói:

- Xem ra tuổi còn hơi nhỏ. Nhưng từ nhỏ đã ít nhiều tiếp xúc với cuộc sống, sau này lớn lên mới có thể đảm đương được việc lớn! - Tiếp đó, ngài nói với Hoa Dương phu nhân - Hãy đốt hương tắm gội cho cháu, sau đó đưa đi chào từ biệt các cung thất. Dạy cho cháu nó ghi nhớ rằng mình là con cháu hoàng gia đại Tần ta.

Hoa Dương thừa dịp, liền xin ý chỉ nhà vua:

- Thưa phụ vương, thế còn mẹ đẻ của cháu là Hạ Cơ?

- Ta đã nói rồi, không cho hai mẹ con gặp nhau nữa; vả lại Hạ Cơ đã bị đưa vào cung cấm rồi! - An Quốc Quân vẫn không thay đổi ý kiến.

Nhà vua vội nói:

- Dẫu rằng Hạ Cơ đã bị giam vào cung cấm, nhưng tình mẫu tử không thể cấm đoán được. Huống chi Doanh Dị Nhân lần này ra đi không biết ngày nào về, khó tránh hết rủi ro, có thể là chuyện “sinh ly tử biệt”, cho nên, hãy cứ cho hai mẹ con gặp nhau một lúc là hay hơn.

Hoa Dương phu nhân vội vàng quỳ xuống và kéo cả Doanh Dị Nhân quỳ xuống, nói rất cung kính:

- Tạ ơn đại đức phụ vương! - Nói xong liền dắt theo Doanh Dị Nhân lui nhanh ra phía ngoài.

Trong khi triều đình đang diễn ra cảnh tượng long trọng trang nghiêm như vậy thì một không khí hoàn toàn trái ngược đang bao trùm nơi cung cấm. Cấm cung tuy cũng ở trong khuôn viên hoàng cung, nhưng đây luôn là nơi vắng lặng nhất, buồn tẻ nhất, là nơi đày đọa những người trong hoàng cung bị thất sủng. Hạ Cơ là người mới đến. Nàng bị nhốt trong một căn nhà thấp lè tè ở mé phía tây. Tiếng hát của nàng vọng ra nghe sao mà não lòng, tê tái. (Bài ngâm mỗi câu tám chữ, dịch ý như sau):

Trăng lạnh sao buồn soi song cửa

Một mình vò võ suốt năm canh

Chàng hỡi sao mà bạc ác thế,

Chia lìa đôi ngả mẹ con ta.

Ngõ vắng đêm dài ai thấu chăng,

Quạ đêm quang quác đến kinh hồn.

Nhớ thương con nhỏ đau lòng mẹ,

Ở nơi xa ấy họa hay lành?

Hạ Cơ đang định ngâm tiếp thì cánh cửa nặng nề hé mở. Nàng bất ngờ hoảng hốt dán mắt ra phía cửa, tim đập thình thịch, căng thẳng, sợ hãi, tưởng như sắp có một tai họa gì đang ập tới. Nàng vội đưa tay sửa lại mái tóc đang rối bù, dụi khô hai hàng nước mắt trên gò má. Bỗng hai bóng người hiện ra trước khung cửa, họ bước lại phía nàng mỗi lúc một gần. Hoá ra là Hoa Dương phu nhân và đứa con yêu quý Doanh Dị Nhân.

Hoa Dương phu nhân đến gần Hạ Cơ khẽ khàng lên tiếng:

- Hạ Cơ, ta đưa Doanh Dị Nhân đến thăm em đây!

Bất ngờ quá! Sự việc vượt quá sức tưởng tượng của mình, Hạ Cơ chẳng biết nói thế nào cho phải, chỉ biết quỳ xuống. ngước mắt nhìn chằm chặp vào hai người mới đến. Một phút ngỡ ngàng trôi qua, Hạ Cơ mới nói nên lời:

- Cảm ơn phu nhân. Phu nhân còn đến đây được à? Lại còn cả Doanh Dị Nhân con ta nữa...

- Mau gọi mẹ đi con. Hãy đỡ mẹ đứng dậy! - Hoa Dương vừa lau nước mắt vừa nhắc nhở cậu bé.

