← Quay lại trang sách

HỒI THỨ NĂM DOANH DỊ NHÂN VỀ NƯỚC, TRỞ THÀNH CON TRƯỞNG KẾ THỪA-NÀNG NHƯ CƠ TRỘM BINH PHÙ CỨU NƯỚC TRIỆU

Khi xe chở Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân chạy như bay đến ngã ba đường, thì xe chở cả nhà Lã Bất Vi đã chờ sẵn ở đó. Không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ có người đuổi theo phía sau, nên tất cả nhóm người này cảm thấy yên tâm.

Lã Yên kéo mạnh dây cương về phía tay phải, con ngựa lập tức quay đầu, cất bước chạy nhanh theo hướng Bắc. Các xe sau cứ nối đuôi nhau chạy tiếp. Đi được khoảng mười dặm, thấy phía trước trời tối đen như mực, nhưng trong khoảng không tối đen đó, lại nổi lên một đám ánh đèn lấp lánh dày đặc như sao trên trời. Lã Bất Vi biết rằng đó chính là đại bản doanh của quân Tần. Ông vội bảo thắp đuốc lên, và tiếp tục đi tới. Nhưng Lã Yên có chút lo sợ, vội nói:

- Thưa ông chủ, thắp đuốc sáng thế này, nếu quân địch nhìn thấy thì chẳng phải là đi vào chỗ chết hay sao?

Lã Bất Vi giải thích:

- Xe chúng ta chạy như bay trong đêm tối thế này, có thể sẽ bị quân Tần tưởng lầm là quân Triệu đánh tập kích, nên bắn cung tên loạn xạ, nếu chúng ta tử nạn thì cũng chẳng ai viết điếu văn cho mình nữa. Đành phải chịu số phận cơm đến miệng rồi còn bị cướp mất! [i]

Lã Yên nghe vậy, biết vậy, cứ vâng vâng dạ dạ rồi thắp đuốc sáng lên, nhưng cứ co dúm người lại, rất sợ mũi tên ác nghiệt nào đó sẽ bắn vào mình.

Quân tuần tra của Tần đột ngột nghe thấy tiếng xe chạy, vội mở to mắt quan sát, chỉ thấy hai chiếc xe ngựa đang chạy về phía quân Tần. Hai chiếc xe được đuốc chiếu sáng rõ mồn một. Quân Tần liền nổi trống cảnh báo. Vương Hột lập tức đội mũ giáp và ra ngoài doanh trại, thét lớn, ra lệnh cho binh sĩ giương cung lắp sẵn mũi tên sẵn sàng bắn.

Hai bên cách nhau ngày càng gần. Bên nào cũng rất căng thẳng. Lã Bất Vi vung mạnh cánh tay, ra hiệu dừng xe, kéo Doanh Dị Nhân đứng dậy và đẩy anh ta ra đứng phía trước. Lúc ấy, vừa có một loạt mũi tên rào rào bay tới, may mà chẳng trúng ai, nhưng làm cho Doanh Dị Nhân thần hồn nát thần tính, rụt lại phía sau và kêu to:

- Sư phụ ơi là sư phụ. Người đi cứu ta hay là đưa ta đi đến chỗ chết đây?

- Ngồi yên. Ngồi yên. Hãy hét to lên về phía quân Tần! - Lã Bất Vi ra lệnh cho Doanh Dị Nhân.

Doanh Dị Nhân không hiểu, bèn hỏi:

- Ta không biết hét cái gì bây giờ. Người đứng dậy mà hét.

Lã Bất Vi vẫn cầu khẩn anh ta:

- Tôi nói giọng nước Hàn, sợ họ không hiểu rõ. Công tử nói giọng nước Tần, vậy nói ngay đi, nói thế nào cũng được.

Doanh Dị Nhân đang suy nghĩ nên nói gì thì có mấy mũi tên lại bay tới, xạt qua bên đầu và tai, kinh hãi quá, bèn hét lên rất lớn, không kịp suy nghĩ trước:

- Đừng bắn nữa. Đừng bắn! Ta đây mà. Ta đây...

Cái giọng thổ âm địa phương rất nặng của Doanh Dị Nhân làm chữ “ta” biến thành chữ “tha”. Nhưng hai tiếng “tha đây” của Doanh Dị Nhân lại rất có hiệu nghiệm. Phía quân Tần nghe tiếng “tha đây” liền ngừng bắn và hỏi lại:

- Tha là ai?

- Tha là... Tha là... - Trong lúc quá căng thẳng, Doanh Dị Nhân nói không nên lời nữa.

Thấy vậy, Lã Bất Vi bèn đưa tay cầm lấy viên ngọc bội mà anh ta đang đeo ở cổ, giơ lên trước mặt anh ta, chỉ tay vào viên ngọc bội và nói:

- Ngài là, ngài là, ngài là cái này này...

Doanh Dị Nhân hiểu ngay đó là cái gì, bèn nói to với đối phương rằng:

- Ta là, là con của thái tử nước đại Tần đây!

Đối phương chỉ nghe được hai chữ “thái tử”, không nghe rõ chữ “con”, bèn chửi ầm lên rằng:

- Thái tử của đại Tần đang ở Hàm Dương. Ông đừng có mà giả mạo. Cứ bắn đi!

Doanh Dị Nhân nghe vậy, lại sợ run lên, vội nói thêm:

- Đừng bắn. Đừng bắn. Hãy nghe ta nói. Ta không phải là thái tử, mà là con của thái tử.

Những binh sĩ bắn cung vẫn chưa hiểu mô tê gì cứ ngơ ngác nhìn nhau và hỏi nhau:

- Con của thái tử sao không ở Hàm Dương, mà lại ở đây?

Chẳng ai giải thích nổi. Lại bắn!

Vừa lúc ấy, nguyên soái Vương Hột đến nơi, nghe những binh sĩ này nói vậy, bèn ra lệnh không bắn nữa, và sai một, binh sĩ đi lên phía trước hỏi cho rõ tình hình. Lúc đó Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi cũng đã đến sát trước mặt quân Tần. Doanh Dị Nhân chưa kịp nói gì với người lính của Vương Hột, thì Lã Bất Vi đã đưa viên ngọc bội cho đối phương và nói:

- Hãy đưa cho tướng quân các người. Cứ xem thì rõ.

Vương Hột nhận viên ngọc bội từ tay người lính cầm cung soi đuốc vào xem. thốt lên kinh ngạc: “Té ra là công tử Doanh Dị Nhân”. Rồi lập tức bảo mấy binh sĩ đi lên dẫn cỗ xe ngựa và hỏi gấp:

- Xin hỏi vị nào là công tử Doanh Dị Nhân?

Doanh Dị Nhân vội xuống xe đi lên một đoạn rồi nói:

- Ta là con tin đây.

- Bản soái Vương Hột, áo giáp trên người, không thể hành lễ, xin được lượng thứ. - Vương Hột chỉ chắp hai tay chào Doanh Dị Nhân và trả ngọc bội cho công tử.

Doanh Dị Nhân vội vẫy tay gọi những người phía sau xuống xe. Khi mọi người đều xuống xe, Vương Hột không thấy Triệu Cơ và đứa bé mà ông ta nghe nói từ lâu, bèn hỏi:

- Sao không thấy người nhà của công tử?

- Ta là con tin, vậy mà còn sống để đến được đây, thật không dễ dàng chút nào; còn hỏi sức đâu mà lo đến vợ con! - Doanh Dị Nhân nói xong bèn giới thiệu Lã Bất Vi và Vương Hột cho hai người biết nhau.

Sau khi chào hỏi nhau, tất cả đều đi vào doanh trại quân Tần. Vương Hột lập tức mở tiệc mời khách, coi như để xua đuổi nỗi kinh hoàng và tẩy sạch bụi trần cho họ. Trong khi ăn uống, Doanh Dị Nhân nói qua về quá trình thoát khỏi tội tử hình và được cứu ra khỏi nhà tù như thế nào. Vương Hột và các tướng lĩnh có mặt nghe Doanh Dị Nhân nói xong, đều nâng cốc cảm ơn Lã Bất Vi. Khi nói về mẹ con Triệu Cơ, mọi người không khỏi lo lắng, chẳng biết hai người này đi đâu và tình hình như thế nào?

Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và người nhà nghỉ ngơi mấy ngày trong doanh trại quân Tần, tinh thần đã trở lại ổn định và thoải mái. Nguyên soái Vương Hột sai một viên tướng dẫn mấy chục binh sĩ lanh lợi nhất, hộ tống hai xe của Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi đi ra phía sau để bái yết Tần Chiêu Vương. Còn kèm theo một bản tấu, xin nhà vua cho chỉ dụ gấp về giai đoạn tác chiến sắp tới.

Mọi người đều biết, thời kỳ tiên Tần, tình hình đấu tranh chính trị, quân sự rất gay gắt, phức tạp. Trong khi đó, vua Chiêu Vương đại Tần, một nước luôn luôn chống lại sáu nước khác, thường phải luôn luôn lo lắng và hao tâm kiệt sức về những việc đại sự của một nhà nước quân sự. Vì vậy, nhà vua này hình thành một tính cách lý trí nhiều hơn tình cảm, lạnh lùng nhiều hơn nhiệt tình; đến nỗi rất ít khi dòm ngó, hỏi han gì đến đứa cháu của mình. Lần này, trong thư của vua Hiếu Thành nước Triệu, có nói tới việc nước Triệu muốn sau khi hai nước đạt được thỏa thuận, sẽ trả con tin Doanh Dị Nhân về Tần. Điều này có gây xúc động ít nhiều trong lòng Tần Chiêu Vương, nhưng ông ta vẫn không để tâm lâu. Nay thấy người ta đưa cháu mình từ ngoài mặt trận về, thân hình tiều tụy, vẻ mặt đau buồn, nhà vua có phần nào thương cảm. Nhất là khi nghe nói Doanh Dị Nhân bị vua quan nước Triệu khép tội và suýt nữa bị xử tử, nhà vua càng cảm động, để rơi mấy giọt nước mắt già nua. Ngài an ủi Doanh Dị Nhân:

- Hiền tôn [ii] từ nhỏ đã phải xa cung đình, đi làm con tin ở nước khác, nhẫn nhục gánh vác trọng trách, trải nghiệm thử thách gian nan. Nhất là vừa rồi suýt nữa phải hiến thân vì nước, làm cho ta rất kinh hoàng, vô cùng thương cháu!

Nghe những lời tha thiết thân tình như vỗ về của nhà vua, Doanh Dị Nhân, một con người từ lâu nay vốn rất thiếu sự vỗ về yêu thương, thường có ác cảm và oán hận ông nội mình, nay lại thay đổi hẳn thái độ, cảm thấy trước mặt mình là người ông hiền từ, nhân hậu, lời ông nói thật ấm áp tình người và hết sức cảm kích. Doanh Dị Nhân xúc động, quỳ rạp mình xuống đất, nước mắt lã chã, khấu đầu tạ ơn:

- Cháu thật bất hiếu, chưa có gì để làm vui ông nội lại còn suýt nữa gặp bất trắc để ông phải lo sợ. Nay được ân sủng, cháu lại càng lo lắng hơn, một lần nữa cháu xin đa tạ long ân của tổ vương [iii].

Tần Chiêu Vương đưa tay ra hiệu cho Doanh Dị Nhân đứng dậy, hỏi thăm tình hình vợ con, và chỉ chỗ cho Lã Bất Vi ngồi, rồi nói lời cảm ơn:

- Vợ chồng thái tử An Quốc Quân nhận cháu Doanh Dị Nhân làm con trưởng thừa tự, trẫm cũng sớm được biết đó là nhờ có tiên sinh ra sức giúp đỡ nên mới thành đạt như thế. Bây giờ lại cứu cháu ta thoát khỏi bàn tay đao phủ, trốn chạy khỏi ngục tù, thật là can trường dũng cảm, cứu người hoạn nạn, trẫm cảm kích vô cùng!

Lã Bất Vi quỳ xuống tấu đáp:

- Số phận công tử gặp nhiều điều không may, giống như châu ngọc dính đầy cát bụi. Tiểu nhân lực ít công mọn, đâu dám nhiều lời. Nay đã tai qua nạn khỏi, được đến đây để bái yết đức vua, thật là nhờ sự anh linh của tiên tổ đại Tần và hồng phúc của đức vua bệ hạ. Tiểu nhân được theo gót công tử đến gặp mặt rồng đại vương, thật là vinh hạnh vô cùng, suốt đời cảm kích.

Những lời phỉnh nịnh ngon ngọt của Lã Bất Vi đương nhiên là Tần Chiêu Vương rất vừa lòng. Ngài mỉm cười tán đồng và nói:

- Tiên sinh đa tài. Những hạng người thô tục, chỉ biết khua môi múa mép để kiếm ăn, làm sao mà có thể sánh được với tiên sinh. Trẫm sẽ đích thân ra chỉ dụ cho con trai và con dâu của trẫm trọng dụng tiên sinh, giữ chức đại thần trong triều đình ta.

Sau khi nghe những lời đó, Lã Bất Vi biết rằng cái món “hàng lạ” - công tử Doanh Dị Nhân - mà mình đã đầu tư vốn vào đó bất chấp rủi ro và đã một mình phấn đấu gian khổ trong bao nhiêu năm, nay đã bắt đầu sinh lợi. Đó là viên gạch đầu tiên trên con đường tiến thân của mình, con đường buôn bán kiếm lời, trữ hàng lấy lãi, vừa làm con buôn, vừa làm quan lại. Hơn nữa, viên gạch ấy lại được đặt ra bằng chính bàn tay của nhà vua Tần Chiêu Vương, vị quân chủ tối thượng của vương triều đại Tần, thật chắc chắn và vững chãi làm sao! Mình nhất định phải bò dần từng bước, từng bước trên cái viên gạch ấy, không ngừng tiến lên phía trước để đạt đến đỉnh cao nhất! Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi bất giác cười một mình “Hây! Hây! Hây!” quên khuấy mất mình là ai và đang ở đâu.

- Nghe trẫm nói, cớ sao tiên sinh lại cười?

Việc cười lớn trước mặt vị quân chủ tối cao là hết sức vô lễ, nhất là lại cười sau khi nghe ngài ban “lời vàng ý ngọc”, lại càng mắc tội phạm thượng khi quân. Do đó, Chiêu Vương chau mày cật vấn ngay.

- Tiểu nhân tấu trình bệ hạ, vừa rồi được chiêm ngưỡng dung nhan bệ hạ, lại được nghe đại vương ban truyền khẩu dụ, nên cảm thấy sâu sắc rằng đại vương có phong độ oai nghiêm, thiên hạ vô địch, mưu lược vô cùng, cử thế vô song. Tiểu nhân thấy một hình ảnh tương phản với đại vương, đó là vua Triệu Hiếu Thành. Hiếu Thành chẳng qua chỉ là cóc ngồi đáy giếng, chuột trốn trong hang; lại chẳng lượng sức mình, không biết nhìn vào cái gương tầy liếp của trận Trường Bình, hòng dựa vào thành Hàm Đan đơn độc, để chống lại binh hùng tướng mạnh của bệ hạ, há chẳng hóa ra là châu chấu đá voi, trứng chọi với đá, ngớ ngẩn ngu muội, cố chấp nực cười, đó sao?

Lã Bất Vi tùy cơ ứng biến, ý đẹp lời hay, chẳng những che giấu được tiếng cười đắc chí do vô tình buột miệng, lại còn tâng bốc Tần Chiêu Vương lên tận mây xanh, còn Hiếu Thành nước Triệu thì bị đạp xuống bùn đen như ếch nhái chuột bọ, đáng buồn và cũng đáng cười. Tần Chiêu Vương không những không phát hiện ra chỗ sơ hở của Lã Bất Vi, mà còn cho là thật. Quả là ngài đã ngây ngất say sưa trước những lời nịnh hót quá khôn khéo, nên lập tức sai bọn thái giám trọng thưởng cho Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi; riêng Doanh Dị Nhân được ở lại bên xa giá để gần gũi nhà vua; còn Lã Bất Vi thì được tiếp đãi như quan “thượng khanh”; gia đình và đầy tớ của ông đều được ban thưởng; tất cả đều được lưu lại mấy hôm trong doanh trại của đoàn xa giá.

