← Quay lại trang sách

HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU ĐẠI TRẠCH DẤY BINH; TRẦN, NGÔ KHỞI NGHĨA-HÀM DƯƠNG ỤP ĐỔ, SỞ HÁN TRANH HÙNG---------

Thủy Hoàng mấy lần đi tuần thú, những nơi đã đến đều phải dựng bia lập truyện, khắc bia viết văn ca ngợi công đức của nhà vua, thẩy đều nói rằng “lê dân yên ổn, không dùng binh đao”, “người người yên vui, không lo họa chiến tranh”. Những lời lẽ ấy phản ánh tâm nguyện chung của nhân dân là chán ghét chiến tranh, yêu quý hòa bình. Bài “Quá Tần luận” của Giả Nghị, từng được tiên sinh Lỗ Tấn ca ngợi là “Tây Hán hùng văn”, có nói đến việc vào thời kỳ đầu Tần Thủy Hoàng tiêu diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ “dân không ai không khiêm nhường, không ngưỡng vọng nhà vua”, đã thể hiện nguyện ước ban đầu của nhân dân là hoan nghênh chấm dứt chiến tranh, ủng hộ nước Tần thống nhất thiên hạ. Nhưng Thủy Hoàng xa hoa cực độ, tàn hại muôn vật, hoang phí của cải, hình phạt tàn bạo, nhất là sử dụng quá đáng sức dân, thuế má, lao dịch nặng nề đã đẩy nhân dân đến bước đường cùng. Ngoài việc vũ trang khởi nghĩa, nhân dân không còn lối thoát nào khác, đó gọi là “Quan bức dân phản”. Ngay vào năm Thủy Hoàng chết tha phương ở Sa Khâu, Hồ Hợi tiếm ngôi xưng đế, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa nông dân đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh tụ quân khởi nghĩa là Trần Thắng, Ngô Quảng người nước Sở. Trần Thắng là người Dương Thành (vùng Nhữ Nam Hà Nam), còn nhỏ tuổi đã phải làm thuê cho đại địa chủ, năm ba mươi tuổi tức là năm Thủy Hoàng ba mươi tư (213 trước Công nguyên) bị gọi đi lính canh gác đoạn Ngư Dương của Trường thành, chơi rất thân với Ngô Quảng, người đồng hương kém mình mười tuổi.

Tháng bảy năm Nhị Thế nguyên niên (209 trước Công nguyên), Trần, Ngô, phụng mệnh tới vùng nước Lỗ, nước Sở cũ đón tân binh về Ngư Dương canh giữ biên cương.

Hai người tiếp đón tất cả hơn chín trăm lính mới, đến xã Đại Trạch huyện Túc nước Sở cũ (nay là An Huy) chuẩn bị chỉnh đốn nghỉ ngơi chút ít rồi lên đường về Ngư Dương. Nào ngờ tối hôm ấy mưa rất to, liên tục bảy ngày bảy đêm không tạnh, khắp nơi nước sâu mấy thước, cả một vùng mênh mông, không tài nào đi được. Trần, Ngô đều là tất trưởng là đầu mục chỉ huy lính mới. Cả hai người thấy mưa mãi không tạnh, không thể nào lên đường được, bụng nghĩ tiếp tục lỡ việc thế này thì dứt khoát không về đúng hạn được, mà lỡ hạn thì phải “chém đầu theo luật”. Trần, Ngô bèn mưu tính với nhau, nếu về lỡ hạn mà bị chém đầu thì chi bằng trốn đi là hơn, nhưng nghĩ lại chạy trốn mà bị bắt sẽ lập tức bị “xử tội tại chỗ”, cũng đến mất mạng thôi. Chẳng tìm ra được kế sách nào nữa, Trần Thắng bèn hầm hầm nói, đã không còn lối thoát, vô kế khả thi, ngồi mà chờ chết thì chi bằng đứng lên tạo phản, tự lập làm vua! Ngô Quảng có phần do dự, cho rằng mình chỉ huy một tốt trưởng quèn nơi biên ải, không đủ sức kêu gọi binh lính, nếu chẳng có ai hưởng ứng thì hóa ra để lộ thân phận, chuốc lấy cái họa mất đầu, tự tìm lấy cái chết. Trần Thắng suy tính hồi lâu, chợt nghĩ ra, bèn bí mật mách kế cho Ngô Quảng. Trần Thắng nói rằng theo quy định của triều đình và hoàng tộc thì Nhị Thế Hồ Hợi là con nhỏ của Thủy Hoàng, không đến lượt kế vị làm vua, hắn đã cấu kết với Triệu Cao, Lý Tư, giả mạo di chiếu, giết trưởng công tử Phù Tô để tiếm ngôi. Cũng may thiên hạ vẫn chưa biết Phù Tô đã chết. Còn đại tướng Hạng Yên nước Sở tuy đã chết trận, nhưng dân nước Sở vẫn thương nhớ ông, vẫn hy vọng ông chưa chết, đang còn ẩn náu ở nơi nào, chờ có thời cơ là đứng dậy chống Tần, vì thế có thể mạo xưng là quân đội của Công tử Phù Tô và Hạng Yên dựng cờ chống Tần, kêu gọi thiên hạ, dứt khoát sẽ có nhiều người hưởng ứng.