Doanh Dị Nhân đang sững sờ trước thảm cảnh của mẹ mình, bỗng như bừng tỉnh sau lời sai bảo của Hoa Dương phu nhân. Em vội vàng cúi xuống đỡ mẹ đứng dậy và khóc oà lên:

- Mẹ ơi mẹ. Mẹ ơi mẹ! - Em lăn xả vào lòng mẹ.

- Hỡi ôi, con tôi. Hỡi ôi, con tôi! - Hạ Cơ ôm chặt con mình. Qua mùi thơm từ quần áo của Hoa Dương phu nhân và lời nói dịu ngọt của bà, một tia hy vọng vút qua trong đầu Hạ Cơ. Nàng hỏi, giọng hơi hấp tấp:

- Vậy con không đi nước Triệu nữa à, cha con đã suy nghĩ lại rồi sao?

Với bản tính nhút nhát, Doanh Dị Nhân chẳng biết trả lời mẹ thế nào, chỉ biết quay nhìn về phía bà Hoa Dương và ấp úng:

- Con, con...

Hoa Dương phu nhân nói với Hạ Cơ, giọng bà rất buồn:

- Không phải đâu. Doanh Dị Nhân sắp đi rồi. Sáng nay thánh chỉ của phụ vương đã được tuyên đọc. Lúc phụ vương ra lệnh đưa cháu đi chào các cung thất, chị đã tranh thủ xin phụ vương khai ân, cho hai mẹ con em gặp nhau một lúc.

- Vậy à? Sắp phải đi rồi sao? Thật sự phải xa mẹ rồi sao? Mẹ đã tưởng chẳng bao giờ được gặp con nữa. - Hạ Cơ ghì chặt con vào lòng và lẩm bẩm.

- Nếu như không phải đến tận nước Triệu xa xôi ngàn dặm, thì chắc gì phụ vương đã ngó ngàng đến những đứa cháu này, và chắc gì ngài đã cho phép chị đưa cháu đến thăm em? - Hoa Dương phu nhân nói rất chân thật.

Hạ Cơ nấc lên một tiếng rồi quỳ rạp xuống, nước mắt lã chã tuôn rơi:

- Đa tạ phụ vương giàu lòng nhân đức. Mẹ con con khấu đầu bái lạy muôn lần. - Rồi bỗng nhiên giọng nàng lại đầy than thở: - Giá như thái tử có lấy một nửa tấm lòng đôn hậu của phụ vương, để không quên mối tình cốt nhục máu mủ, thì mẹ con ta đâu đến nỗi này! - Nói chưa dứt lời, nước mắt nàng lại đã tuôn như mưa.

- Khốn nỗi con cái của thái tử quá đông; lại đang lúc quá ư tự trọng [v], rất khó chấp nhận những lời nói trái với ý muốn của mình, nên thái tử đã phải dồn ép em đến mức thế này. Nói thực lòng, việc cắt cử người làm con tin lần này là một việc rất khó xử đối với thái tử. Cuối cùng, thái tử đã phải quyết đoán đứa con nào có thể miễn cưỡng chấp nhận được [vi] trong tất cả các đứa con ruột thịt của mình. Không may là lại rơi vào con của em, đó là điều khó tránh khỏi. - Hoa Dương phu nhân vẫn cố ý bao che cho chồng, rất thông cảm với chồng.

Lúc này các cung nữ hầu cận nhắc nhở:

- Đã quá muộn rồi, xin phu nhân và công tử về cung.

Hoa Dương phu nhân đành phải chào từ biệt Hạ Cơ. Bà an ủi nàng:

- Chị và cháu đi về đây. Em phải chú ý giữ gìn sức khoẻ, tâm tư phải thanh thản một chút. Khi nào gặp thái tử, chị sẽ tùy cơ ứng biến, sẽ giãi bày nỗi oan khuất của em. - Nói xong, bà quay sang nói với Doanh Dị Nhân - Mau chào mẹ con đi.

Hai mẹ con lại ôm nhau nức nở. Hạ Cơ móc trong túi áo ra một bông hoa cài tóc bằng ngọc và đưa cho con. Nàng nói:

- Vật này do bà ngoại cho mẹ, là bùa ngọc đuổi tà của mẹ. Con phải luôn luôn đeo vào cổ, khi gặp nạn có thể biến họa thành phúc. Nay con phải đi xa, sống ở nơi tha hương dị quốc, bất cứ nói gì làm gì con cũng phải thận trọng. Con phải luôn ghi nhớ công việc nặng nề mà đức vua - ông nội con đã giao phó. Con cũng không bao giờ được quên nỗi đau không nguôi trong lòng mẹ!

