HỒI THỨ TƯ VUA TẦN XÉ BỎ THỎA ƯỚC, VÂY HÃM HÀM ĐAN-VUA TRIỆU MẮC SAI LẦM, DOANH DỊ NHÂN THOÁT CHẾT
Tần Thủy Hoàng Doanh Chính (tên lúc mới đẻ là Triệu Chính) ra đời lúc mà chế độ nô lệ của Trung Quốc đang trong quá trình tan rã, giai cấp thống trị sống rất xa hoa dâm loạn, lại rất hung hăng hiếu chiến, luôn luôn gây sự đánh nhau chí mạng, không ai chịu ai. Đó chính là thực trạng của sáu nước trong bảy nước nổi tiếng của “Thất hùng thời Chiến Quốc” (bảy nước hùng mạnh thời Chiến Quốc) [i], gồm Tần, Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy. Chiến sự liên miên hàng trăm năm đó đã làm cho sáu nước suy sụp về kinh tế, chính trị, quân sự. Duy chỉ có nước Tần hùng cứ phía Tây bắc, là vẫn giữ được thế lực hùng mạnh. Đó là nhờ có thế vững chãi của vùng Hào Sơn và Hàm Cốc lại có đất Ung Châu làm bàn đạp. Trong triều chính thì vua tôi cố kết, đều muốn dòm ngó ngôi thiên tử nhà Chu. Trải qua gần một trăm năm cố gắng liên tục của bốn đời vua Hiếu Công, Huệ Văn Vương, Vũ Vương, Chiêu Vương, nhà Tần đã luôn luôn mở rộng bản đồ nước mình bằng cách xâm canh xâm cư, ăn hiếp các nước chung quanh. Vì thế, lực lượng của Tần ngày càng lớn mạnh. Mặc dù Tần đã trao đổi con tin với nước Triệu, đã ký thỏa ước ngừng chiến, nhưng cái thói xâm lược đã trở thành bản tính khó thay đổi, dã tâm hiếu chiến của Tần trở thành một xu thế không có gì ngăn cản nổi. Trao đổi con tin và ngừng chiến chỉ là để tạm thời nghỉ ngơi, củng cố lực lượng. Khi đã phục hồi được kinh tế, đời sống nhân dân đã khá lên, sức mạnh quân sự đã hùng hậu, thì ngựa lại quen đường cũ, hùng hổ gây chiến, xâm phạm lân bang. Ngay từ năm 262 trước Công nguyên, tức năm thứ bốn nhăm đời Tần Chiêu Vương, cũng tức là ba năm trước khi Tần Doanh Chính ra đời, vua Tần Chiêu Vương đã sai Vũ An Quân (tức tướng Bạch Khởi) đưa hai mươi vạn quân tấn công miền Thượng Đảng của nước Hàn, trước hết nhằm chiếm khu vực Dã Vương ở ngoại vi nước Hàn, để cắt đứt con đường nối liền Thượng Đảng (nay là phía Bắc thành phố Trường Trị tỉnh Sơn Tây) và nước Hàn. Phùng Đình, thái thú quận Thượng Đảng, biết rõ cái thế nhỏ hẹp của đất Thượng Đảng rất khó có thể chống cự nổi kiêu binh và dũng tướng của quân xâm lược từ nước Tần tới nhưng ông ta lại quyết tâm không chịu khuất phục nhà Tần. Vì vậy, Phùng Đình sai sứ giả đến Hàm Đan nước Triệu, bày tỏ ý muốn nhường quận Thượng Đảng cho Triệu. Vua Triệu Hiếu Thành không nghe lời can gián của Bình Dương Quân, vồ vập nhận lấy Thượng Đảng. Kết quả là gây nên sự tức giận của vua Tần, Tần quay sang tấn công Triệu. Và sự việc diễn ra không giống như Phùng Đình dự đoán (Phùng Đình cho rằng Hàn Triệu bắt tay với nhau sẽ chống lại được Tần). Thực ra, quân Triệu và quân Tần đã đánh nhau lâu dài ở Trường Bình. Tại đấy, tướng Triệu là Liêm Pha, một lão tướng trí dũng song toàn, uy danh khắp các chư hầu. Liêm Pha thi hành chiến lược lấy phòng ngự để tấn công, lấy “tĩnh” chế ngự “động”; ông kiên trì cố thủ ba năm. Đến năm thứ bốn bảy Tần Chiêu Vương (năm 260 trước Công nguyên), thừa tướng nước Tần là Phạm Thư sai gián điệp đưa hối lộ rất lớn cho cận thần vua Triệu, lại còn phao tin rằng quân Tần chỉ sợ tướng Triệu Quát của Triệu, chứ chẳng sợ gì tướng Liêm Pha. Vua Triệu Hiếu Thành mắc phải mưu kế phản gián của Tần, thay Liêm Pha bằng Triệu Quát. Triệu Quát là con của danh tướng Triệu Xa, một tướng tài dược ban danh hiệu “Mã Phục Quân”. Triệu Quát còn trẻ, tính hiếu thắng, nôn nóng lập công, tuy rất thuộc binh pháp, nhưng không trải nghiệm thực tế. Sau khi được cử ra phòng thủ Trường Bình, Triệu Quát bỏ chiến lược cố thủ và “tiêu hao chiến” của Liêm Pha, tự mình đưa quân xuất kích rất liều lĩnh. Cách đánh đó đã mắc vào mưu của Bạch Khởi: điệu hổ ly sơn, chia cắt để diệt. Bạch Khởi tự mình ra trận nghênh chiến, nhưng giả vờ binh lực mệt mỏi, không dám xông trận, nên cứ rút lui mãi. Triệu Quát thấy quân Tần thua chạy, càng kiêu ngạo tự đắc, thúc quân đuổi riết, đuổi mãi đến một con đường hẻm, hai bên là núi cao. Quân Tần mai phục ở hai bên, bỗng xông ra chém giết, hoàn toàn cắt đứt đường rút lui của quân Triệu. Toàn bộ quân Triệu do Triệu Quát chỉ huy bị vây chặt trong thung lũng đó bơn mươi sáu ngày. Người và ngựa chen chúc nhau, giẫm đạp lên nhau, không ai thoát ra được Triệu Quát vô cùng lo lắng, nhưng vẫn quyết đấu đến cùng, kết cục bị quân Tần bắn chết. Hơn bốn mươi vạn quân Triệu xin hàng.
Bạch Khởi nhẫn tâm chôn sống toàn bộ trong hẻm núi đó, gây ra một vụ thảm sát kinh hoàng nhất trong lịch sử chiến tranh từ cổ chí kim. Triệu Quát tuy đã hiến thân cho đất nước, nhưng đã để lại bài học “đánh nhau trên giấy” [ii] cho người đời; và câu nói ấy trở thành một thành ngữ nhắc nhở hậu thế.