Ngô Quảng nghe xong, tán thành ý kiến của Trần Thắng, lập tức đi tìm thầy đồng bói quẻ. Thầy đồng đã hiểu rõ tình ý mưu đồ của hai người, liền lên giọng giải lời quẻ, nói rằng nếu muốn thành sự thì trước hết phải có uy tín trong dân chúng rồi mở rộng ảnh hưởng. Trần, Ngô liền lấy mực đan chu viết ba chữ “Trần Thắng Vương” lên mảnh lụa nhét vào bụng cá của ngư dân. Khi quân lính mua cá về làm cơm, phát hiện ra tấm lụa trong bụng cá. Lại nữa, mấy đêm liền, phía từ đường nơi Ngô Quảng ở, người ta nhìn thấy những ánh lửa chập chờn mà nghe thấy tiếng hú như tiếng hồ ly: “Đại Sở hưng, Trần Thắng Vương!”. Những chuyện này lan truyền nhanh chóng trong binh lính.

Ngô Quảng xưa nay rất tốt với mọi người, được binh lính yêu mến ủng hộ, luôn luôn nghe theo sự chỉ huy của ông. Ông liền lợi dụng ảnh hưởng này, khích lệ sĩ tốt cướp lấy quyền chỉ huy của cấp trên. Một hôm, các đô úy tới đôn đốc việc, gọi lính uống rượu say dậy, Ngô Quảng nhiều lần cố tình nói là sẽ bỏ trốn, và tức tối chửi bới các đô úy để gây sự. Quả nhiên một đô úy giận dữ lấy roi vụt Ngô Quảng và rút gươm đâm; Ngô Quảng đã đề phòng sẵn tránh được và giằng lấy gươm giết luôn tên đô úy ấy. Trần Thắng cũng khoa đao chém chết liền hai đô úy khác. Hai người triệu tập tất cả đám tân binh mới tuyển lại, nói cho họ biết việc quá hạn và bỏ trốn đều không thoát khỏi chết, chỉ còn một lối thoát duy nhất là khởi nghĩa chống Tần. Sĩ tốt đều nhất trí ủng hộ. Thế là Trần Thắng, Ngô Quảng giả danh là người của Công tử Phù Tô và tướng Hạng Yên tuyên bố chống Tần là việc làm đại nghĩa hợp ý trời, thuận lòng dân, và xưng là “Đại Sở” Họ lập đàn uống máu ăn thề, lấy thủ cấp đô úy tế cờ, dấy binh khởi nghĩa.