Một ngày trước khi Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và gia đình đi Hàm Dương (Kinh thành của Tần), vua Tần Chiêu Dương còn bày tiệc tiễn chân họ. Trong bữa tiệc, hai bên nói chuyện về tình hình chiến sự, Tần Chiêu Vương bèn hỏi ý kiến Lã Bất Vi:

- Theo bản tấu của tướng Vương Hột, vừa qua vua tôi nước Triệu đã mang cháu ta là Doanh Dị Nhân ra làm sức ép, hòng buộc quân Tần giải vây và giảng hòa. Trẫm và tướng Vương Hột đều nghĩ rằng Doanh Dị Nhân đang làm con tin, sợ ném chuột sẽ vỡ bình, nên không dám tăng cường tấn công, nhưng điều đó đã làm cho vua quan nước Triệu được kéo dài hơi tàn. Nay trẫm muốn ra lệnh cho tướng Vương Hột lại dốc sức tấn công mạnh, nhằm chiếm được Hàm Đan trong một trận. Nhưng hiềm một nỗi không thật hiểu rõ lắm tình hình bố phòng bên trong thành. Tiên sinh ở đó lâu ngày, chắc là nắm chắc tình hình trận địa và sĩ khí của họ, mong tiên sinh giúp ta chỉ giáo để có phương hướng dùng binh, đặng một khi dã khởi sự thì phải nắm chắc phần thắng trong tay.

Lã Bất Vi nay đã đi khỏi Hàm Đan, quyết tâm đưa món “hàng lạ” Doanh Dị Nhân đến nước Tần; từ nay có thể đổi lái thay chèo, bước lên con đường chính lộ. Vì vậy, có thể không phải luyến tiếc tất cả những hậu đãi của vua quan nước Triệu đã ban phát cho mình trong nhiều năm qua, cũng như tình nghĩa sâu nặng với họ. Nghĩ vậy, bèn nói hết tất cả những gì mà ông ta hiểu biết, không hề giấu giếm. Sau cùng còn chỉ rõ:

- Tâu hoàng thượng, nước Triệu nay không còn nắm được Doanh Dị Nhân nữa, cho nên cũng không ảo tưởng việc giảng hòa để giải vây nữa. Vì vậy, họ sẽ liều chết cố thủ. Hơn nữa, họ có thể cầu viện nước khác để liên hợp đánh Tần, nhằm tránh khỏi bị diệt vong. Trước tình hình đó, ta phải dốc toàn lực, không sợ hy sinh, nhằm chiếm Hàm Đan trong thời gian ngắn nhất, quyết chiến thắng nước Triệu.

- Tiên sinh nói rất phải, trẫm sẽ lập tức ra lệnh cho tướng Vương Hột tăng cường tấn công Hàm Đan. Trẫm sẽ tăng viện ở phía sau, phải đảm bảo chỉ đánh một đòn là chiếm được Hàm Đan, tiêu diệt nước Triệu. - Tần Chiêu Vương rất tán thưởng ý kiến của Lã Bất Vi và quyết định ngay kế hoạch tác chiến sắp tới.

Hôm sau, đoàn xe chở Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi và gia quyến cùng với rất nhiều tặng phẩm, đồ đạc, cùng mấy chục binh sĩ hộ tống, kéo nhau ra khỏi doanh trại quân Tần để đi về phía kinh đô Hàm Dương. Mọi người ngồi trên xe đều nhìn thấy ở nước Tần cũng như ở nước Triệu, dọc theo hai bên đường phần lớn ruộng đồng hoang vu, người dân thưa thớt. Trong khi đó thì có từng đoàn người lũ lượt kéo nhau đi trên đường. Họ là tân binh và phu phen do triều đình tuyển mộ để bổ sung quân lực và để phục dịch trong cung đình và nha phủ. Doanh Dị Nhân nhìn thấy cảnh ấy, cảm thấy chua xót trong lòng: chiến tranh đã gây ra biết bao tai hại cho đất nước và cho dân chúng. Đi xa lâu ngày, nay tận mắt nhìn thấy quê hương ảm đạm hoang tàn, chàng thanh niên sắp tròn ba mươi này không khỏi chạnh lòng và đau khổ. Trong khi đó, Lã Bất Vi thì chẳng hề quan tâm đến tình cảnh đó. Ông đang say sưa nghĩ về những thành công do mưu lược của mình và đang mường tượng một tương lai tốt đẹp hơn ở nước Tần.

Sau gần mười ngày đi đường, đoàn xe của Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi về đến Hàm Dương. Doanh Dị Nhân muốn lập tức vào cung để được gặp cha mẹ (nuôi), còn Lã Bất Vi nhất quyết muốn ở tạm tại “dịch quán”. Học trò đành theo thầy. Tối hôm đó, Lã Bất Vi và Doanh Dị Nhân đến quán rượu Tây kinh, nơi mà trước đây Lã Bất Vi đã uống nửa lít rượu trắng hâm nóng và bỏng cả lưỡi, ăn hai đĩa lớn món “tam vị đại bổ” gồm óc bò, cật dê, dương vật ngựa.

Sau khi về dịch quán, tắm nước nóng sạch sẽ xong mới lên giường ngủ, cạnh giường là chậu than hồng dược đun bằng hương liệu, mùi thơm bốc lên ngào ngạt, rất ấm. Doanh Dị Nhân ngủ say lúc nào không biết. Hôm sau, thức dậy Doanh Dị Nhân cảm thấy khỏe khoắn sảng khoái, vội mặc bộ áo da còn mới tinh, chải tóc xong liền sang thức thầy dậy để sửa soạn vào cung sớm. Nào ngờ, khi thấy Doanh Dị Nhân, Lã Bất Vi liền nói ăn mặc như thế không được. Nói đoạn, ông ta lấy trong tủ ra một bộ trang phục nước Sở, gồm mũ nhẹ phương Nam, áo da hươu điểm trắng hoa mai và bó chặt người, giày cổ rộng và hơi cao, dây lưng da. Ông yêu cầu Doanh Dị Nhân mặc vào.

Doanh Dị Nhân có phần nào không hiểu, nên hỏi thầy:

- Học trò là người Tần, sao lại mặc theo kiểu của người Sở?

- Sao không nhớ rằng Hoa Dương phu nhân, người nhận công tử làm con trưởng ấy, chính là con gái yêu của hoàng gia nước Sở, và được gả làm chánh thất cho phụ thân công tử đấy? - Lã Bất Vi trả lời một cách nghiêm nghị.

- Đa tạ thầy đã chỉ bảo cho học trò chu đáo. Học trò quên khuấy mất.

Doanh Dị Nhân chắp hai tay cảm ơn thầy rồi thay trang phục. Sau đó, ngồi xe ngựa đi thẳng đến cửa hậu cung, đưa danh thiếp cho thị vệ xem. Quan thị vệ ở ngoài cung chuyển tấm danh thiếp vào trong, đi qua các cửa: ngoại khuyết, nội cấm, hậu uyển, đông cung, tầng tầng lớp lớp được canh gác cẩn mật, cuối cùng đến tay thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân. Hai người vui mừng khôn xiết, vội đi ra cửa đông cung để đón.

Xe ngựa dừng lại trước cửa hình vòm của tường vây đông cung, Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi xuống xe đi bộ đến cửa đông cung, bước lên tam cấp, đến trước mặt vợ chồng thái tử. Doanh Dị Nhân quỳ xuống, nói rất cung kính:

- Con rất bất hiếu, xa phụ mẫu đã lâu. Hôm nay được trở về cung, mới trọn được đạo làm con, xin phụ mẫu lượng thứ.

- Đã xa cách hai mươi năm, nay mới được về nhà. Con của ta quá gian nan khổ hạnh.

- Đường sá xa xôi, con của ta thật vất vả, nay đã về đây rồi, hãy mau đứng dậy.

Hoa Dương phu nhân và thái tử An Quốc Quân đều ra hiệu cho Doanh Dị Nhân đứng dậy và nói với Lã Bất Vi lúc ấy đang quỳ chào bên cạnh:

- Xin tiên sinh đứng dậy, vào trong nhà nói chuyện.

Khi đã yên vị, Doanh Dị Nhân kể lại tỉ mỉ với thái tử và Hoa Dương phu nhân về việc bị lôi lên đoạn đầu đài, rồi sau đó bị đưa vào nhà tử tù, trói lại chờ chém đầu; sau nhờ Lã Bất Vi và thái tử Đan can thiệp và lập mưu nên vượt ngục thành công, nay mới được sống lại và trở về nước, gặp mặt mẹ cha.

Vợ chồng thái tử quay sang Lã Bất Vi cảm ơn sâu sắc. Hai người nói rằng nhất định sẽ tuân theo chỉ dụ nhà vua, sẽ trọng dụng Lã Bất Vi. Đó vừa là để đền đáp sự quan tâm giúp đỡ của ông đối với Doanh Dị Nhân từ bấy lâu nay. Mặt khác cũng là để cất nhắc và sử dụng trí tuệ của ông, một con người đại tài về chính trị, có đảm lược, rất thức thời, biết ứng biến, giỏi quyết đoán, có tài hùng biện.