Thừa thắng ở Trường Bình, Bạch Khởi tiếp tục tấn công nước Triệu và vây hãm đô thành ở Hàm Đan. Hai bên cầm cự rất lâu ở dây. Tuy nhiên, nước Triệu vừa thất bại thảm hại ở Trường Bình, từ kinh tế đến quân sự đều yếu thế, khó có thể đủ sức để bảo vệ Hàm Đan, nguy cơ mất nước đang đến gần. Vừa lúc ấy, nước Triệu thực hiện kế sách “Dùng phương kế của họ để trị con người của họ”. Tức là sai Tô Đại, một môn đồ (môn khách) của Triệu Thắng (Bình Nguyên Quân) mang theo rất nhiều tiền vàng, bí mật đến thủ đô nước Tần là Hàm Dương, tìm gặp thừa tướng nhà Tần là Phạm Thư. Tô Đại đút lót cho Phạm Thư và gièm pha rằng tướng Bạch Khởi đánh chiếm được Hàm Đan của Triệu, công lao to lớn, vua Tần nhất định trọng dụng Bạch Khởi, và địa vị Phạm Thư sẽ chẳng còn gì là quan trọng. Khi nào Bạch Khởi giữ được chức thừa tướng, thì cảnh ngộ của Phạm Thư chắc là không thể lường trước được. Quả nhiên, Phạm Thư mắc mưu kẻ địch, bèn vội vàng bẩm tấu một cách vô căn cứ với vua Tần rằng, quân Tần chinh chiến đã quá lâu dài, tinh thần quân sĩ giảm sút, quân nhu và tiếp tế quá lớn, làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Hơn nữa, chiến tranh lâu ngày đã gây nhiều oán thán trong dân chúng, ảnh hưởng rất lớn đến an ninh đất nước. Vua Tần đã nhẹ dạ tin ngay lời xiểm nịnh của Phạm Thư, buộc Bạch Khởi rút toàn bộ quân lính về nước. Miếng ăn sắp đến mồm rồi mà còn bị kẻ khác gạt mất, Bạch Khởi hết sức bất bình trước quyết định đó, liền bị giáng chức. Phạm Thư tuy củng cố được địa vỉ của mình, nhưng đã tạo điều kiện cho nước Triệu giữ được Hàm Đan, thoát được họa mất nước. Thế mới hay, cái được, cái mất, cái vinh, cái nhục, luôn luôn đi kèm nhau. Bên này được thì bên kia mất và ngược lại. Cái vòng xoáy ấy cứ biến hóa khôn lường. Đó chính là đặc điểm của giai đoạn lịch sử nói trên.
Mặc dù rút quân, nhưng nước Tần vẫn cố giành được một chiến thắng nào đó, nên đã chấp nhận đề nghị của Phạm Thư, trao cho Tô Đại nhiều vàng bạc và gấm vóc, để nhờ ông này thuyết phục hai nước Triệu và Hàn cắt đất cho Tần và hòa giải với Tần. Lúc ấy, Triệu và Hàn đang đứng trước nguy cơ mất nước (do Tần uy hiếp) lại thiếu lực lượng chống Tần, nên khi nghe Tô Đại bày mưu tính kế, liền lập tức nghe theo. Hai nước này đã cắt nhượng cho Tần bảy thành (Triệu sáu, Hàn một). Nếu tính cả quận Thượng Đảng do Tần dã chiếm từ trước, thì đã cho Tần mười bảy quận huyện. Tần rất khoái, vì chẳng mất một mũi tên mà chiếm được bao nhiêu là lãnh thổ nước khác. Do vậy, thỏa ước hòa bình giữa Tần và hai nước Triệu, Hàn được ký kết.
Đến năm 257 trước Công nguyên, tức là năm thứ năm mươi Tần Chiêu Vương, khi Doanh Chính (Tần Thủy Hoàng sau này) vừa tròn hai tuổi, cũng tức là chỉ hai năm sau khi ký thỏa ước nói trên, vị vua Tần “già cả nhưng giả làm trai trẻ” ấy lại hăng máu lên, xé bỏ thỏa ước, sai đại tướng Vương Hột đưa hai mươi vạn quân tấn công nước Triệu. Hơn nữa, Tần Chiêu Vương còn đích thân ra trận đốc chiến, hòng tự mình can dự một chút vào việc xua quân diệt địch, phá thành chiếm đất, bắt vua của Triệu, ra oai ngạo mạn.
Thiết triều vừa tan, thái tử An Quốc Quân cùng vợ là Hoa Dương đến thăm vua cha tại phòng ngủ, và tấu xin Tần Chiêu Vương:
- Nhi thần bẩm tấu phụ vương, việc ngừng chiến với nước Triệu chỉ mới được hai năm, vậy mà bách tính ra sức cày cấy dệt vải, đua nhau buôn bán, dân mạnh của nhiều, đất nước phú cường. Nay nếu khởi sự đánh nhau e rằng sẽ mất lòng con dân trong nước, lại phá bỏ mất đồng minh với nước láng giềng, xin phụ vương minh xét lại lợi hại...
Chiêu Vương trả lời rất rành mạch:
- Từ cổ chí kim, dân là để cho vua sử dụng, yếu thì bị mạnh ức hiếp. Liệt tổ liệt tông ta khai phá lãnh thổ biên cương, đó là kế thừa tiền bối và mở đường cho hậu duệ. Nhờ có nuôi nấng bách tính trong nước và mở rộng lãnh thổ... mới có nước đại Tần “hổ ngồi trên núi, chim ưng bay là” như ngày nay. Nếu phụ vương ta đây chỉ biết giữ thành, không biết tấn công, thì lấy gì để về gặp tiên tổ, truyền lại cơ nghiệp cho con cháu?
Hoa Dương phu nhân vội tâu:
- Phụ vương hùng đồ đại lược [iii], phận làm con không dám lên tiếng! Chỉ có điều Doanh Dị Nhân là con thừa tự của con. đang làm con tin ở nước Triều; vả lại đã lấy vợ sinh con. Nếu nước ta tấn công Triệu, chẳng biết an nguy của con mình ra sao, thật đáng ngại lắm thay. Nay vợ chồng chúng con dám xin phụ vương soi xét.
Tần Chiêu Vương không thèm nghe lời khuyên gián của họ, nhẹ nhàng nói rằng:
- Ta lại chẳng nghĩ tới đứa cháu Doanh Dị Nhân hay sao? Nhưng nay việc nước đang gấp chẳng lẽ lại chịu thua nước Triệu ư? Vả lại nghe nói vua Triệu gần đây đối xử tử tế với Doanh Dị Nhân, đó chính là vì nước Tần ta cường thịnh. Lần này trẫm thân chinh đưa đại quân đi đánh phạt, nếu vua Triệu dám lấy con tin ra để ép ta, ta sẽ lập tức phá hết thành trì, hủy hết tôn miếu, diệt cả gia tộc, chiếm cả đất đai, đưa chúng đến chỗ không còn đất để chôn. Hãy xem chúng có dám làm cái chuyện tầy trời ấy không nào?
- Đã vậy chúng con xin tuân chỉ. Chỉ xin phụ vương gia ân cho phép con được sai mật sứ báo cho Doanh Dị Nhân biết để trốn tránh sớm, đề phòng tai họa. - Thái tử An Quốc Quân cẩn trọng cầu xin.
Chẳng ngờ việc này lại làm cho Tần Chiêu Vương nổi giận. Ông ta vung mạnh tay, nói quả quyết rằng:
- Việc dùng binh từ cổ đến nay, thứ nhất là thần tốc, thứ nhì là bí mật. Nay nếu người của ngươi sai đi bị sa vào tay quân địch, chẳng những Doanh Dị Nhân khó thoát nạn mà còn làm hỏng việc lớn của đại quốc ta. Ý ta đã quyết, ngươi chớ thêm lời mạo phạm!
Vợ chồng An Quốc Quân đành vâng vâng dạ dạ lui ra, chẳng dám hé răng nói thêm nửa lời. Về đến phòng mình, chỉ biết dặn nhau không được nói chuyện này cho bất cứ ai, để tránh sự quở mắng của phụ vương, mặc dù hai người cảm thấy không vừa lòng trước thái độ chuyên quyền độc đoán, ngạo mạn cố chấp của vua cha. Bà Hoa Dương là con người cương trực, hiền hậu, nên vẫn lén đến cung cấm để nói cho Hạ Cơ (mẹ đẻ của Doanh Dị Nhân) biết sự việc vừa kể trên. Hạ Cơ cảm thấy rất bất ngờ, lại rất lo lắng và thương con. Nàng nói:
- Trước đây nhờ ơn phụ vương cho phép Doanh Dị Nhân đến gặp em, em khắc cốt ghi lòng cái ơn đó. Nay cớ sao ngang nhiên đánh Triệu mà chẳng thèm nghĩ đến tính mạng của đứa cháu, thẳng thừng vứt bỏ tình máu mủ như vậy ư?