Doanh Dị Nhân nhận lấy “bùa ngọc”, nghẹn ngào nói lời từ biệt mẹ:

- Con sẽ ghi nhớ lời mẹ. Mong mẹ hết sức giữ gìn sức khỏe.

- Con cứ yên tâm. Ta sẽ năng đi lại thăm nom mẹ của con. - Dương phu nhân dắt tay Doanh Dị Nhân đi ra.

Hai người bước đi chầm chậm nặng nề, thỉnh thoảng còn ngoái cổ lại, ngập ngừng, luyến tiếc, xót thương. Hạ Cơ cũng bước theo mấy bước rồi vịn tay vào bộc cửa, đứng nhìn, đôi mắt tuyệt vọng dõi theo hình bóng của đứa con khuất dần trong đám cung phi theo hầu bà Hoa Dương. Bỗng nước mắt lại giàn giụa khiến nàng không còn nhìn thấy bất cứ một ai nữa. Cuộc sống cô quạnh buồn tẻ lại bắt đầu.

Sau này mỗi khi nhớ lại giờ phút biệt ly thương tâm ấy, Doanh Dị Nhân lại giàn giụa nước mắt, lấy rượu giải sầu, ngâm nga những vần thơ não lòng (thơ tám câu, mỗi câu tám chữ, dịch đại ý như sau):

Mẹ nơi cung cấm lạnh lẽo mưa dầm.

Con ra đi xa, xẻ nghé đàn tan.

Mẹ sống một mình heo hút cô đơn,

Một ngày lại một điểm sương héo tàn.

Hai nước hiếu hòa, anh em thân thiết.

Lúc đánh nhau chí chết mới thôi.

Sáng là thượng khách đứng ngồi trên cao,

Chiều về nô lệ đưa vào nhà giam.

Lời nói và giọng ca của Doanh Dị Nhân khiến cho mọi người xung quanh xúc động. Lã Bất Vi tỏ ra rất thương cảm. Ông nói rất chân tình:

- Nay mới biết nỗi lòng u uất của công tử. Công tử chưa bước vào đời đã phải xa lìa cha mẹ, lại phải gánh nặng trên vai việc quốc sự to lớn! Buồn lắm thay. Thảm lắm thay! - Nói xong, Lã Bất Vi lấy hai tấm da lông thú tặng cho hai người. Ông nói: - Hôm nay bất ngờ gặp mặt, thật là duyên may hiếm thấy. Tôi là một thương nhân, chẳng có gì ngoài vật nhỏ mọn này. Mong hai vị vui lòng nhận cho, để tôi có dịp được bày tỏ lòng thành kính của mình.

- Mới quen nhau trong cuộc gặp gỡ bất ngờ này, sao có thể nhận tặng vật quý giá như vậy? - Doanh Dị Nhân cứ nhún nhường mãi, không chịu nhận.

Công Tôn Càn cũng lắc đầu ha lịa:

- Hạ quan có tài đức gì đâu mà dám nhận của quý giá này.

- Ồ, thưa hai vị, ông chủ tôi buôn bán khắp thiên hạ, coi việc giao tiếp bạn bè là trọng. Gặp nhau trao chút quà là việc thường tình. Xin hai vị chớ ngại. - Lã Yên vội phân bua.

- Quý thương gia giàu lòng như vậy, chẳng nhẽ chúng tôi lại từ chối mãi. - Công Tôn Càn nói tiếp. - Có điều công tử đây chưa có gia thất, người nhà của hạ quan cũng vẫn còn ở quê. Nay hai tấm da này còn nguyên lông mượt mà, chưa may thành áo, chúng tôi chẳng biết mặc như thế nào? Nếu nhận về cũng chẳng biết để làm gì!

Lã Bất Vi bật cười lớn:

- Đó mới là lời nói chân thật. Xin để vài hôm nữa chúng tôi sẽ đưa tặng hai vị hai chiếc áo lông thật ấm.- Nói xong liền quay sang nhắc Lã Yên thanh toán tiền rượu thịt và cáo từ hai vị khách mới quen.