Điều làm cho Hoa Dương phu nhân vui mừng nhất là, sau khi mọi người ngồi vào chỗ, bà đưa mắt nhìn qua Doanh Dị Nhân đang ngồi gần bên cạnh, bỗng thấy Doanh Dị Nhân mặc một bộ trang phục nước Sở. Đúng, một bộ trang phục đúng kiểu nước Sở, chỉ dành cho các bậc danh sĩ cao quý. Bà cảm thấy rất quen thuộc thân thiết, bèn mỉm cười và hỏi Doanh Dị Nhân:

- Con ta sao biết ăn mặc như người Sở vậy?

Doanh Dị Nhân vội đứng dậy trả lời nghiêm túc:

- Từ lâu lòng con đã hướng về phu nhân. Từ khi được ban cho ngọc bội, con đã được phu nhân nhận làm con. Nay biết mẹ là con cháu của hoàng gia nước Sở, cho nên ăn mặc trang phục người Sở để tỏ lòng tôn kính ân đức của mẹ.

- Nói hay lắm! Nói hay lắm! Lời nói ấy của con rất hợp lòng ta, cho thấy ta và con rất có duyên phận mẫu tử do trời ban cho. - Bà Hoa Dương vui quá đến nỗi rơm rớm nước mắt.

Thái tử An Quốc Quân mỉm cười và nói:

- May mà ngài Lã Bất Vi có con mắt nhìn người, hiểu được con ta và đã tác thành nhờ đó mới có chuyện mẹ nhận con và con về nước như ngày hôm nay.

- Tất cả đều do thái tử anh minh, phu nhân ân đức và công tử hiền thảo. Tiểu nhân chẳng qua chỉ xâu chỉ luồn kim, dựa vào duyên trời để tác thành (việc của con người) mà thôi. - Lã Bất Vi miệng nói rất khiêm nhường, nhưng trong lòng rất đắc chí, kiêu ngạo.

Tiếp đó là bàn về việc nhận con trưởng thừa tự. Lã Bất Vi nói:

- Con nuôi thừa kế tông miếu là phù hợp tục lệ cổ xưa, dù ở trong triều đình hay ngoài xã tắc, mọi người đều có thể làm như vậy. Nhưng việc nhận con thứ (con của thiếp sinh ra) làm con của chánh thất, và trở thành người kế vị ngôi vua thì chưa từng có. Vì vậy, cần tổ chức buổi lễ long trọng, có thông cáo nghiêm chỉnh. Như vậy mới danh chính ngôn thuận, nội ngoại đều phục.

Vợ chồng thái tử chấp nhận ý kiến đó, đồng ý sẽ tổ chức long trọng lễ thái tử và phu nhân nhận công tử Doanh Dị Nhân làm con trưởng, giống y như lễ sắc phong thái tử trước đây. Khi đang bàn về nghi thức buổi lễ này, Doanh Dị Nhân nêu ý kiến rằng, nên cho mẹ đẻ Hạ Cơ tham dự, nhưng An Quốc Quân phản đối. Ông nói:

- Người thiếp ấy đã phế bỏ từ lâu rồi, quan hệ mẫu tử không còn nữa. Hơn nữa, việc Doanh Dị Nhân làm con nuôi, không có quan hệ gì với mẹ đẻ, cho nên không cần để cho bà ấy dự lễ.

Doanh Dị Nhân là con người đã trải nghiệm nhiều khổ nạn, nên thương cảm sâu sắc với nỗi đau và sự khốn khổ của mẹ đẻ mình, nên quyết tâm nhân cơ hội này cứu giúp và an ủi mẹ. Doanh Dị Nhân quỳ xuống, khẩn cầu:

- Con được nhận làm con trưởng và được thừa tự, đó là ơn đức của phụ mẫu đã ban cho con. Nhưng mẹ đẻ không có con [iv] thì không có ai thờ phụng hương khói sau này. Cây có cội, suối có nguồn, sao nỡ bỏ rơi. Phụng dưỡng cha mẹ là đạo làm con, muôn vạn lần xin được ân chuẩn.

Hoa Dương phu nhân cũng là con người nhân từ khoan hậu nên đã hết sức nói thêm; cuối cùng, thái tử cũng không cố chấp, đồng ý cho Hạ Cơ được dự lễ, nhưng chỉ cho ngồi ở một bên (giống như hiện nay chỉ dự thính). Cách đối xử đó, Doanh Dị Nhân vẫn cảm thấy thiệt thòi cho mẹ đẻ, nhưng Hạ Cơ thì cảm thấy rất vừa lòng. Hơn nữa, điều đó còn làm cho bà cảm thấy “khổ tận cam lai” [v], là bước ngoặt của số phận. Mặc dù cuộc đời chẳng còn dài, song có thể sống những năm còn lại dễ chịu hơn.

Lã Bất Vi là người đã cứu Doanh Dị Nhân thoát nạn, lại chắp nối để trở thành người kế vị thái tử, là ân nhân cứu mạng và là công thần, cho nên, nghiễm nhiên [vi] trở thành người chủ trì buổi lễ. Ông chọn một ngày lành trong “hoàng đạo”, thành lập một đội thị vệ cầm long đao hình quạt sơn son thếp vàng và đội nhạc đi đầu; thái tử An Quốc Quân và Hoa Dương phu nhân ngồi trên xe ngựa chạm rồng đi từ từ; theo sát đó là xe có sơn hoa văn do bốn ngựa kéo chở Doanh Dị Nhân và Lã Bất Vi. Tiếp theo là xe có mui vải thô do hai ngựa kéo chở Hạ Cơ. Xe của một số đại thần công khanh đi sau cùng. Đội xe ngựa của hoàng gia này xuất phát từ hoàng cung, dạo qua các đường trong nội thành Hàm Dương, cuối cùng đến đền thờ họ Doanh (thái miếu) ở phía Đông đô thành. Theo nghi lễ, cúng tế tiên tổ, đầu tiên là thắp nến, nổi trống, dâng vật hy sinh [vii]. Vợ chồng thái tử An Quốc Quân đứng ở hàng trên cùng. Doanh Dị Nhân theo sau. Hạ Cơ là thiếp, nhưng lại là mẹ đẻ, đứng ở bên cạnh. Lã Bất Vi chủ tế. Các đại thần quỳ hai hàng, một bên văn, một bên võ, ở phía dưới tam cấp. Sau khi dâng hương là bái lạy. Lã Bất Vi đọc bài văn tế tổ trong đó nói về việc vợ chồng thái tử An Quốc Quân nhận Doanh Dị Nhân làm con trưởng, thừa tự, và đọc cả thông cáo gửi toàn thiên hạ. Tiếp đó, thái tử An Quốc Quân tuyên đọc:

- Nay Doanh Dị Nhân đã trở thành con trưởng của đông cung, phu nhân Hoa Dương, người chủ sự đông cung, là người nước Sở, nên đổi tên Dị Nhân thành Tử Sở. Từ nay, Tử Sở là người kế vị thái tử.

Tất cả các thành viên hoàng gia và các đại thần đều gập đầu bái lạy, bày tỏ thái độ hoàn toàn ủng hộ và chúc mừng. Hạ Cơ cũng cảm thấy vui mừng vì trút bỏ dược cái nhục lâu nay canh cánh bên lòng vì cái tên Dị Nhân, cái tên được đặt ra có phần nào khinh rẻ.

Qua việc tế tổ và bố cáo thiên hạ, công tử Tử Sở được xác lập làm con trưởng thừa tự của vợ chồng thái tử đông cung [viii]. Lã Bất Vi có công giúp đỡ công tử nên được tôn làm thầy của Tử Sở. Lại còn tham gia góp ý nhiều vào việc quan trọng của thái tử nên có vai trò quan trọng trong triều đình.