Hoa Dương phu nhân tìm cách an ủi Hạ Cơ, bà nói:
- Phụ vương cao ngạo hiếu chiến, hùng hổ đã quen, ai làm trái ý, dẫu là con đẻ cũng chẳng tha. Việc đã đến thế này, chỉ còn cách duy nhất là cầu trời phù hộ cho Doanh Dị Nhân được tai qua nạn khỏi, thì nơi cung đình nhà Tần này sẽ được may mắn và chị em ta mới bình an vô sự. - Nói xong, bèn cùng với Hạ Cơ quỳ xuống bái lạy trời xanh, cầu mong ông trời cứu giúp Doanh Dị Nhân. Sau đó hai người chào nhau rồi từ biệt.
*
* *
Lãnh thổ của nước Tần cổ đại là vùng cao nguyên miền Tây Cam Túc hiện nay, hầu hết đều là đất đỏ, chỉ một cơn gió nhẹ cũng tung bụi bay mù, đất cát bao phủ khắp nơi. Quân Tần đông tới hai mươi vạn, hùng hổ hành quân, ngựa chiến rầm rập, chiến xa ùn ùn, bộ binh thần tốc, cờ hiệu rợp trời, đi đến đâu cát bụi tung lên đến đấy, ở xa mười mấy dặm đã nhìn thấy từng đám từng đám mịt mù. Do vậy, dân chúng phải tránh con đường bụi bẩn ấy, người đi buôn cũng vậy, thế là tin tức không cánh mà bay. Quân Tần vừa vượt qua sông Lạc, ở Hàm Đan đã biết tin. Vua Triệu Hiếu Thành hết sức hoảng sợ, vội điều động quân đội, tăng cường phòng thủ, gia cố thành lũy. Nhờ vậy, khi quân Tần áp sát chân thành, quân Triệu đã chống đỡ được mấy cuộc tấn công đầu tiên. Sau đó, vua Triệu cho họp văn võ bá quan, cùng bàn bạc kế hoạch chống Tần lâu dài. Hiếu Thành nhìn khắp một lượt các đại thần đang đứng khom mình ở hai bên, rồi nói với vẻ lo lắng:
- Trước đây ta và Tần đã đánh nhau ở Trường Bình, Triệu Quát tử nạn, bốn mươi vạn quân bị chôn sống. Mấy năm nay có tuyển quân mộ lính, nhưng sĩ khí chưa vực dậy được. Nay Tần đưa tướng Vương Hột, dẫn hai mươi vạn đại quân đánh ta, Chiêu Vương còn đích thân đốc trận phía sau, khí thế của họ lớn chưa từng thấy. Mặc dù quân dân ta đã kiên trì cố thủ, tạm giữ được thành trì, nhưng làm sao có thể trụ vững lâu dài, chiến thắng kẻ địch, mong các khanh nói rõ ý mình, cùng nhau hiến kế, sớm định quyết sách.
- Thần xin khởi tấu bệ hạ! - Một giọng nói sang sảng vang lên như tiếng chuông đồng. Đó là lão tướng Liêm Pha, nhanh nhẹn bước ra khỏi hàng võ tướng, mũ đen trên đầu, tóc mai điểm bạc, râu trắng phất phơ, dõng dạc tấu trình: - Trận Trường Bình thất bại thảm hại là do tướng Triệu Quát “đánh trận trên giấy” tùy tiện xuất kích, nên mắc mưu địch. Hàm Đan là kinh đô nước Triệu, quyết không thể mất. Tướng sĩ của ta tuy không thật nhiều, nhưng đều căm thù quân địch. Quân uy sĩ khí của ta đang lên cao là sức mạnh to lớn chống Tần. Tuy nhiên, do quân số hai bên chênh nhau quá lớn, cho nên, bên ta chỉ nên kiên trì cố thủ, không thể khinh xuất nghênh chiến. Thần tuy tuổi già, nhưng xin thề chết chống quân Tần tàn bạo, bảo toàn giang sơn nước Triệu ta.
Bình Nguyên Quân tán thành Liêm Pha và nói thêm:
- Ngoài việc quân dân nước Triệu ta đồng tâm hiệp lực, bảo vệ đất nước, còn có thể cầu viện nước láng giềng, hợp sức chống Tần. Nếu đơn độc tác chiến, e rằng châu chấu đá xe, chỉ có thể đi nhanh đến diệt vong mà thôi.
Tiếp đó là mấy vị đại thần cũng lên tiếng. Tất cả đều dõng dạc khảng khái, nhất trí chủ chiến, kiên quyết chống Tần.
Tuy nhiên, vua Hiếu Thành vẫn còn rất phân vân, vì thảm bại Trường Bình vẫn còn in sâu trong tâm trí ngài, nên ngài chưa hết lo lắng. Nhà vua nói:
- Ý kiến của các khanh, đều hợp lý cả. Làm như vậy có thể kiềm chế hoặc tránh được mũi nhọn tấn công của quân Tần. Nhưng việc cầu viện nước láng giềng, thì nước xa không dập tắt được lửa gần. Cho nên chỉ bằng phải dùng mưu kế để đánh một đòn quyết đoán, chặn đứng cái thế hung hăng của bọn cuồng chiến. Các khanh có sách lược gì hay về điều trẫm vừa nói?
Bình Nguyên Quân lập tức trình tấu:
- Bệ hạ suy nghĩ rất phải. Thần thấy có một người có thể đẩy lui quân Tần.
- Có con người đó sao? Cớ gì không nói sớm? Mau đi mời người đó đến đây, cùng bàn đại sự. - Các đại thần nhao nhao thúc giục Bình Nguyên Quân.
Bình Nguyên Quân có vẻ bí hiểm:
- Con người nhỏ mọn ấy, việc gì phải mời, chỉ cần gọi là đến ngay. - Nói xong liền sai bảo bọn thị vệ đứng ở cửa, lập tức cho người đi sửa soạn mọi thứ cần thiết, và sắp đặt sẵn mảnh tre dùng để viết chữ và dao nhọn để khắc.
Kể từ khi quân Tần quay lại bao vây Hàm Đan, nước Triệu lại dùng lão tướng Liêm Pha chỉ huy việc bảo vệ, kiên trì cố thủ, không ra nghênh chiến. Trong khi đó, quân Tần từ xa đến, phải qua suối qua đèo, người ngựa đều mệt, sức mạnh suy giảm, phải kéo dài việc cầm cự. Về phía Doanh Dị Nhân, do làm con tin lâu ngày, đứng trước tình hình lộn xộn của nước Triệu, biết rõ mình đang lâm nguy. Khi quân Tần áp sát chân thành, quân Triệu ra sức chống trả. Doanh Dị Nhân không dám bước ra khỏi nhà, không dám gặp bạn bè, không tham dự tiệc tùng, chỉ đóng cửa ngồi im, co ro một xó. Ngay dù có vợ yêu chiều chuộng, con nô đùa bên cạnh, cũng cứ mặt ủ mày chau, chẳng khác người mất hồn, chẳng nói chẳng rằng từ sáng đến tối.
Trước đó không lâu, thái tử Đan của nước Yên cũng đến Hàm Đan để làm con tin. Vị thái tử này được nhiều người ở thủ đô nước Triệu rất tôn kính vì ngài rất cao thượng và hào phóng. Khi nghe tin Doanh Dị Nhân đang ở trong tình thế rất khó khăn, thái tử Đan rất thông cảm và thương tình, nên luôn đến thăm, an ủi và động viên Doanh Dị Nhân. Khi quân Tần sang đánh Triệu, toàn thành Hàm Đan vùng lên chống Tần quyết liệt, thái tử Đan lại càng hay đến thăm Doanh Dị Nhân, nhằm giúp công tử nước Tần bớt căng thẳng. Hôm nay, thái tử nước Yên đang ngồi nói chuyện với Doanh Dị Nhân, bỗng có hai lính thị vệ của hoàng cung xông vào nhà, cao giọng nói với Doanh Dị Nhân:
- Này, tên con tin của quân địch kia, mau đi theo ta!