Khởi nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng là do bị bức bách phải đứng lên liều mạng, do đó thiếu mưu lược và kế hoạch chu đáo. Nhưng nghĩa cử này phù hợp và khích lệ được tâm lý chống Tần của nhân dân các nước chư hầu cũ, cho nên vừa mới khởi sự đã được hưởng ứng rộng rãi và mạnh mẽ. Dân chúng nô nức kéo đến dưới ngọn cờ “Đại Sở”, nhanh chóng gom góp được sáu bảy trăm chiến xa, hơn một nghìn kỵ binh, mấy vạn bộ binh, đánh chiếm ngay được Trần quận (nay là Hoài Dương Hà Nam). Trần Thắng chính thức lên ngôi vua, phong Ngô Quảng làm phó vương, định quốc hiệu là “Trương Sở”. Ông sai các bộ tướng tiến đánh ra chung quanh, mở rộng lãnh thổ. Ngô Quảng làm soái, chỉ huy quân tiến sang phía Tây tấn công Tần. Trước diễn biến tình hình đáng mừng này, không những di thần, tướng sĩ, binh lính của sáu nước cũ lũ lượt kéo đến quy thuận, mà ngay cả Khổng Phụ cháu tám đời của Khổng Tử sống ẩn náu ở Triệu Lăng, cũng tìm đến theo Trần, Ngô, làm quan tiến sĩ, để thực hiện nguyện vọng chống Tần khôi phục Lỗ.

Song, các tướng sĩ xuất chinh để mở rộng lãnh thổ ra các hướng cũng như các bộ tướng còn lại của sáu nước như Vũ Thần, Điền Đam, Hàn Quảng, Ngụy Cửu, Cảnh Câu… đều xuất phát từ mục đích giành quyền binh, quân đội, phục quốc, nên đã đua nhau khôi phục các quốc hiệu Triệu, Tề, Yên, Ngụy, Sở, ra sức thu vén cho riêng mình, chèn ép kiềm chế và công kích lẫn nhau chứ không hợp lực đánh Tần. Phó vương Ngô Quảng bị bộ tướng Chu Thị ganh ghét giết chết, quân lính lại bị quân Tần đánh cho tan tác, khiến Trần Thắng mất đi chỗ dựa đắc lực. Quân khởi nghĩa do đích thân Trần Thắng thống lĩnh thì thiếu kiến thức cầm quân và kinh nghiệm chiến đấu. Chỉ có một mình Châu Chương, đã từng làm “Thị nhật” tính toán giờ lành giờ dữ trong quân của Hạng Yên - tướng nước Sở, là “tướng tài” độc nhất. Trần Thắng liền giao cho ông ấn tướng, lệnh cho ông đem quân đánh chiếm Hàm Cốc Quan. Dọc đường Châu Chương thu gom được mười vạn binh lính, một nghìn chiến xa, đánh vào Hàm Cốc Quan. Tướng Tần là Chương Hàm chỉ huy năm mươi vạn quân ô hợp đón đánh Châu Chương. Quân Châu Chương thua to ở Hý Thủy, tiếp đó lại đại bại ở Miến Trì (nay là huyện Miến Trì, Hà Nam). Châu Chương tự sát chết.

Quân Trần Thắng đơn độc bị vây hãm ở Trần quận. Trần Thắng tính tình hung bạo, tàn sát bộ tướng, để mất lòng quân, hơn nữa từ sau khi là Sở Vương đã biến chất mất gốc, quên hết bạn bè cũ. Một hôm, có mấy người bạn chơi với nhau lúc còn hoạn nạn trước kia đến thăm, trong lúc ăn uống nói tới những chuyện hãi hùng trước đây, Trần Thắng không những không trân trọng tình bạn hoạn nạn có nhau ấy, lại cho rằng làm bẽ mặt mình, đã giết luôn mấy người bạn ấy. Những người khác thấy vậy rất sợ, vội vã tìm cách bỏ rơi ông. Ông ta còn ngạo mạn vô lễ với cả bố vợ, bố vợ cũng tức giận bỏ đi. Thuộc hạ thấy ông ta vong ơn bội nghĩa như vậy đều lần lượt rời bỏ, tiến sĩ Khổng Phụ cũng đau lòng ra đi. Khi mấy chục vạn quân của Chương Hàm, Tử Mã Hân, Đổng Ế tiến đến đánh thành, Trần Thắng gắng sức ứng chiến, nhưng cuối cùng không thể chống lại nổi, đành phải tháo chạy, nhưng lại bị chính kẻ bảo vệ thân tín của mình là Trang Giả giết, đem thủ cấp ra đầu hàng quân Tần.