Trong và ngoài triều đình đều cho rằng cuộc lễ long trọng vừa qua của hoàng gia, là sự mặc nhiên thừa nhận nết na hiền thục của Hạ Cơ và lòng hiếu thảo của Tử Sở. Nhờ Hoa Dương phu nhân là người nhân đức, sống có tình nghĩa, nên công tử mới trở thành con trưởng thừa tự ngôi thái tử và Hạ Cơ được đồng tình và giúp đỡ để thay đổi cuộc đời. Mặc dù thái tử vẫn ngần ngại và giữ thái độ lạnh nhạt với Hạ Cơ, nhưng cũng để mặc cho bà Hoa Dương và Tử Sở cải thiện thực trạng của Hạ Cơ. Đưa bà ra khỏi cấm cung để đến ở tại cung của các thê thiếp khác. Tại đó, Hạ Cơ có người hầu, và Tử Sở có thể lui tới thăm nom, thể hiện tình mẫu tử và đạo hiếu làm con. Trong một buổi tối, hai mẹ con gặp nhau, Hạ Cơ vuốt tóc con và hát (dịch ý):

Năm nào con đi, ta vào cung cấm.

Nay con vinh hiển đến thăm mẹ già.

Tiếng đàn đã đục, sắc đã tàn phai.

Mẫu tử tình thâm, uẩn khúc lòng ta.

Tử Sở cũng hát để đáp lại, thổ lộ tình yêu thương đối với mẹ đẻ (dịch ý):

Năm nào xa mẹ, con phải ra đi,

Như giun như dế. Nay ngẩng cao đầu.

Ở hiền gặp lành, chữ hiếu cao sâu.

Tình nghĩa mẹ con, đạo trời còn mãi.

Cuộc đời đầy khổ nạn và lòng hiếu thảo đã làm cho Tử Sở trở thành một vị minh quân tương đối nhân hậu, khoan dung thuộc thế hệ quân chủ nhà Tần.

Trong khi đó, tại Hàm Đan, tuy cùng chung một ánh trăng với Hàm Dương, nhưng bầu không khí hoàn toàn khác hẳn. Ở đây chẳng có một chút bình yên nào. Quân Tần thì tấn công dữ dội, quân Triệu liều chết chống trả, thương vong nặng nề, lòng người hoảng loạn. Tướng Lý Đồng nêu ý kiến với thừa tướng Bình Nguyên Quân rằng, trong khi quân dân thì liều chết tử chiến chống quân Tần, hoàng gia và các phủ đệ vẫn ăn chơi xa hoa hưởng lạc, làm sao mà dân chúng có thể phấn khởi tác chiến được! Và đề nghị Bình Nguyên Quân nên đưa người trong gia đình tham chiến, đưa tài sản sung vào quân đội. Như vậy, binh sĩ và dân chúng nhất định sẽ hăng hái, anh dũng diệt địch. Bình Nguyên Quân nghe lời Lý Đồng, đưa vợ con và tất cả gia quyến vào quân đội; đưa toàn bộ tài sản gồm vàng bạc châu báu... dùng vào việc sản xuất vũ khí, trang bị và hậu cần. Lão tướng Liêm Pha nghe tin này vội kêu gọi ba quân đề cao khí thế, xông thẳng vào tập kích quân Tần liên tục mấy ngày liền, đánh cho quân Tần bị thương vong rất lớn, phải rút ra xa ba mươi dặm. Lý Đồng anh dũng tác chiến, luôn luôn đi đầu, làm gương cho binh sĩ, đã hy sinh vẻ vang. Bình Nguyên Quân cho làm tang trọng thể để biểu dương lòng trung nghĩa của ông. Nhờ có tinh thần quyết chiến kiên cường của quân Triệu, nên Hàm Đan tạm thời trụ vững.

Vua quan nước Triệu hiểu rõ rằng lực lượng của mình quá yếu kém xa so với quân Tần, nhưng không thể cứ ngồi chờ chết. Vì vậy, Bình Nguyên Quân viết thư cho em vợ mình là công tử Vô Kỵ nước Ngụy, cầu cứu nước Ngụy đưa quân cứu Triệu. Mặt khác, Bình Nguyên Quân đích thân sang gặp vua Khảo Liệt nước Sở, khẩn cầu vua Sở hợp lực với Triệu đánh lui quân Tần. Khi lựa chọn hai mươi người tùy tùng để cùng đi sang nước Sở, duyệt đi duyệt lại mãi, chỉ chọn được mười chín người. Đang lúc phân vân thì có một môn khách [ix] tên là Mao Toại, xung phong nhận làm nhân viên tùy tùng thứ hai mươi. Bình Nguyên Quân nhận thấy người môn khách này đã ăn ở ở đây ba năm, chưa thấy có biểu hiện gì về tài năng, phân vân không biết Mao Toại có thể đủ “văn thao vũ lược” [x] để đi ra ngoài làm ngoại giao không. Mao Toại nói rằng: “Hôm nay môn đệ mới xin ngài, nếu như ngài sớm bỏ môn đệ vào cái túi da của ngài, thì cái dùi nhọn của môn đệ đã chọc thủng cái túi ấy từ lâu rồi”. Lúc này Bình Nguyên Quân mới tuyển Mao Toại vào đoàn tùy tùng sang Sở xin cứu viện. Đến Sở, trong những ngày chờ đợi vua Sở tiếp, Mao Toại chuyện trò với mọi người về việc làm một sứ giả thì cần có tài trí và sách lược ngoại giao gì, mười chín người kia đều rất bái phục Mao Toại.

Phải khó khăn lắm mới được vua Khảo Liệt cho vào tiếp kiến, nhưng khi Bình Nguyên Quân đưa ra đề nghị “hợp tung” [xi], tức là hợp lại để chống Tần, thì ông vua một nước lớn như nước Sở lại tỏ ra sợ Tần như sợ hổ beo. Ông ta ngồi nghe từ sáng tới trưa, cứ chần chừ do dự, chẳng nói rõ ý định của mình như thế nào. Các sứ giả của Triệu rất bực mình, mười chín người kia nói với Mao Toại rằng, giờ là lúc anh nên ra tay rồi đó. Nghe vậy, Mao Toại bèn đứng dậy, cầm lấy đốc kiếm, bước một bước mấy bậc tam cấp liền, đến hỏi Bình Nguyên Quân rằng, “Hợp tung” là một chủ trương rất rõ ràng, đúng đắn; chỉ vài ba chữ là xác định được, tại sao lùng nhùng mãi đến trưa rồi vẫn chưa đi đến đâu cả?

Vua Khảo Liệt đang lúc rất bí, chưa biết ứng phó thế nào, bèn nhân chuyện này đổ mọi tức giận lên đầu Mao Toại, khiển trách anh ta tìm cách đánh trống lảng. Không chờ Bình Nguyên Quân đứng ra hòa giải, Mao Toại bước gần tới chỗ vua Sở, cầm đốc kiếm giận dữ nói rằng: “Sở dĩ đại vương hét mắng tôi, chẳng qua cũng chỉ là dựa vào cái thế đông người mà thôi. Bây giờ ngài và tôi chỉ cách nhau không đầy mười thước, người nước Sở dù có đông mấy cũng chẳng ăn thua gì, tính mạng của ngài đang nằm trong tay tôi”. Vua Sở sợ hết vía, bèn tỏ ý muốn nghe cao kiến của anh ta.

Thấy vậy, Mao Toại bèn nói: “Ngày xưa vua Thành Thang lấy bảy mươi dặm đất mà làm vua thiên hạ [xii], vua Văn Vương lấy một trăm dặm thì các chư hầu đều thần phục [xiii]. Thế mới biết việc đánh thắng kẻ địch không phải là do người nhiều hay ít, mà là do biết lợi dụng tình thế để phát huy chỗ mạnh của mình. Nước Sở rộng tới năm nghìn dặm, có cả trăm vạn quân lính, thế mà bị Bạch Khởi của Tần dựa một đội quân nhỏ nhoi mấy vạn tên, chỉ đánh một trận mà chiếm được hai thành lớn là Yên và Dĩnh; đánh trận thứ hai thì đốt cháy Di Lăng. Đánh đến trận thứ ba thì chửi mắng tiên vương của các ngài rất thậm tệ. Đó là những lúc mà nước Triệu chúng tôi cảm thấy rất khó chịu, không hề chấp nhận được. Vì vậy, “hợp tung” là vì nước Sở, các ngài không hiểu điều đó, nên chúng tôi phải nói ra, vậy cớ sao ngài lại quở mắng quân chủ chúng tôi?”

Sau khi nghe Mao Toại nghiêm khắc chỉ trích, vua Sở đành phải hứa sẽ đứng ra làm “trưởng liên minh hợp tung” (nguyên văn: “tung ước trưởng”). Tiếp đó, Mao Toại còn ép vua Sở chích máu ăn thề, và sau khi Bình Nguyên Quân chích máu, bản thân anh ta và mười chín tùy tùng đều chích máu ăn thề. Nhờ “hợp tung”, nên nước Sở đã sai Hoàng Yết (Xuân Thân Quân) đem tám vạn quân cứu Triệu. Từ đó câu chuyện “Mao Toại tự tiến” [xiv] trở thành một giai thoại [xv] được lưu truyền mãi về sau.