- Xin hỏi quan thị vệ, tôi phải đi đâu ạ? - Doanh Dị Nhân hỏi với vẻ hốt hoảng.
- Hỏi thì được cái gì, khắc có chỗ cho nhà ngươi đến. - Lính thị vệ trả lời gắt gỏng. Nói chưa xong đã dấn xốc nách Doanh Dị Nhân đi nhanh ra ngoài.
Thái tử Đan muốn an ủi Doanh Dị Nhân mấy câu, nhưng không kịp nữa rồi, chỉ nghe tiếng công tử nước Tần nói vọng lại:
- Nhờ thái tử báo gấp cho thầy học của đệ là Lã Bất Vi rằng chú ý săn sóc người nhà của tiểu đệ!
Tiếng nói xa dần. Thái tử Đan vội vàng vào trong nhà trong để nói cho Triệu Cơ biết chuyện vừa xẩy ra, căn dặn hai mẹ con nàng nhất thiết phải bình tĩnh. Sau đó, thái tử Đan cấp tốc đi tìm Lã Bất Vi, bàn cách cứu Doanh Dị Nhân.
Doanh Dị Nhân bị hai lính thị vệ xốc nách hai bên, vừa đi vừa nhảy như con lật đật dọc đường, cuối cùng cũng đến Tùng Đài, nơi mà vừa mới đây anh ta còn tham dự bữa tiệc với tư cách là khách mời của triều đình, nay thì chỉ là thân phận của một tên tù bị xét hỏi. Doanh Dị Nhân ruột đau như cắt, hai mắt lệ tuôn như suối, luôn luôn phải đưa tay áo lên chùi. Bỗng nghe thấy tiếng vua Hiếu Thành quát hỏi:
- Này con tin Doanh Dị Nhân, nhà ngươi có biết tội gì không?
- Doanh Dị Nhân này đến quý quốc đã mấy năm, đã cố gắng kiệt sức vì mối bang giao hòa mục giữa hai nước. Tuy không có công lớn, nhưng cũng không có tội gì. Xin bệ hạ minh xét
Trải qua hơn hai mươi năm sống trong vòng xoáy của mâu thuẫn gay gắt, phức tạp giữa hai nước, Doanh Dị Nhân đã hiểu được và cũng đã học được sách lược đấu tranh “khi không có việc gì thì chớ bạo dạn, khi có việc thì cần bạo dạn” (“vô sự nghi đảm tiểu, hữu sự nghi đảm đại”). Giờ đây, chiến sự hai nước đang ở lúc quyết liệt nhất, Doanh Dị Nhân thấy không thể đánh mất tư cách cháu vua (vương tôn) một nước lớn, bèn trả lời vua Triệu một cách mạch lạc, có lý có lẽ.
Vua Triệu chợt nghĩ, cũng thấy chẳng cần gì phải bàn cái công tội của Doanh Dị Nhân, bèn nói toạc ra rằng:
- Việc đó hãy tạm gác lại đã, nay ông nội nhà ngươi lại xé bỏ thỏa ước đồng minh, đưa binh lực đến vây hãm đô thành của ta, hai nước đã trở thành thù địch.
Doanh Dị Nhân vội bày tỏ thái độ của mình:
- Bạn thù thay đổi, chiến hòa thất thường, đó là chuyện luôn luôn xẩy ra giữa hai nước, Doanh Dị Nhân này xưa nay không hề can dự vào những việc đó, tự vấn lương tâm cũng thấy thanh thản.
- Nói cái gì mà tự vấn lương tâm cũng thấy thanh thản? Đã làm con tin thì phải có trách nhiệm chứ. - Thừa tướng Bình Nguyên Quân nói thêm vào để làm tăng sức nặng lời phán của vua Triệu (Việc xét hỏi này, đã được chuẩn bị từ trước).
Doanh Dị Nhân thản nhiên đáp:
- Doanh Dị Nhân tự biết rằng đã làm con tin của một nước, lúc hòa là bạn, lúc đánh là thù. Nay là người tù, chẳng biết còn có trách nhiệm gì nữa!
- Con người của ngươi ở đây, cũng chẳng đáng là cái gì. Nhưng với tư cách là con cháu vương triều đương đại, ắt phải có vai trò không nhỏ. Vì vậy phải viết một bức thư cho tướng Tần Vương Hột, giục hắn ngừng chiến giải vây. Nếu được vậy ta sẽ cho xe chở cả nhà công tử trở về Hàm Dương, hai nước lại thân thiện với nhau - Vua Triệu đặt điều kiện với Doanh Dị Nhân. Ngài nói ôn tồn.
Doanh Dị Nhân trả lời ngay, thái độ tích cực:
- Phàm việc gì trên đời cũng nên dĩ hòa vi quý. Đó là triết lý của tiền nhân, và Doanh Dị Nhân tôi cũng mong muốn như thế. Huống chi sự việc hôm nay vừa có ích cho bang giao hai nước, lại có can hệ đến an nguy của cả nhà tôi. Nếu sớm biết quý quốc có chủ trương đó thì cần gì phải phiền đến thị vệ đón tôi. Chỉ cần có khẩu dụ, là hạ bút xong ngay.
- Vậy thì xin hạ bút! - Thừa tướng Bình Nguyên Quân vội ra lệnh cho bọn thị vệ bày bàn, đặt mảnh tre và dao khắc lên bàn, để Doanh Dị Nhân khắc chữ.
Nhờ không khí hòa dịu, nên tâm trạng của Doanh Dị Nhân vốn rất căng thẳng, hoang mang nhưng rồi dần dần trấn tĩnh lại, hơn nữa, còn cảm thấy tự tin đối với địa vị và năng lực của mình. Suy nghĩ giây lát, Doanh Dị Nhân cầm lấy con dao và bắt đầu khắc chữ. Vì đã có sự chuẩn bị trước về nội dung bức thư, nên Doanh Dị Nhân nhanh chóng đưa ngọn dao vào mảnh tre. Mọi người chung quanh chỉ nghe thấy tiếng rạch vỏ tre sột soạt, một lát sau là viết (khắc) xong. Doanh Dị Nhân trao bức thư cho thừa tướng Bình Nguyên Quân, để ông này đọc cho nhà vua nghe:
Kính gửi tướng quân Vương Hột,
Được biết hai nước Tần, Triệu gần đây lại bất hòa, ngài đưa quân tấn công nước Triệu, Hàm Đan nguy cấp. Thừa hành chiếu dụ của Triệu Vương, nay viết thư này cho tướng quân, xin giải tỏa ngay việc bao vây, trở lại hòa hiếu như xưa. Nếu không, tướng sĩ hai nước không tránh khỏi thương vong, sinh linh phải bị hủy diệt. Doanh Dị Nhân ta đang làm con tin, khó bảo toàn tính mạng, vợ con vô tội cũng làm mồi cho cá. Đây là việc rất đau buồn, xin tâu trình gấp lên đức vua bệ hạ (nguyên văn: “tổ vương”, tức vua - ông nội). Nếu rủ lòng thương, chấp nhận tấu trình, là vận may to lớn cho hai nước; là vận may rất lớn của cả nhà Doanh Dị Nhân.
Con tin Doanh Dị Nhân kính thư.
Vua Triệu nghe xong mỉm cười gật đầu, nói:
- Nếu ông nội công tử cũng có tình có nghĩa như công tử thì có hy vọng hai nước sẽ hòa hiếu trở lại.
Tiếp đó, vua Triệu bảo Bình Nguyên Quân lấy danh nghĩa quốc gia để viết công văn cho tướng Vương Hột để nhờ tướng này chuyển lên Tần Chiêu Vương. Công văn nói vua Triệu cũng có sự mong muốn như công tử Doanh Dị Nhân, và bảo hôm sau phải sai sứ đưa công văn đó đến doanh trại quân Tần. Trước khi bãi triều, vua Triệu nói với Doanh Dị Nhân:
- Cả hai bên cùng ra tay, mới mong sớm có hiệu quả.