Trần Thắng, Ngô Quảng phất cờ khởi nghĩa từ xã Đại Trạch, thành lập chính quyền “Trương Sở”. Kể từ lúc dấy quân chống Tần tới thất bại cuối cùng chỉ kéo dài sáu tháng, nhưng làn sóng chống Tần dấy lên từ đó, cuối cùng đã phá tan nền thống trị bá quyền của nhà Tần. Vai trò chủ đạo và quyết định trong đó là Lưu Bang.

Khi ấy ở huyện Bái đất Sở (nay ở Giang Tô) có một đình trưởng tên là Lưu Bang, tướng mạo khác thường: sống mũi cao, mắt sáng như thần, đùi trái có 72 nốt ruồi đen, lấm tấm như sao trên trời. Tính thích giao du bạn bè, hào phóng, rộng lượng, không chấp nhặt vặt vãnh. Năm Thủy Hoàng thứ hai mươi bảy, Thủy Hoàng lần đầu tiên đi tuần thú, gặp lúc Lưu Bang dẫn một tốp phu lao dịch đến Hàm Dương. Đang khi ăn uống ở tửu lầu Tây Kinh, nhìn thấy cảnh hùng tráng uy nghiêm của đoàn xa mã Thủy Hoàng rầm rộ đi qua, Lưu Bang bất giác cảm khoái nói: “Ôi! Bậc đại trượng phu phải như thế mới được!”. Về sau, Lưu Bang lại một lần nữa áp giải phu lao dịch huyện Bái đi xây lăng mộ ở Lệ Sơn, dọc đường mọi người theo nhau bỏ trốn. Khi tới Phong Tây ngủ lại, ông cởi hết dây trói cho phu phen và bảo mọi người: “Các anh cứ trốn hết đi, tôi cũng trốn nốt là xong”. Tất cả đều cảm tạ Lưu Bang, trong đó có mười mấy tráng sĩ không muốn rời ông, liền cùng ông trốn vào rừng sâu ẩn náu. Một lần Lưu Bang uống rượu say, đang đêm phải qua một vùng đầm lầy, người đi trước dò đường quay về nói, có một con đại mãng xà chắn đường nên đành phải quay trở lại. Lưu Bang giọng say rượu nói: Trai nam nhi đi đường, chẳng sợ gì cả! ông tiến lên trước, quả nhiên thấy đại mãng xà nằm chắn ngang đường trông rất đáng sợ. Ông đang hăng men rượu bèn rút gươm ra chém mạnh một nhát. Thân con mãng xà to bằng cái bát to bị chặt đứt làm đôi, văng sang hai bên nhường đường cho họ đi. Lưu Bang lim dim cặp mắt vẫn còn đang say, cất tiếng cười rồi tra gươm vào vỏ, tiếp tục đi. Đi được mấy dặm, rượu trong bụng bắt đầu ngấm, Lưu Bang nằm lăn quay ra bên đường. Những người đi sau tới chỗ chém mãng xà, thấy trong đêm tối mênh mang một bà già đang khóc rất thương tâm, hỏi bà sao lại khóc. Bà già nói, con trai của bà, con của Bạch đế, biến thành một con mãng xà nằm chắn ngang đường, bị con của Xích đế giết chết rồi, cho nên bà ngồi khóc ở đây. Mọi người cho rằng bà cụ nói dối, định đánh bà, loáng một cái chẳng thấy bà đâu nữa. Mấy người vô cùng kinh ngạc, vội vã bỏ đi ngay, đi được một lúc thì thấy Lưu Bang, vội gọi ông dậy và kể cho ông nghe chuyện bà già khóc trong đêm. Lưu Bang nghe xong rất vui mừng, và tự hào mình là “con của Xích đế”. Những người đi theo ông càng kính nể ông hơn. Năm thứ ba mươi bảy Tần Thủy Hoàng, nhà vua nghe đạo sĩ nói “phía đông nam có khí thiên tử” đã đến Kim Lăng đào núi yểm vàng, trấn áp luồng “vương khí” ấy. Lưu Bang ngờ là luồng “khí thiên tử” ấy phát ra từ bản thân mình, vội vàng trốn vào giữa vùng núi Mang Đãng, không dám ra nữa. Vợ ông là Lã thị cùng bạn ông rất dễ dàng tìm thấy ông. Lưu Bang rất kinh ngạc, hỏi vợ làm sao mà tìm thấy mình. Lã thị bảo, chỗ ông ẩn náu thường bốc lên một luồng khí, cứ tìm theo hướng đó nhất định là tìm thấy. Lưu Bang thấy vậy rất mừng. Con em huyện Bái nghe truyền thuyết này, đều tìm đến theo ông.