Sau chuyến đi sang Sở này, Bình Nguyên Quân thu hoạch được rất lớn, vì nhờ có Mao Toại mà thực thi được chiến lược “hợp tung”, được nước Sở giúp đỡ về quân sự. Qua đó, phát hiện Mao Toại trí dũng song toàn, từ đó đã thay đổi kiểu nhìn người chỉ dựa theo vẻ mặt bên ngoài. Tuy nhiên, đạo quân nước Ngụy mà ông tưởng rằng cứ gọi là đến ngay thì chờ mãi chẳng thấy. Bình Nguyên Quân cứ tưởng rằng, mình lấy em gái vua An Ly nước Ngụy, quan hệ gần gũi vậy thì viết vài lá thư là sẽ có viện binh đến giúp. Nhưng sự đời đâu có dễ thế. Vì vua An Ly của Ngụy là một “thiên tử thời bình”, tính tình lại nhu nhược, sau khi nhận được thư của Bình Nguyên Quân, An Ly cũng đã sai đại tướng Tấn Bỉ đưa mười vạn quân đi cứu Triệu. Nhưng sau khi nghe nói nước Triệu đòi hỏi nước đi cứu phải ra thông cáo tấn công trước, An Ly sợ quá, bèn cho kỵ binh chạy suốt một đêm đuổi theo Tấn Bỉ, bảo đóng quân “án binh bất động” tại đất Nghiệp (nay thuộc địa phận tỉnh Hà Nam). Trong khi đó, đạo quân nước Sở do Hoàng Yết chỉ huy cũng thấy chỉ có một mình nước Sở đến giúp Triệu, lực lượng rất mỏng, nên cũng đóng quân dừng lại ở Vũ Quan (nay thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây) để nghe ngóng. Vậy là thành Hàm Đan vẫn chơ vơ nguy ngập!

Công tử Vô Kỵ (Tín Lăng Quân) của nước Ngụy là em trai của vua An Ly, cũng tức là em vợ của Bình Nguyên Quân. Khi Vô Kỵ nhận được bức thư của Bình Nguyên Quân yêu cầu khẩn cấp cứu viện, đã khuyên và đốc thúc anh mình (vua An Ly) sai Tấn Bỉ đưa quân đi giúp Triệu. Nhưng nay Tấn Bỉ phụng chỉ dừng quân, Vô Kỵ cũng đành bó tay. Bình Nguyên Quân sai sứ thần sang Ngụy, xin yết kiến công tử Vô Kỵ theo nghi thức ngoại giao. Sứ thần khẩn thiết cầu cứu, nói rằng sở dĩ Bình Nguyên Quân kết duyên với quý quốc là vì ngưỡng mộ công tử có tình nghĩa cao thượng, sẵn sàng cứu người khỏi cơn nguy nan. Nay nguy cơ của Hàm Đan đang tính từng ngày, vậy mà đạo quân cứu viện của Nguy chẳng thấy đâu, vậy làm sao có thể chứng tỏ công tử Vô Kỵ là người nêu cao đạo nghĩa cứu người hoạn nạn đây? Cho dù công tử có khinh thường Bình Nguyên Quân, bỏ mặc cho quân Tần tàn bạo đánh bại, nhưng chẳng lẽ công tử lại chẳng thương tiếc gì người chị của mình? Tín Lăng Quân (Vô Kỵ) rất đau đớn trong lòng, nhưng cũng rất khó xử. Ông lại liên tiếp khuyên can vua Ngụy. Các thượng khách của hoàng gia và các biện sĩ (thuyết khách) đều phân tích lợi hại và can gián vua Ngụy. Nhưng vua An Ly vẫn không nghe, vì quá sợ nước Tần.

Tín Lăng Quân thấy mình không thể tham sống sợ chết, để mặc cho nước Triệu bị tiêu diệt. Nghĩ vậy, bèn cùng với mấy nghìn môn khách của mình, huy động hơn một trăm cỗ chiến xa, hùng dũng đi cứu Triệu, kề vai sát cánh với Bình Nguyên Quân, huyết chiến đến cùng với quân Tần.

Khi đoàn quân của Tín Lăng Quân đi qua Di Môn, gặp Hầu Doanh là quan canh cửa Di Môn. Tín Lăng Quân vốn rất thân thiết với Hầu Doanh nên đã nói cho ông này biết mình sắp đi tử chiến với quân Tần, và lần này là từ biệt Hầu Doanh. Nghe vậy, Hầu Doanh nói rằng: “Xin Tín Lăng Quân hãy tự lo liệu lấy, tôi đã cao tuổi rồi, không thể đi theo Tín Lăng Quân được nữa”.

Tín Lăng Quân đưa đoàn quân đi được mấy dặm, trong lòng rất buồn, tự than thân trách phận rằng mình đối xử với Hầu Doanh rất tốt, cả nước ai cũng biết; vậy mà nay mình sắp tử chiến nơi xa trường, ông lại không nói với mình một lời từ biệt, chẳng phải là lúc bình thường mình có điều gì không phải với ông? Nghĩ vậy, Tín Lăng Quân quay lại hỏi Hầu Doanh cho ra nhẽ. Hầu Doanh cười, nói: “Tôi đoán rằng công tử hẳn sẽ quay lại. Thưa công tử Vô Kỵ, đức khiêm nhường của ngài đối với các bậc hiền tài, học sĩ, là tiếng thơm mà toàn thiên hạ đều biết. Nay có người gặp tai họa, ngài đi liều chết với quân Tần, khác nào đem mồi cho hổ dữ, chẳng phải là uổng công vô ích đó sao? Nhưng ngài vẫn đến từ biệt lão phu này, ngài thật là rất tốt với lão phu, nhưng lão phu lại không tiễn chân ngài vài bước, lão phu biết rằng ngài sẽ tức giận và nhất định sẽ quay lại”.

Công tử Vô Kỵ một lần nữa xin lỗi và xin Hầu Doanh chỉ giáo. Hầu Doanh vội đưa Vô Kỵ đi riêng ra một chỗ và nói nhỏ với ông: “Lão phu biết cái “hổ phù” do tướng Tấn Bỉ dùng để chỉ huy quân đội, có một nửa được cất giấu trong phòng ngủ của vua An Ly, và Như Cơ là vợ yêu của ngài, được tự do ra vào phòng ấy, Như Cơ nhất định có thể lấy được tấm hổ phù [xvi] ấy”.

Công tử Vô Kỵ cho rằng đây là một biện pháp hay, nhưng lo rằng liệu Như Cơ có gan làm chuyện đó hay không? Hầu Doanh nói kiên quyết rằng: “Cha Như Cơ bị người ta giết chết, Như Cơ dành dụm trong ba năm được một số tiền lớn, đem số tiền đó nhờ các hoàng thân và dũng sĩ của vua Ngụy trả thù cho cha, nhưng không thành. Như Cơ từng khóc lóc kêu van ngài, nên ngài đã cử môn khách của mình chặt đầu kẻ giết người và giao cho Như Cơ. Vì vậy, Như Cơ nhất định phải trả cái ơn đó của ngài. Chắc chắn là Như Cơ không bao giờ chối từ, chẳng qua là chưa có dịp nào mà thôi. Nay nếu ngài khẩn khoản yêu cầu Như Cơ, chắc chắn sẽ được đền đáp. Nhất định sẽ lấy trộm được tấm hổ phù đó và dùng nó để nắm lấy quyền chỉ huy quân đội từ tay Tấn Bỉ. Ngài sẽ giương cao ngọn cờ cứu viện nước Triệu, đánh bại quân Tần, lập nên chiến công hiển hách kém gì Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công trong năm cường quốc xưng bá thời Xuân Thu vậy”.

Quả đúng là Như Cơ không bao giờ quên ơn công tử Vô Kỵ đã trả thù cho cha mình. Nàng khắc cốt ghi tâm việc làm nhân nghĩa đó của Vô Kỵ và luôn luôn nghĩ rằng mình phải đền ơn báo đáp. Vì vậy, khi thấy Vô Kỵ đến nhờ cậy, Như Cơ lập tức nhận lời, nói rằng sẽ liều mình lấy cho được hổ phù, dù phải đắc tội đại hình, chỉ nhằm giúp Tín Lăng Quân giành được quyền chỉ huy quân lính, cấp tốc cứu viện nước Triệu.