Thừa tướng lại bảo hai viên thị vệ đưa Doanh Dị Nhân về nhà. Mỗi bên đều dự kiến, chỉ mấy ngày nữa là có tin mừng.
Trên đường quay về nhà, Doanh Dị Nhân nhớ lại việc viết thư vừa rồi và cảm thấy đây là sự việc có giá trị nhất của mình trong hai mươi năm qua, trong việc phụng sự đất nước, thúc đẩy việc chung sống hòa bình giữa Tần và Triệu. Tự nhiên, Doanh Dị Nhân thấy rất vui nhưng lại nghĩ, không biết bây giờ mẹ con Triệu Cơ ra sao? Ở đâu? Hay là đã đến nhà Lã Bất Vi? Nghĩ đến đây, Doanh Dị Nhân cất bước nhanh hơn, đến nỗi hai viên thị vệ phải luôn luôn kêu lên và yêu cầu công tử đi chầm chậm lại.
- Lúc ta đi thì các ngươi vừa nghi ngờ vừa sợ hãi, lôi xềnh xệch như kéo thuyền dọc bờ sông, sao lúc ấy không đi chầm chậm. Bây giờ quay về vừa vui vừa vội, giống như thuyền xuôi theo dòng nước chảy, cho nên càng đi càng nhanh mới phải chứ.
Khi nào Doanh Dị Nhân cao hứng lên, thì nói năng vui vẻ pha cười, làm cho hai viên thị vệ cũng cười theo.
Khi Doanh Dị Nhân bước vào nhà với tâm trạng rất sốt ruột, thì thấy nô tỳ và đầy tớ đang có vẻ kinh hoàng hoảng hốt, chẳng biết làm gì. Nhất là cánh cửa của phòng trong đang đóng chặt, có tiếng kêu khóc của đàn bà con gái ở trong phòng vang ra ngoài. Doanh Dị Nhân vội tìm mọi cách để mở cửa phòng ra, thì thấy Triệu Cơ đang bế Triệu Chính (sau này là Tần Thủy Hoàng) và khóc lóc, lại còn đang giơ tay để nhặt dây chuyền bằng hạt trân châu. Trong khi đó thì Lã Bất Vi và thái tử Đan đang vội vàng gói ghém quần áo, đồ đạc trong phòng rất lộn xộn. Doanh Dị Nhân vội kêu to:
- Thôi, dừng tay lại. Dừng tay lại! Các người đang làm cái gì thế này?
Lúc ấy, mọi người mới để ý thấy Doanh Dị Nhân đã về, họ vội vàng bỏ đồ đạc trên tay xuống, và hơi ngỡ ngàng. Một người hỏi:
- Công tử đã về đấy ư?
Triệu Cơ vội chạy ngay đến và sà vào lòng công tử, vừa nức nở vừa hỏi rất thương tâm:
- Công tử, chàng bị bắt đi đến tận đâu?
Doanh Dị Nhân cũng rất xúc động, cũng nước mắt lưng tròng, vừa xoa vào mái tóc của vợ yêu, vừa nói rất ôn tồn:
- Chẳng phải là ta đã về đây một cách đàng hoàng đó sao? Còn khóc cái nỗi gì nữa?
Tiếp đó, Doanh Dị Nhân kể lại những điều vừa diễn ra tại Tùng Đài, ở đó, theo gợi ý của vua Triệu, Doanh Dị Nhân dã viết thư cho tướng Vương Hột, kêu gọi ngừng chiến, giải vây. Đến đây, mọi người mới vỡ nhẽ, và vui mừng hẳn lên. Triệu Cơ đưa con trai cho Doanh Dị Nhân bế, và kể lại sự việc sau khi Doanh Dị Nhân bị lính thị vệ giải đi, thái tử Đan đã báo tin đó Triệu Cơ và nàng đã lập tức tìm Lã Bất Vi để bàn cách cứu công tử. Theo Lã Bất Vi, thì cung đình đã đưa lính thị vệ đến, chắc là sẽ đưa công tử đến hoàng cung hoặc triều đình, như vậy, trước mắt có thể chưa có nguy hiểm gì đối với tính mạng. Chỉ sợ sự việc sẽ diễn biến xấu và sẽ có tai họa đến vợ con. Vì vậy, Lã Bất Vi đã vội vàng giúp Triệu Cơ thu vén một ít đồ đạc gọn nhẹ, tạm đến lánh ở nhà Lã Bất Vi; sau đó, tìm hiểu tình hình của công tử, rồi tìm cách cứu công tử. Không ngờ công tử lại về được sớm như thế này, lại còn làm được một việc có lợi cho việc ngừng chiến và vãn hồi hòa bình, thật sự làm cho mọi người rất mừng, quên cả mệt nhọc. Lúc này, Doanh Dị Nhân vội đi ra ngoài, nói với các nữ tỳ và đầy tớ đừng lo lắng gì nữa, phải bình tĩnh lại; phải giúp Triệu Cơ thu dọn, sắp xếp đồ đạc lại như cũ. Lại còn bảo người làm bếp chuẩn bị bừa cơm thịnh soạn để thết đãi tạ ơn thầy giáo Lã Bất Vi và thái tử Đan.
- Hôm nay công tử tuân chỉ nhà vua để viết thư, là một dấu hiệu mở đầu rất tốt. Vua Triệu cũng có thư cho quân Tần để cầu hòa và ngừng chiến, thiết nghĩ rằng tướng quân Vương Hột sẽ không từ chối - Triệu Cơ vừa bế và nựng con vừa nói.
Thái tử Đan nhắc nhở nàng:
- Từ lâu ta đã nghe nói Vương Hột hiếu chiến, tham vọng lập công, nhưng những năm gần đây chẳng làm nên trò trống gì. Nay được thăng cấp làm chủ soái, chắc sẽ thừa dịp đánh chiếm Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu giành lấy công to, lấn lướt vương triều, sao có thể dễ dàng ngưng chiến và giải vây?
- Thái tử nói chí phải... - Lã Bất Vi đặt mạnh cốc rượu xuống chiếu, tỏ ra rất đồng ý với cách nhìn của thái tử Đan. Lã Bất Vi còn nhấn mạnh - Huống chi mấy chục năm qua, Tần Chiêu Vương luôn luôn hiếu chiến, thường dốc toàn lực ra tiến hành chiến tranh. Lần này lại xé bỏ thỏa ước đồng minh, lại còn ngự giá thân chinh đốc chiến, đang ở cái thế không diệt được Triệu sẽ không chịu buông tay. Vương Hột đi tiên phong phía trước, nhà vua đi phía sau làm hậu thuẫn cho Vương Hột. Đây thật sự là “kẻ đến thì chẳng tốt gì, người tốt thì không đến”. E rằng một vài lá thư không lay chuyển nổi ý đồ ban đầu của họ.
- Nghe ngài nói vậy, thật không ai trong giới thương trường lại có những cao kiến như thế. Đó mới là cái tài kinh bang tế thế của bậc thừa tướng, đại tướng. Khâm phục lắm thay! - Thái tử Đan nói xong, nâng cốc chúc rượu Lã Bất Vi.
Lã Bất Vi cũng nâng cốc chúc lại thái tử Đan, và nói rất khiêm tốn:
- Thái tử quá khen!