Mùa thu năm Nhị Thế nguyên niên, khi Trần Thắng, Ngô Quảng xưng vương ở Trần quận, nhân dân rất nhiều quận huyện giết bọn quan lại nhà Tần, hưởng ứng Trần Thắng đứng lên chống Tần. Huyện lệnh huyện Bái rất sợ, muốn khởi nghĩa ở huyện Bái để hưởng ứng Trần Thắng Vương. Thuộc lại Tiêu Hà, Tào Tham nói với huyện lệnh rằng ông vốn là quan của nước Tần, bây giờ lại làm phản, con em huyện Bái e rằng có người không phục ông. Nếu ông cho gọi những người đi trốn trở về có thể được tới vài trăm người, dùng họ ép buộc dân chúng thì dân chúng sẽ không dám chống lại mệnh lệnh của ông. Huyện lệnh liền cử dũng sĩ Phàn Khoái đi gọi Lưu Bang về. Lúc này, bộ hạ của Lưu Bang đã có tới mấy trăm người. Thấy Phàn Khoái và quân sĩ Lưu Bang kéo về, huyện lệnh huyện Bái lại đâm ra hối hận vì sợ Lưu Bang cướp mất quyền bính của mình bèn cho đóng chặt cổng thành cố thủ, còn định giết cả Tiêu Hà, Tào Tham. Tiêu, Tào sợ bị giết, nhân lúc đêm tối trèo qua tường ra khỏi thành đi theo Lưu Bang. Lưu Bang viết một bức thư lụa, dùng nỏ bắn vào trong thành, nói với các phụ lão huyện Bái: “Nhiều năm nay, bách tính trong thiên hạ bị nhà Tần bạo ngược áp bức khổ cực vô cùng. Nay các phụ lão tuy giữ thành cho huyện lệnh, nhưng một khi các chư hầu đều vùng lên chống Tần, sẽ giết nhân dân huyện Bái. Giờ đây chúng ta phải giết huyện lệnh, chọn một người trong đám con em có tài để lập làm huyện lệnh, hưởng ứng với các lộ chư hầu, mới có thể bảo đảm được bình an và tốt đẹp cho gia đình. Bằng không thì cha con đều bị giết, chúng tôi sẽ chẳng làm gì được nữa”. Các phụ lão huyện Bái đọc xong, liền dẫn con em đi giết huyện lệnh, mở cổng thành đón Lưu Bang, chuẩn bị tôn ông lên làm huyện lệnh. Lưu Bang khước từ nói: “Bây giờ cả nước đang hỗn loạn, các lộ chư hầu đều khởi nghĩa, nếu chọn không đúng người đứng đầu ắt sẽ dẫn đến thất bại. Tôi đâu có tiếc gì thân mình, chỉ vì mình tài hèn sức mọn, không thể bảo vệ được các cụ và anh em. Chuyện đại sự như thế này cứ phải chọn người xứng đáng mới được”.

Tiêu Hà và Tào Tham đều là quan văn, rất khiêm nhường tự trọng, lại nữa cũng sợ rằng khởi nghĩa không thành, cuối cùng bị Tần chu di tam tộc nên càng kiên quyết không chịu nhận, một mực cử Lưu Bang làm huyện lệnh. Được quần chúng nhất trí, cuối cùng vẫn chọn Lưu Bang làm thủ lĩnh nghĩa quân huyện Bái, tôn là “Bái Công”. Lưu Bang chọn ngày lành tháng tốt tại công đường huyện Bái làm lễ cúng tế Xích đế và Si Vưu, lấy máu bò, dê, nhuộm lên trống trận và cờ xí. Cờ quạt toàn một màu đỏ, bay phấp phới như lửa cháy rừng rực, như sóng máu cuồn cuộn. Vì Bái Công tự cho mình là con Xích đế đã giết chết con của Bạch đế, cho nên tôn sùng màu đỏ. Các hào lại trẻ tuổi như Tiêu Hà, Tào Tham, Phàn Khoái đều ra sức tập hợp con em huyện Bái cho Bái Công nhanh chóng được tới hai, ba nghìn người, đánh trận đầu tiên chiếm được Hồ Lăng, Phương Dữ, lại quay trở về đóng giữ Phong Thành.