Lịch sử ghi chép rằng, lúc bấy giờ là vào thời kỳ cuối của thời Đông Chu, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, chiến tranh liên miên. Vì vậy các vua chúa phải luôn luôn cảnh giác, lúc nào cũng lo nghĩ về chiến sự, đến nỗi phòng ngủ của nhà vua biến thành nơi cơ mật để bàn về việc quân. Những hiện vật cơ mật nhất như thông điệp chiến tranh, binh phù (hổ phù)... đều được cất giấu ở đó. Như Cơ là ái phi rất được vua An Ly chiều chuộng, được tự do ra vào phòng ngủ của vua, nhưng ngoài việc mua vui cho nhà vua, Như Cơ chưa bao giờ dám để ý hoặc dòm ngó đến các văn bản tấu trình, chưa hề biết cái hổ phù kinh khủng ấy để ở đâu, cho nên không dám làm bừa, trong lòng rất lo lắng. Sau khi suy nghĩ rất kỹ, Như Cơ quyết định chia làm hai bước, bước thứ nhất là tìm cho ra chỗ cất hổ phù, sau đó là tìm cách lấy cho được tấm hổ phù đó một cách kín đáo nhất.

Vào giờ Tỵ [xvii] ngày hôm sau, vua An Ly vừa dùng cơm sáng xong, đang phê duyệt các bản tấu, bỗng thấy Như Cơ bước nhanh vào phòng, vẻ mặt lo lắng điều gì, nhà vua liền hỏi, giọng rất thông cảm:

- Sao ái phi ăn mặc xộc xệch như vậy và lại gấp gáp như thế?

- Thưa, sáng nay thần thiếp chải tóc, bỗng thấy mất bông hoa cài tóc bằng ngọc xanh có hoa văn màu hồng, nhân trắng, thần thiếp tìm mãi khắp nơi không thấy, nên vội đến xem có quên ở đây hay không? - Như Cơ bẩm tấu vua Ngụy, với vẻ rất cung kính nhưng rất sốt ruột.

Vua Ngụy rất lơ đãng, chẳng coi chuyện đó là gì, chỉ nói với Như Cơ:

- Cái bông hoa bé xíu ấy đáng giá bao nhiêu, mất rồi thì thôi, ta sẽ cho một cái khác là được chứ gì?

Như Cơ nói rất nghiêm nghị:

- Được đại vương rộng lòng như thế, thiếp chẳng bõ công đi tìm nữa, nhưng vẫn rất tiếc vì đó là viên ngọc có ba sắc: xanh, hồng và trắng, bây giờ rất hiếm. Hơn nữa, bông ngọc cài tóc ấy là của đại vương ban cho thiếp để làm “vật tín hiệu” (“tín vật”), nay để mất, chẳng phải đã phụ lòng ân sủng của đại vương đó sao? Vì vậy, cho dù đại vương quên nó đi, thần thiếp cũng phải tìm cho ra, để tỏ lòng tôn kính và yêu quý đại vương!

Vua An Ly thấy Như Cơ kính trọng và gắn bó với mình như vậy, cảm thấy vui sướng lắm, bèn xua tay nói:

- Ái phi đã chung tình với viên ngọc đó như vậy, thôi thì cứ tìm đi?

Một lần nữa Như Cơ bái lạy vua Ngụy, sau đó, bắt đầu tìm kiếm, từ giường của vua, đến mấy cái bàn, giá sách. Vừa tìm vừa lẩm bẩm rằng, hôm trước ngồi ở đây để hầu đại vương, sau đại vương sai đi lấy văn bản cho người, rồi rót rượu dâng rượu, đến khuya mới lên giường hầu vui, không biết bông hoa ngọc ấy rơi lúc nào ở đâu, thật khó quá! Vua Ngụy cười nàng cứ hay tự trách mình làm gì, chỉ cần cố gắng kiên nhẫn một chút là được. Nói xong cúi gầm xuống xem các văn bản tấu trình, chẳng thèm để ý đến gì nữa.

Như Cơ thấy An Ly không hề nghi ngờ mình, và cũng không chút phòng ngừa, bèn lật xem rất kỹ những văn bản cơ mật được xếp trên giá sách, lật mãi mới thấy tấm “hổ phù” nằm kẹp trong một tập khâm mệnh thánh chỉ. Vừa vui vừa sợ, Như Cơ thấy lúc này là lúc phải hết sức thận trọng, bèn quay lưng về phía vua Ngụy để che khuất tầm nhìn của ông, một tay khẽ nâng tập văn bản bằng tre lên, một tay rút nhanh tấm hổ phù ra. Khi nàng đút nhanh tấm hổ phù ấy vào ống tay áo, không ngờ làm quá gấp nên chạm vào tập văn bản vừa mới đặt vào chỗ cũ gây nên tiếng kêu lắc rắc, lắc rắc, rồi mấy bản rơi xuống. Vua An Ly nghe thấy tiếng động bỗng quay mặt đưa mắt liếc nhìn và hỏi:

- Thế nào, nàng tìm đến cả tập văn bản cơ mật đó sao?

Như Cơ giật mình kinh hãi, nhưng đã nhanh trí rút ngay ở trong ống áo ra một bông hoa cài tóc khác, cũng bằng ngọc, được dự phòng từ trước để dùng lúc cần, vừa mỉm cười vừa nói:

- Thật là nhiêu khê, thiếp đã tìm thấy cái “vật làm tín hiệu” do đại vương ban cho ở chính chỗ này. Ở hiền gặp lành mà [xviii].

Vua Ngụy có chút khó hiểu, bèn hỏi:

- Bông hoa ngọc ấy cài trên mái tóc của nàng, lẽ ra sẽ rơi xuống giường khi hai ta quyện vào nhau, sao lại nằm ở chỗ ấy?

- Có thể là trước khi lên giường, lúc hầu đại vương xem các bản tấu, thiếp có đến lấy các văn bản ở đây, vì không cẩn thận nên để rơi nó ở đây. Thế mà cứ tìm kiếm mãi, may mà ông trời phù hộ, nên mới không phụ ơn thánh thượng.

Trong lúc nguy cấp, con người ta thường nảy ra sáng kiến. Như Cơ đã đáp lại, nói cứ trơn tru như cháo chảy, lại rất có lý có tình. Sau đó, liền cúi nhặt những văn bản rơi xuống đất, đặt vào chỗ cũ, rồi rút một văn bản ở một chồng khác, đút vào chỗ của cái “hổ phù”, lấp chỗ trống, xóa mọi dấu vết!

Vua Ngụy thấy Như Cơ đã tìm được báu vật, công việc xét duyệt các văn bản cũng tàm tạm, bèn gọi Như Cơ lại để chung vui chăn gối. Lúc ấy, Như Cơ đã lấy được hổ phù, chỉ muốn chạy thật nhanh đến đưa cho ân nhân của mình là công tử Vô Kỵ, nhưng An Ly nhất thiết muốn giữ nàng lại. Như Cơ phải tìm cách thoái thác:

- Nay của đánh mất đã tìm lại được, thiếp phải sửa sang lại quần áo và trang điểm để hầu đại vương cho thật chu đáo. Xin cho phép thần thiếp được về phòng chút xíu rồi quay lại cũng còn kịp ạ.

Chẳng ngờ vua Ngụy có vẻ như không thể chờ đợi được nữa, cầm lấy tay Như Cơ, vừa mỉm cười vừa nói:

- Nàng có khác gì Tây Thi, trúc xinh trúc đứng đầu đình cũng xinh [xix], thôi, khỏi phải trang điểm gì nữa!