Doanh Dị Nhân nghe hai người nói chuyện, thầm hiểu sâu sắc rằng Lã Bất Vi có con mắt nhận biết sự việc sắc bén, rất tinh vi và chính xác, tầm nhìn rất rộng lớn. An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân bảo mình phải coi ông ấy làm thầy, thật là biết dùng người. Còn thái tử Đan vốn là con người có ý thức về những sự nghiệp chính nghĩa, từng rất thông cảm với hoàn cảnh của mình (Doanh Dị Nhân), rất quan tâm tới mình. Hôm nay, ông ấy đến đây, vô tình gặp phải sự việc đột biến, thấy mình gặp nạn, sinh lòng trắc ẩn, nói năng chân tình, ra sức cứu giúp. Hai vị ấy quả là “lương sư ích hữu (“thầy tốt bạn tốt”) rất hiếm có. Chẳng những là những người có thể làm bạn tri kỷ trong hoạn nạn, mà còn là chỗ dựa vững chắc nhất của mình trong con đường dựng nghiệp từ nay về sau. Nghĩ đến đây, Doanh Dị Nhân cảm thấy rất vui, liên tục chúc rượu và gắp đồ nhắm cho hai người. Cả ba người nói chuyện rất rôm rả, hầu như chẳng còn biết gì đến tình hình chiến sự và hoàn cảnh khó khăn đang diễn ra rất căng thẳng.
Lúc này, hơn mười vạn quân Tần đang khép chặt vòng vây chung quanh thành Hàm Đan, một đô thành rộng mấy chục dặm vuông. Trong nội thành, lão tướng Liêm Pha chỉ huy quân đội rất nghiêm, kỷ luật chặt chẽ. Lão tướng nói năng rất nghiêm khắc, mặc dù trong lòng ngài luôn luôn giàu tình thương người. Ngài kiên tâm giải thích cho tướng sĩ phải xóa bỏ ý muốn cấp tốc diệt địch để trả thù; không thể nôn nóng như vậy, mà phải kiên nhẫn cố thủ, tăng cường canh phòng, nêu cao cảnh giác, quyết không ứng chiến, mặc cho quân Tần cố tình khiêu khích, kêu gào. Trong lúc ấy, với tư cách là đại soái quân Tần, Vương Hột vừa lo rằng để lâu sẽ không đánh chiếm được Hàm Đan, thì sĩ khí quân lính sẽ giảm sút, lòng quân dao động; nhất là phía sau lại có vua Tần Chiêu Vương đốc chiến, nếu mình không có tiến triển gì, chắc sẽ bị khiển trách là tác chiến chậm chạp... Vương Hột càng nghĩ, càng sất ruột, lo lắng không yên.
Hôm nay, bầu không khí trong lán chỉ huy quân Tần đang vắng lặng, bỗng mấy tên lính gác cửa dẫn viên sứ giả nước Triệu đi vào xin gặp. Bất kể đến gặp về việc gì đi nữa, thì đây cũng là dấu hiệu của một biến chuyển gì đó, cứ coi như là một thay đổi đối với tướng Vương Hột. Vương Hột lập tức sửa lại cổ áo rồi ngồi thẳng dậy, chờ tướng dưới quyền “trung quân” đưa bức thư bằng tre đến cho mình.
- Ồ, một lúc có những hai bức thư. Chuyện này thật chẳng nhỏ chút nào!
Vương Hột nói một mình và giở thư ra đọc. Trước hết ông ta xem thư của vua Triệu, bất giác bĩu môi, ông ta cho rằng vua quan nhà Triệu bắt đầu hết hơi rồi, nên mới cầu xin ngừng chiến; còn việc bằng lòng trả lại con tin, chẳng qua chỉ là té nước theo mưa, đẩy thuyền theo gió mà thôi. Điều cốt yếu nhất là phải đánh chiếm được Hàm Đan, từ đó cứu được Doanh Dị Nhân. Đó mới là chiến thắng lớn nhất để có thể xin vua Tần Chiêu Vương ban thưởng công trạng. Cho nên, ông ta không trả lời dứt khoát bức thư của vua Triệu. Ông chuyển sang xem bức thư thứ hai, coi trong đó có gì mới hay không, để có thể lựa chọn và quyết định.
- Cái anh Doanh Dị Nhân này mới lạ chứ! Lúc đại quân ta sắp chiếm được thành đến nơi rồi, lại không biết đường mà thừa thắng để thúc ép vua Triệu đầu hàng, còn quay ra khuyên ta giảng hòa giải vây. Chỉ lo cho tính mạng của bản thân và vợ con, thật xấu hổ với thân phận cháu vua Tần!
Vương Hột không những không thông cảm với cảnh ngộ và ý đồ tốt lành của Doanh Dị Nhân, mà còn cho rằng anh ta đang ngáng trở công việc của mình, cho nên tức giận và vứt trả lại hai bức thư. Còn nói:
- Bản soái lần này đến đây là cốt để lấy cho được Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu các ngươi. Vì vậy, ta chỉ tiến không lùi. Nếu chủ nhân các ngươi biết điều thì mở cổng thành ra hàng. Như vậy, kết cục sẽ được thể diện hơn. Bằng không, ta sẽ không sợ phải hy sinh, quyết đánh chiếm cho được đô thành này. Lúc ấy, tính mạng của vua quan và bách tính các ngươi sẽ giống như số phận ở trận Trường Bình năm nào. Đi đâu và làm gì, các ngươi phải nhanh chóng quyết định. Bản soái không thể chờ lâu nữa! - Nói xong còn khoát mạnh tay áo và quát lớn - Lại còn không cút đi cho rảnh mắt ta!
Sứ giả của Triệu sợ sệt cúi đầu cụp đuôi lui ra.
Sau khi sứ giả của Triệu ra về, tướng “trung quân” nhặt hai bức thư và nói với Vương Hột:
- Thưa tướng quân, tuy nói rằng “tướng ngoài mặt trận có thể không nghe lệnh vua” nhưng xem ra vua Triệu và cháu vua Tần là Doanh Dị Nhân đều có nói rõ cầu xin Tần Chiêu Vương bệ hạ xem qua những thư này. Nay tướng quân trả lại thư ngay tại chỗ, nếu vì vậy mà hại đến tính mạng công tử và vợ con thì...
- Ôi! Bệ hạ từ lâu đã coi Doanh Dị Nhân là đồ bỏ đi rồi, không cần lo gì chuyện mất hay còn nữa. - Vương Hột trả lời rất kiên quyết.
Trung quân vẫn kiên nhẫn nhắc lại:
- Nếu bệ hạ lại muốn sử dụng lại đứa cháu bỏ đi đó, làm diệu kế để chiếm nước Tần bằng mưu, hoặc là bằng lòng ngồi lại thương lượng với nước Triệu chẳng hạn. Theo mạt tướng (tướng hạng bét), thì cứ tấu trình thánh thượng cái đã. Việc này có liên quan đến tính mạng của người kế vị thái tử chứ chẳng chơi, nên thận trọng một chút thì hơn.
Vương Hột suy nghĩ một lúc, thấy viên tướng dưới quyền nói có phần nào hợp lý, bèn sai kỵ binh đi nhanh đưa hai bức thư cho Tần Chiêu Vương ở phía sau. Còn sai quân phía trước dùng cung bắn một bức thư vào thành Hàm Đan, bảo vua quan nước Triệu cứ chờ trả lời. Do vậy, tình hình căng thẳng dịu dần xuống. Mặc dù lực lượng hai bên, trong và ngoài thành, vẫn đều đang khẩn trương chuẩn bị tác chiến, nhưng cục diện và lòng người thì đỡ căng hơn. Nhất là cả nhà Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi, thái tử Đan đều cảm thấy yên tâm và vui mừng vì tạm được sống bình an và tự do. Họ mong rằng lá thư tràn đầy nhân đức của Doanh Dị Nhân có thể làm cho ông nội, là vua Tần Chiêu Vương phải suy nghĩ lại, và như vậy, may ra sẽ có thể “biến gươm đao thành cuốc cày” [iv].