Doanh Dị Nhân và Công Tôn Càn cũng rảo bước đi về dịch quán ở Tùng Đài. Vừa đi vừa nhỏ to về ông thương gia và người giúp việc ông ta. Doanh Dị Nhân nói:

- Tay buôn họ Lã ấy thật hào phóng và mến khách, cũng không có chút gì là cao đạo vì giàu sang, phong độ lịch thiệp nho nhã. Con người như vậy thời nay thật hiếm.

Công Tôn Càn muốn tỏ ra mình là người am hiểu nhân tình thế thái, bèn nói:

- Hạ quan đã nhìn thấy ông ấy nhiều lần tại các bữa tiệc sang trọng ở Tùng Đài. Ông ta nói năng rất đàng hoàng, cử chỉ rất chững chạc, rất có phong độ của một thượng quan đại thần. Hạ quan còn nghe Bình Nguyên Quân [vii] nói, tổ tiên ông ta làm ruộng, sau vì chiến sự liên miên, ruộng đồng bỏ hoang, phải bỏ nghề nông đi buôn. Lúc mới đầu cũng chỉ buôn vặt vài ba thứ kim chỉ kiếm sống qua ngày. Trải hai đời vất vả ngược xuôi mới có của ăn của để, giàu có dần lên, trở thành đại thương gia, nhà ngang dãy dọc, của cải ước có đến ức triệu quan.

- Cũng vì lớn lên từ nơi chân lấm tay bùn nên mới gần gũi mọi người, giàu lòng thương người. Trên thế gian này hiếm ai được như thế.

Câu chuyện giữa hai người đến đây thì vừa vặn bước đến cửa dịch quán. Mỗi người rẽ vào phòng ngủ của mình. Công Tôn Càn căn dặn Doanh Dị Nhân:

- Ngày mai phải mang thêm một ít quần áo và đồ dùng để khi có thông cáo của triều đình, thì đi thẳng ra ngoại ô vào nhà “tù”!

Hai thầy trò Lã Bất Vi cũng thong dong trên con đường dài đã quen thuộc. Ánh trăng mờ mờ tỏ tỏ như đang soi đường cho họ. Câu chuyện giữa hai người này cũng không kém phần rôm rả vì cùng đang chớm hơi men.

- Ông chủ, người đời bảo trông mặt mà bắt hình dong. Hôm nay già thấy con người ấy có dáng vẻ tầm thường, nói năng khiếm nhã, sao ngài lại có thể tin rằng đó là con cháu vua Tần được cơ chứ? - Lã Yên tỏ ra rất thắc mắc trước việc làm của chủ.

Lã Bất Vi giải thích:

- Nếu bác cứ xét người theo tướng mạo bề ngoài thì rất khó nhận định cho đúng, do đó sẽ bỏ lỡ mất thời cơ. Tôi thì chưa từng trải nhiều, nhưng bằng ấy năm làm cái nghề buôn bán cũng đã nhận thấy, gặp thời bình phải cố dấn lên, phải nới tay hào phóng một chút, để có thể tiếp xúc với càng nhiều bạn hàng càng tốt. Kể như mấy năm trước, khói lửa chiến sự bùng phát liên miên, loạn lạc khắp thiên hạ, ai dám bỏ tiền bỏ của ra buôn bán? Đừng nói chi đến ta là đại thương gia, mà ngay cả bọn tiểu thương cũng đều co vòi rụt cổ, chẳng ai xuất đầu lộ diện. Ai cũng sợ thua lỗ mất vốn, thậm chí mất mạng như chơi. Thế mới hay, dù có phải bươn trải trong chốn thương trường thì vẫn còn tuyệt diệu hơn nhiều so với việc vung đao múa kiếm trên chiến trường!

Nói đến đây, hai thầy trò bỗng nhớ lại năm nào họ đã từng gặp phải tai họa kinh hồn bạt vía! Năm ấy hai người đang áp tải mấy xe hàng với giá trị rất lớn vừa đến Lạc Dương. Họ vào tạm trú ở một quán trọ bên đường. Bỗng hai nước Triệu và Tần đánh nhau rất to. Lã Bất Vi thấy có nguy cơ sẽ bị mất sạch của cải, bèn lập tức quyết đoán, cho xe đi suốt đêm để quay về quê nhà Dương Địch. Từ đó, Lã Bất Vi cải trang thành người nhà quê làm ruộng, hơn nửa năm vẫn không ló mặt khỏi làng. Cho đến khi trận mạc qua khỏi, ông mới đưa Lã Yên đi khắp một lượt các đô thành và ấp trại lớn. Nhưng vẫn chỉ đóng vai một tiểu thương, chưa dám mang hàng hóa di theo. Chủ yếu là đi thăm dò đường sá tốt xấu thế nào, hậu quả chiến tranh ra sao, còn có giặc giã cướp phá dân lành nữa hay không? Sau khi nắm chắc tình hình, ông mới cho xe chở hàng từ làng quê mình đi tới các nơi. Nhưng bước đầu vẫn chưa dám đi xa, dần dần sau này mới đến thành Hàm Đan, thủ đô của nước Triệu. Lúc đầu chỉ mới buôn nhỏ, dần dần mở rộng phạm vi kinh doanh, cuối cùng đi đến chỗ buôn chức buôn quyền, có thể mua cả chức quan đứng đầu một khu vực rộng lớn.