Như Cơ rất sợ, nếu cứ dùng dằng mãi sẽ để lộ vết tích, nên đành phải ở lại, nhưng tương kế tựu kế, nàng chỉ ngồi xuống cùng hầu cơm trưa với nhà vua. Trong khi ăn, nàng chúc rượu liên tục, dâng đồ nhắm, cười đùa vui vẻ để làm đẹp lòng nhà vua. Vua An Ly không từ chối bất cứ một ly rượu nào do người đẹp dâng lên tận miệng nên say mềm. Lúc này, Như Cơ bèn gọi bọn hoạn quan và cung phi đến, vực nhà vua lên giường và căn dặn bọn họ phải hết sức săn sóc thánh thượng. Sau đó đi về ngay phòng mình. Theo lời hẹn riêng từ hôm qua, Tín Lăng Quân đã chờ ở đây từ lâu, với lý do đến để nhờ “ái thiếp” của nhà vua đưa một bản tấu trình. Khi thấy Như Cơ quay về, Tín Lăng Quân vội bước lên chào, giả vờ hỏi rằng có thể xin gặp đại vương được hay không. Như Cơ biết ý, bèn đáp rất tự nhiên rằng thánh thượng đã choáng hơi men nên đang ngủ say, có việc gì gấp xin chờ buổi chầu sáng mai sẽ dâng bản tấu. Trong lúc đang nói, thì rút nhanh “hổ phù” từ trong ống tay áo và đưa cho Tín Lăng Quân. Tín Lăng Quân đã có chuẩn bị từ trước, chỉ trong nháy mắt nhận ngay lấy hổ phù rồi cúi đầu lui nhanh ra ngoài.

Khi ra khỏi cung, Tín Lăng Quân phi ngựa theo hướng đã định. Lúc này, Tín Lăng Quân nhớ Hầu Doanh có dặn rằng các tướng lĩnh chỉ huy ngoài mặt trận có thể không theo lệnh quan. Nay dù đưa hai mảnh hổ phù ra đối chiếu khớp nhau, nhưng ngộ nhỡ Tấn Bỉ không chịu trao lại binh quyền, hơn nữa, có thể ông ta lại tấu xin ý kiến chỉ dụ của nhà vua, thì sự việc sẽ bại lộ. Nhưng Hầu Doanh đã giới thiệu cho Vô Kỵ một lực sĩ tên là Chu Hợi. Chu Hợi sẽ đi theo Vô Ky. Nếu Tấn Bỉ trao lại quyền binh thì tốt. Nếu không trao, Chu Hợi sẽ giáng cho ông ta một chùy chết tươi. Không ngờ công tử Vô Kỵ khóc nức nở! Hầu Doanh tưởng công tử sắp vào trận, sợ chết nên khóc. Nhưng công tử nói:

- Tấn Bỉ là một lão tướng nóng nảy hay cáu; tôi nghĩ rằng ông ta sẽ không nghe tôi, như vậy không thể không giết ông ta. Mà giết thì rất đáng thương, tôi thương khóc ông ta.

Chu Hợi nói với công tử:

- Tôi chỉ là một người làm nghề đồ tể kiếm sống. Ngài đã từng đến chỗ tôi mua thịt nhiều lần, ngài tỏ ra rất tốt đối với tôi, làm cho tôi rất cảm kích, tôi cứ nghĩ rằng nếu tôi có đền đáp thì cũng là việc quá nhỏ bé, chẳng có giá trị gì. Nay công tử có việc khẩn cấp, đó chính là lúc mà tôi có thể đền đáp lại ngài.

Công tử Vô Kỵ bèn dắt tay Chu Hợi cảm ơn Hầu Doanh. Hầu Doanh nói:

- Lẽ ra tôi phải đi theo công tử, nhưng tôi đã già rồi, không thể đi được nữa. Tôi ở đây sẽ tính toán thời gian của công tử, khi nào công tử đến bản doanh của Tấn Bỉ, tôi sẽ quay nhìn về hướng Bắc và tự kết liễu đời mình bằng lưỡi kiếm này, để đền đáp lại sự đối xử rất tốt của công tử đối với tôi.

Sau khi chào Hầu Doanh, Vô Kỵ cho ngựa chạy nhanh về hướng Nghiệp Hạ, gặp Tấn Bỉ. Vô Kỵ tay cầm hổ phù, miệng giả truyền chỉ dụ của vua Triệu: tước bỏ binh quyền của Tấn Bỉ. Tấn Bỉ đón lấy hổ phù, ghép hai mảnh với nhau, nhìn kỹ trên dưới phải trái mặt trước mặt sau (hổ phù thời cổ thường làm bằng một mảnh tre dày đặc, lớn. Một đầu có khắc đầu con hổ. Phía dưới đầu con hổ, khắc lệnh của nhà vua trao quyền chỉ huy quân đội. Sau đó, chẻ làm đôi, hai miếng cân nhau. Khi giao quyền cho ai, nhà vua và người được giao quyền, mỗi bên giữ một nửa. Lúc cần thiết, có thể đem hai mảnh ghép lại, nếu khít là thật, không khít là giả (nguyên văn: “hợp” là thật, không “hợp” là giả. Chúng tôi dịch “hợp” là khít. Vì vậy, có câu thành ngữ “nhược hợp phù tiết” [xx] có nghĩa là các bằng chứng rất hợp với nhau không hề có sai sót. Trạng từ “phù hợp” hiện đại, cũng xuất xứ từ đó).

Lúc ấy, Tấn Bỉ áp hai nửa hổ phù vào nhau, thấy rất ]à khít, nhưng cho rằng hổ phù là thật, còn người cầm hổ phù là giả. Nghĩ vậy, Tấn Bỉ chỉ tay vào công tử Vô Kỵ nói rằng:

- Tôi dẫn mười vạn quân chốt giữ ở biên cương, đó là trọng trách của đất nước trao cho. Nay chỉ căn cứ vào mấy cỗ xe này của ngài để thay thế tôi, đó là việc gì vậy?

Tấn Bỉ kiên quyết không trao binh quyền. Thấy vậy, Chu Hợi rút cái chùy lớn nặng bốn mươi cân (20kg) ở trong ống tay áo ra, đánh một đòn khiến Tấn Bỉ chết tươi. Công tử Vô Kỵ giơ cao hổ phù, nói lớn:

- Tấn Bỉ chống lại lệnh vua nên phải xử tội chết. - Rồi ông nói với ba quân [xxi]: - Ai có cha và con ở trong quân đội thì cha được về nhà. Anh em ở trong quân đội thì anh được về nhà. Ai là con một, cũng được về để phụng dưỡng cha mẹ.

Mệnh lệnh đó được ba quân hết sức ủng hộ. Công tử Vô Kỵ lựa chọn tám vạn tinh binh, đều là những binh sĩ có tinh thần tác chiến cao, quyết tâm chống lại quân Tần.

Lúc ấy, tại thành Hàm Đan của nước Triệu, quân Tần đã tấn công lâu ngày, binh sĩ hết sức mệt mỏi. Quân tiếp viện của Vô Kỵ đến ứng cứu rất đột ngột, mau lẹ, khiến cho quân Tần trở tay không kịp. Trong khi đó, Bình Nguyên Quân và lão tướng Liêm Pha của Triệu từ trong thành đánh mạnh ra. Quân Tần bị đánh từ hai phía, thất bại thảm hại, thương vong hơn một nửa. Vua Tần Chiêu Vương buộc phải hạ lệnh rút quân. Đến đây, thành Hàm Đan được giải phóng sau bốn năm bị vây hãm. Lúc ấy, một đơn vị hai vạn quân Tần do tướng Trịnh An Bình chỉ huy đến cứu viện, cũng bị quân Ngụy cắt đứt đường rút lui, nên tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng phải đầu hàng.

Trận Hàm Đan này được kết thúc bằng thất bại thảm hại rất hiếm thấy của quân đội nhà Tần thường vỗ ngực là “đội quân luôn luôn chiến thắng” (“thường thắng quân”). Điều quyết định thắng bại của trận đánh là do Như Cơ “trộm hổ phù cứu nước Triệu” [xxii]. Câu chuyện này trở thành giai thoại truyền tụng ngàn đời.

Chú thích:

[i] Tức là giải thoát được Doanh Dị Nhân và sắp đến được doanh trại quân Tần rồi - ND.

[ii] Hiền tôn: cháu ngoan - ND.

[iii] "Tổ vương": "vua - ông nội" (phụ vương: vua cha). "ân sủng": ân là ơn, ơn huệ, ban ơn. Sủng là yêu chuộng, chiều chuộng, yêu quý nhất nhà - ND.

[iv] Không được coi con là con - ND.

[v] Khổ cùng cực rồi thì ngọt bùi phải đến - ND.

[vi] Nguyên văn: việc đáng làm là bắt tay vào làm, không để ai làm - ND.

[vii] Ba loại gia súc dùng để tế: dê, bò, lợn - ND.

[viii] Đông cung là nơi thái tử ở; và đông cung cũng có nghĩa là thái tử. Cũng có trường hợp, đông cung là nơi ở của thái hậu, và đông cung là thái hậu. Ở sách này, đông cung là thái tử, hoặc nhà ở của thái tử - ND.