Mọi người mỏi mắt trông chờ hơn một tháng mới có chỉ dụ phúc đáp của Tần Chiêu Vương. Đúng như vị tướng “trung quân” dự đoán: lúc mới đầu thì Tần Chiêu Vương coi đứa cháu Doanh Dị Nhân là một vật thế chấp rẻ tiền, chẳng bao giờ hỏi han tới, càng không nghĩ tới việc chuộc anh ta về. Nay đưa quân hòng nhanh chóng tiêu diệt Triệu, nhưng mãi vẫn không chiếm được Hàm Đan. Ngài e ngại rằng nếu chiến sự kéo dài, quân sĩ sẽ sinh ra chán nản. Hơn nữa, nếu lại có nước khác đưa quân đến giúp Triệu, thì tình hình sẽ bất lợi cho Tần... Nay lại có hai bức thư tre do Vương Hột đưa trình. Trong thư, vua Triệu khẩn thiết xin hòa và còn dựa vào cái thế “thượng phong” là đang nắm giữ con tin Doanh Dị Nhân để ép nước Tần giải vây và giảng hòa. Tần Chiêu Vương cũng nhân cái đà đó, viết thủ dụ cho Vương Hột, tỏ ra chấp nhận ý đồ của vua Triệu. Trong đó, ông ta (Chiêu Vương) viết rằng Doanh Dị Nhân đã là con trưởng của Hoa Dương phu nhân, có quyền kế vị thái tử An Quốc Quân, vì vậy nhà vua và toàn bộ vương triều nhà Tần rất coi trọng công tử Doanh Dị Nhân. Nay nước Triệu muốn ngừng chiến và giảng hòa, nhà vua cũng đồng ý, nhưng trước hết phải đưa công tử về nước Tần đã, để chứng tỏ lòng thành của quý quốc.
Nhận được chỉ dụ nói trên của nhà vua, Vương Hột hiểu ngay, và tỏ ra rất khâm phục sự hiểu biết và kiến nghị của “trung quân”, bèn lấy danh nghĩa đại nguyên soái quân Tần viết thư trả lời thừa tướng nước Triệu là Bình Nguyên Quân. Trong thư nói rằng, tuân theo ý chỉ của vua Tần Chiêu Vương, nước Triệu phải “trước lễ, sau binh”, tức là phải đưa gấp Doanh Dị Nhân về doanh trại quân Tần, sau đó mới bắt đầu đàm phán. Nếu không, sẽ kiên quyết dùng vũ lực
Sau khi nhận được thư phúc đáp, vua quan nước Triệu vội họp bàn đối sách. Tại cuộc họp, có người cho rằng, vua Tần đã bày tỏ ý muốn đàm phán giảng hòa, chi bằng cứ trả cả nhà con tin Doanh Dị Nhân về nước, sau đó đàm phán. Đó là con đường ngắn nhất để cứu nước Triệu khỏi nguy cơ mất nước, khôi phục hòa bình và bang giao hai nước. Lão tướng Liêm Pha, con người mưu lược sâu xa, đã thẳng thừng bác bỏ cách suy nghĩ ngây thơ ấu trĩ đó. Ông vạch ra rằng, xưa nay “dùng binh thì phải lừa”; nhất là vua Chiêu Vương nhà Tần, con người rất thất thường, trở mặt như lật bàn tay, gian trá khó lường. Cho nên hoàn toàn không thể nhẹ dạ cả tin vào lời hứa lần này của vua Tần, vừa phải tăng cường chuẩn bị chiến tranh, để đề phòng những cuộc tấn công ác liệt hơn. Vua Hiếu Thành và các đại thần có mặt đều tán thành ý kiến của Liêm Pha, và cùng nhau bàn về sách lược tiếp tục chống Tần.
Trải qua bàn bạc sôi nổi, mọi người thống nhất như sau: trước hết, không thể có ảo tưởng đối với nước Tần mà phải bày tỏ bằng thái độ cứng rắn cho họ biết nước Triệu không hề yếu hèn mà kiên quyết chống nước Tần tàn bạo. Vì vậy, người phải chịu đòn dầu tiên là Doanh Dị Nhân, anh ta phải bị áp tải lên đoạn đầu đài (giá chặt đầu).
Đại tướng Liêm Pha phụng chỉ sai tướng Lý Đồng đưa bốn tên đao phủ và một đội lính tuần, áp giải Doanh Dị Nhân đi khắp phố phường Hàm Đan. Doanh Dị Nhân mặc áo tù màu đỏ từ đầu đến chân, trước ngực mang một tấm biển có đề mấy chữ rất to “Tử tù Doanh Dị Nhân. Con tin của Tần”. Mấy người cầm thanh la đi đầu, tiếng thanh la kêu inh ỏi, não nùng. Người Hàm Đan đổ ra đường ngày càng đông, họ chen chúc hai bên đường mà đoàn áp tải tử tù đi qua, bày tỏ lòng căm thù đối với quân Tần xâm lược. Doanh Dị Nhân bị bao trùm trong không khí khủng bố khủng khiếp, sợ run bắn người lên, toàn thân rất lạnh nhưng toát đầy mồ hôi. Sau khi đi một lượt khắp mọi xó xỉnh trong thành, Doanh Dị Nhân được đưa lên lầu thành. Lúc ấy, tướng Lý Đồng đứng trên một trạm gác cao, ở cạnh “tử tù” (xung quanh thành Hàm Đan có bốn trạm gác cao như thế), gọi rất to cho quân Tần đang vây thành ở ngoài rằng:
- Doanh Dị Nhân, cháu vua các người, nay là tù nhân của nước Triệu, đã bị kết tội tử hình. Nếu các người tiếp tục tấn công vào thành, Doanh Dị Nhân sẽ bị chém đầu, dùng máu của y để tế cờ và ăn thề, quyết huyết chiến với bọn xâm lược các người đến cùng.
Vương Hột nghe binh sĩ ở phía trước về báo tin, bèn đội mũ mặc giáp, rồi lên ngựa đến chân thành để xem xét tình hình. Mặc dù Vương Hột chê trách Doanh Dị Nhân là một kẻ ươn hèn tham sống sợ chết, làm ô nhục quốc gia, nhưng xét cho cùng thì vẫn là cháu của quốc vương, lại đang sắp bị chém đầu rồi; cho nên, ông ta không khỏi băn khoăn, lo lắng. Nghĩ vậy, bèn thúc ngựa về bản doanh và ra lệnh cho binh lính không ai được đứng xem, càng không được có bất cứ hành động gì. Vì ông sợ rằng nếu gây ra một sự việc gì đó có tính chất đe dọa đối phương, thì nước Triệu sẽ lập tức giết Doanh Dị Nhân. Dù sao thì việc đó cũng là một sự hy sinh không cần thiết của nước Tần.
Người đời có câu “Trời không bao giờ bịt hết mọi con đường của con người”. Thời gian mà Doanh Dị Nhân bị áp tải đi rong ngoài đường phố rồi lên thành lầu để từ biệt quân Tần cũng khá lâu. Chính trong lúc ấy, Lã Bất Vi và thái tử Đan đã kịp đến gặp vua Triệu ở cung đình, tâu với Hiếu Thành rằng cách làm như vậy là thất sách. Vua Hiếu Thành nói, không làm như vậy sẽ không ngăn cản được khí thế hùng hổ của quân Tần, không đủ để khích lệ tinh thần và quyết tâm của quân dân Triệu đứng lên kiên quyết chống Tần đến cùng. Lã Bất Vi và thái tử Đan vạch rõ rằng, Doanh Dị Nhân đã bị coi như một người vứt đi, nên mới đưa đến Triệu. Còn việc được nhận làm con trưởng để kế vị thái tử An Quốc Quân, là việc của Hoa Dương phu nhân; bà này muốn củng cố địa vị của mình ở đông cung nên mới làm như vậy. Do đó làm cho uy thế của Doanh Dị Nhân tăng lên, thực ra đó chỉ là hữu danh vô thực. Bởi vì An Quốc Quân có những hai mươi mấy đứa con, dù cho Doanh Dị Nhân không còn nữa, thì tìm một đứa khác, dễ như không. Nhưng nay nhà vua làm như thế là bịt hết mọi con đường hòa giải, Tần vương có thể lấy cớ trả thù cho cháu mình để dấy lên cuồng vọng chiến tranh trong tướng sĩ và dốc toàn lực đánh Triệu. Như vậy, thành Hàm Đan vốn đã nguy khốn trăm bề, liệu còn có thể giữ được nữa hay không? Lúc đó, xã tắc và tôn miếu của nước Triệu sẽ biến thành của nước Tần. Đáng sợ biết bao? Nguy hiểm biết bao.