Đến đây, Lã Yên lại nhắc nhở ông chủ. Ông ta nói:

- Người đời thường nói: “Yêu thổ trọng thiên” [viii]. Đó là câu cách ngôn từ ngàn đời nay rồi. Nay ngài lại làm trái với điều răn dạy ấy của tổ tiên, không yên tâm làm ăn ở mảnh đất quê nhà, cứ muốn đi thật xa, ra tận ngoài biên ải, đến tận các nước xa xôi. Ngài đã di chuyển cả nhà đến Hàm Đan, chẳng lẽ ngài không sợ rằng cứ luôn luôn xuất đầu lộ diện ở đô thị phồn hoa này sẽ có lắm kẻ dòm ngó cạnh tranh, biết đâu sẽ gặp phải địch thủ cao cường, làm cho mình phải thất điên bát đảo, phá tan cả núi vàng sao?

Lã Bất Vi cho rằng vài năm nay, hai nước Tần và Triệu đã ngưng chiến và bắt tay hòa giải với nhau. Cũng nhờ đó nên ngay cả nước Tần, nước Vệ cũng đã thôi đánh nhau. Trải bao chết chóc đau thương, nay mới có được khung cảnh yên bình. Thật quý giá vô cùng. Đây chính là lúc có thể biến gươm đao thành đồ trang sức cho đàn bà con gái. Vậy còn ngại gì mà không làm ăn mạnh tay hơn, mở rộng tầm hoạt động hơn? Còn nói về Dương Địch quê nhà, tuy đó là thủ đô của nước Hàn, nhưng rất nghèo về tài nguyên và sản phẩm, chưa có gì có thể gọi là hàng hoá để buôn to bán lớn. Nhất là Dương Địch ở vào một địa thế rất xa xôi hẻo lánh. Vì vậy, không đi ra ngoài là không được. Còn câu tục ngữ “Yêu thổ trọng thiên” là quan niệm quen thuộc của người làm ruộng. Vì người làm ruộng phải bám lấy ruộng đất (yêu thổ), xa rời ruộng đất là chết đói. Cho nên họ coi việc di chuyển đi nơi khác để sinh sống là chuyện bất đắc dĩ, coi việc di chuyển là hết sức quan trọng, phải cân nhắc thật cẩn thận, không thể tùy tiện, vì đó là việc trọng đại của cuộc sống lâu dài của cả gia đình.

- Có thể thấy, trong hàng nghìn năm qua, hiếm thấy một nhà nông nào lại dám chuyển nhà đi nơi khác làm ăn, trừ khi họ bị chiến tranh xua đuổi. Còn nhà họ Lã này thì đã bị thua thiệt quá nhiều do bị ràng buộc bởi lối suy nghĩ cổ lậu đó cứ an phận trên mảnh đất của cha ông, chẳng bao giờ ăn nên làm ra để có thể ngóc đầu lên được. Cho mãi đến gần đây mới bứt ra được để chuyển sang buôn bán, cả nhà thấy cái nghề này làm ăn được. May mà tôi còn mạnh tay cứng chân, thua keo này bày keo khác, ngã rồi lại đứng ngay dậy. Nhờ vậy, mới tạo dựng được một cơ nghiệp khá vững vàng. Bây giờ thì có thể không ăn vào vốn nữa, mà chỉ dùng tiền lời cũng có thể nuôi sống cả nhà. Hơn nữa, có thể chuyển nghề này cho đời sau, còn bản thân thì có thể sống an nhàn vui thú. Sở dĩ có thể chuyển cả gia đình đến Hàm Đan nước Triệu, vì đây là đầu mối giao thông của mấy nước chẳng khác gì cái nồi trục của bánh xe, từ nồi trục mà căng ra bốn phương tám hướng. Nếu buôn bán tốt ở Hàm Đan này thì mọi nơi khác cũng dễ dàng thu lợi. Giống như đánh cờ vậy, đi thắng một nước cờ là thắng cả ván. Thậm chí, gặp thời một tốt cũng thành công. Vì vậy, chuyện thu hoạch mùa màng ít ỏi ở quê nhà Dương Địch còn có gì mà lưu luyến nữa?