Vua Triệu vội đứng dậy, chắp hai tay, nói lời cảm ơn:
- Cảm ơn hai vị chỉ giáo. Nếu hai vị không nhắc nhở, trẫm đã phạm sai lầm lớn rồi!
Tiếp đó, nhà vua sai thị vệ cung đình phi ngựa ngay đến bảo Lý Đồng dừng tay lại, không đưa Doanh Dị Nhân lên đoạn đầu đài nữa, mà đưa về chỗ cũ ở ngoại thành Hàm Đan, giam vào nhà tử tù, và tùy theo tình hình tác chiến với Tần để xử trí sau.
Mặc dù Doanh dị Nhân dã từ chỗ cận kề với lưỡi hái tử thần, nay được cứu sống quay về, nhưng chưa thoát khỏi nguy hiểm. Nếu chiến sự còn tiếp diễn, thì tính mạng của Doanh Dị Nhân chỉ là nghìn cân treo sợi tóc. Để cho Doanh Dị Nhân thật sự an toàn, Lã Bất Vi đã tỏ ra hết sức xuất sắc và can trường. Ông đã làm như sau:
Nhân lúc vua Tần Chiêu Vương chưa có phản ứng gì khi biết Doanh Dị Nhân đã bị kết tội là tử tù, sắp bị xử chém; do đó, cục diện chiến sự tạm lắng xuống, vua Triệu cũng đang ở trong tâm trạng bình thường; Lã Bất Vi bèn đến xin gặp vua Triệu. Trước mặt vua Hiếu Thành, Lã Bất Vi tỏ ra rất đau buồn. Ông nói rằng, Doanh Dị Nhân tuy đã được miễn tội chết, nhưng vẫn lành ít dữ nhiều. Bản thân Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân có quan hệ thầy trò, huống hồ Triệu Cơ lại do ông tự đứng ra xe duyên cho Doanh Dị Nhân, quan hệ ba bề bốn bên. Trước khi vận hạn sắp giáng xuống đầu họ, gia đình sắp chia lìa đôi ngả, xin cho Lã Bất Vi được đưa mẹ con Triệu Cơ đến nhà ngục để thăm chồng lần cuối, đặng thể hiện đạo vợ chồng mà trời đất đã kiến tạo. Sau đó sẽ thu xếp ổn thỏa cho mẹ con Triệu Cơ. Xong việc này, ông sẽ đưa cha già và thê thiếp về quê Dương Địch, vì ở Hàm Đan đang chiến sự căng thẳng, không thể làm ăn gì được; trong khi một nhà đông người như vậy, ngày nào cũng phải sống phải ăn. Cho nên ông không thể ở lại nước Triệu được nữa [v]. Nói đến đây, Lã Bất Vi khóc lên thật sự, bộ mặt rất đau buồn.
Vua Triệu nghe Lã Bất Vi nói vậy, cảm thấy cũng có tình có lý. Nhất là cái bộ dạng đáng thương của ông ta, đã làm cho ngài rất xúc động, bèn nhận lời thỉnh cầu của ông ta, sai những người hữu quan cấp giấy thông hành cho ông ta thăm nhà tù.
Quá giờ Ngọ hôm sau, Lã Bất Vi mời thái tử Đan và mẹ con Triệu Cơ đi hai xe ngựa, chở đầy quần áo chăn màn và rượu thịt đến ngoại thành Hàm Đan. Quan canh cửa xem giấy thông hành xong, bèn mở cửa cho họ vào. Khi đến chỗ nhà tử tù, vẫn thấy Công Tôn Càn làm giám thị. Nhờ biết Lã Bất Vi từ trước, nên Công Tôn Càn rất dễ dãi. Ông ta tháo xích tay và cùm chân của Doanh Dị Nhân, để cho Doanh Dị Nhân được nói chuyện với người nhà. Doanh Dị Nhân khi nhìn thấy vợ con đã khóc nức nở. Vợ chồng, cha con níu chặt lấy nhau, trông rất thảm thương. Lã Bất Vi và thái tử Đan vừa an ủi họ, vừa nhân lúc Công Tôn Càn đi ra ngoài, đã vội ghé tai Doanh Dị Nhân nhỏ to gì đó.
Lúc ấy rượu thịt cũng đã được bày ra, khá thịnh soạn, nhưng đây là nhà tù, lại sắp phải chia ly, không chừng là ly biệt cuối cùng, tâm trạng người nào cũng ngổn ngang lo nghĩ, cho nên ít thấy ai đụng đến bát đũa, chỉ uống rượu là nhiều. Riêng vợ chồng Doanh Dị Nhân thì chẳng ăn mà cũng chẳng uống, chỉ nhìn nhau qua làn nước mắt, trông thật đáng thương. Lã Bất Vi và thái tử Đan thay nhau chúc rượu và gắp thức ăn cho Công Tôn Càn, nhờ ông ta chăm sóc công tử. Công Tôn Càn nói rằng nếu sau này Doanh Dị Nhân không bị án tử hình, thì ông ta nhất định sẽ tìm cách trả lại cho mọi người vị công tử cháu vua Tần này.
Bữa cơm tối ấy kéo dài đến quá nửa đêm, khách mới ra về. Doanh Dị Nhân và Triệu Cơ ôm mặt khóc, bịn rịn dùng dằng, chẳng muốn rời nhau. Lã Bất Vi và thái tử Đan khuyên can mãi, cuối cùng đẩy cả mấy người lên xe rồi bảo người đánh xe cho ngựa chạy nhanh. Ra đến cổng thành, quan canh cổng hỏi cớ sao nửa đêm còn ra ngoài làm gì. Lã Bất Vi dúi cho ông ta sáu trăm đồng tiền vàng và nói thác đi rằng vì có việc khẩn, nên ở trong ấy quá lâu, nay mới xong việc. Quan canh cổng mở cửa cho ra. Xe vừa đi được một quãng chưa dài lắm thì mỗi người một ngả: thái tử Đan đưa mẹ con Triệu Cơ đến lánh nạn ở nhà mình; Lã Bất Vi và Doanh bị Nhân thì cho ngựa phi nước đại đến trận địa quân Tần. Khi Công Tôn Càn tỉnh rượu và đi xem xét căn phòng nhà tù, thì chỉ thấy một đống chăn gối được xếp thành hình người đang nằm ngủ, còn người thì chẳng thấy đâu. ông ta kêu lên: “Thôi bị lừa rồi! Sai lầm to rồi!”. Nhưng ông ta không biết rằng người sai lầm lớn nhất trong vụ việc này chính là vua Triệu Hiếu Thành và các đại thần của ngài.
Chú thích:
[i] Thời Chiến Quốc: năm 475-221 trước Công nguyên - ND.
[ii] "Chỉ thượng đàm binh". "Chỉ" là giấy - ND.
[iii] Hùng đồ: ý đồ, mục tiêu hùng vĩ. Đại lược: mưu lược to lớn - ND.
[iv] Nguyên văn: "hóa can qua vi ngọc bạch". Có nghĩa: biến gươm đao thành đồ vật bằng ngọc và tơ lụa. Vì đồ vật bằng ngọc và tơ lụa là những tặng phẩm rất quý thường được trao tặng giữa các nước thời cổ đại, để thể hiện quan hệ hữu nghị hòa hiếu - ND.
[v] Lã Bất Vi quê ở nước Tề (nay thuộc tỉnh Hà Nam). Ngày sinh chưa rõ, mất năm 235 trước Công nguyên - ND.