Nghe xong những lời đầy sức thuyết phục của ông chủ, Lã Yên hết sức khâm phục tầm mắt nhìn xa trông rộng của Lã Bất Vi cũng như nghị lực và dũng khí của ông. Tuy nhiên, ông vẫn cảm thấy Lã Bất Vi là một đại thương gia nổi tiếng nhất ở nước Triệu, vậy cơn cớ gì mà phải đút lót và biếu quà cho những quan chức địa phương, nhất là những nhân vật chẳng có gì là quan trọng? Việc gì mà phải cung phụng hay nịnh bợ những hạng người đó? Nghĩ vậy nên ông đã hỏi thẳng Lã Bất Vi:

- Bác không nghe người ta nói: “Thắp hương cúng thổ thần để khỏi xúi quẩy khổ thân” đó sao? - Lã Bất Vi lại kiên nhẫn nói rõ kinh nghiệm của mình, ông nói tiếp - Dù có nhiều vốn đến đâu, dù cho biết cách làm ăn tài giỏi như thế nào, nếu không mua được “Vé qua cửa quan”, thì không bao giờ thắng được một viên quan chức hạng bét. Lý do rất đơn giản: Dẫu anh tính toán giỏi giang như thế nào, cũng không địch nổi quan phủ lục soát niêm phong; dẫu cho bàn tính liên tục lách cách đến đâu cũng không cấm được nha môn gạch phăng xóa sổ. Vì vậy, thà sớm bỏ ra một ít tiền hay hiện vật để biếu tặng, đút lót cho những người có quyền cao chức trọng trong triều, và cho cả những quan chức nhỏ sở tại như “lệnh”, “úy”, “thừa”, nhưng là những người có thực quyền. Chỉ khi nào mua được những “tấm vé đi qua cửa quan” đó, mới có thể đứng vừng chân để làm ăn dễ dàng.

Nói đến đây, Lã Bất Vi bỗng cảm thấy vui vui trong lòng. Bởi vì vừa rồi, trong quán rượu bên đường, ông và Lã Yên đã tình cờ gặp Công Tôn Càn và Doanh Dị Nhân. Do có nhiều kinh nghiệm trong giao tiếp, lại biết nhìn xa trông rộng, nên ông đã nhìn thấy một món “hàng lạ” có thể “nhất bản vạn lợi” (một vốn kiếm được vạn lời).

Chú thích:

[i] Vương hầu: vua chúa. Công khanh: đại thần trong triều. Cao nha: quan lại trong nha phủ. Đại hộ: nhà giàu có - ND.]

[ii Dịp may ba kiếp đời (tam sinh hữu hạnh): ngôn ngữ nhà Phật. Kiếp trước, kiếp hiện tại và kiếp sau. Cả ba kiếp mới có một lần gặp mặt - ND.

[iii] Nhi thần: nhi là con, thần là bề tôi tự xưng với vua, như hạ thần, thần thiếp (vợ vua tự xưng) - ND.

[iv] Đông cung: nơi ở của thái tử, cũng có khi đông cung là bản thân thái tử - ND.

[v] Nguyên văn: Thâm vinh khí thịnh, tức là ở một địa vị tôn quý, lại đang lúc bực bội, nóng nảy - ND.

[vi] Nguyên văn: Xá sơ bản thân: từ bỏ đứa xa, giữ lại đứa gần - ND.

[vii] Bình Nguyên Quân (?-251 trước Công nguyên). Tên thật là Triệu Thắng. Em vua Huệ Văn Vương nhà Triệu. Làm thừa tướng. Có công đánh bại quân Tần đến vây hãm thành Hàm Đan năm 259 trước Công nguyên - ND.

[viii] Yêu thổ trọng thiên: hãy yên tâm nơi quê nhà, phải thận trọng khi có ý định di chuyển đi nơi khác - ND.