Khi ấy đã là năm thứ hai Tần Nhị Thế, đúng vào lúc Trần Thắng Vương sai tướng Châu Chương tiến sang phía tây đánh Tần và bị thua trận ở Hý Thủy Lâm Đồng chạy về. Yên, Triệu, Tề, Ngụy đều xưng vương. Dòng dõi của tướng nước Sở Hạng Yên dấy binh ở nước Ngô cũ. Các bộ nghĩa quân hình thành một vòng vây trùng điệp quanh nước Tần. Nước Tần chủ động tiến đánh để thoát khỏi thế bị bao vây. Giám úy Tần Tứ Xuyên đem quân vây Phong Thành, đánh nhau cầm cự trong hai ngày, sau Bái Công dẫn quân ra đánh, Tần thất bại. Bái Công lệnh cho Ung Sỉ cầm quân giữ Phong Thành còn mình thì đưa quân đi đánh huyện Tiết. Quan thái thú trấn giữ thành Tiết, tên là Tráng, thua trận chạy về huyện Thích. Tả Tư Mã (đại tướng quân) của Bái Công bắt giết được thái thú Tráng. Bái Công đại thắng, đem quân về Cang Phụ, rồi lại tới đất cũ Phương Dữ.

Tướng Ngụy là Châu Thị kéo quân đến đánh Phương Dữ, chưa kịp giao chiến thì nhận được lệnh của Trần Thắng Vương, trước tiên phải đánh những thành trì dễ chiếm. Châu Thị cử người du thuyết Ung Sỉ, nói rằng Phong Thành vốn là đất của Đại Lương, nước Ngụy đã nhập Phong Thành vào bản đồ của mình rồi. Ung Sỉ nếu đầu hàng Ngụy, Ngụy sẽ phong cho làm hầu tước; nếu không dầu hàng, sẽ tắm máu Phong Thành. Ung Sỉ vốn không muốn làm thuộc hạ cho Bái Công, nay Ngụy cho người sang chiêu hàng như vậy liền phản bội, dáng Phong Thành cho Ngụy. Bái Công đem quân đánh Phong Thành, chưa hạ được thì bị ốm vì lo nghĩ mệt nhọc, đành kéo quân về đất Bái.

Bái Công oán giận Ung Sỉ và con em Phong Thành phản bội mình, nghe nói hai tướng Ninh Quân, Tần Gia ở Đông Dương đã lập Cảnh Câu ở Lưu Thành làm phó vương, bèn đến theo Cảnh Câu, muốn mượn binh mã đi đánh Phong Thành. Khi ấy đúng lúc tướng nhà Tần là Chương Hàm xuất phát từ đất Trần, cùng một tướng khác là Tư Mã Dĩ tiến quân lên phía Bắc bình định đất Sở, tàn sát rất nhiều người ở Tương Thành, sau đó đánh tới Đông Thành. Phó vương Ngụy Cảnh Câu phái quân của tướng Ninh Quân ở Đông Dương và quân của Bái Công tiến sang phía Tây, giao chiến với tướng Tần Chương Hàm, Tư Mã Dĩ tại Tiên Tây nhưng không giành được thắng lợi, đành phải lui quân về Lưu Thành, sau đó lại dẫn quân đi đánh Đãng Thành, ác chiến ba ngày mới hạ được. Tại Đãng Thành, họ đã thu phục được năm sáu nghìn sĩ tốt, tiếp đó đánh chiếm được Hạ Ấp.

Khi ấy Bái Công nghe nói đại tướng nước Sở là Hạng Lương đóng quân ở huyện Tiết, liền dẫn hơn một trăm kỵ binh đến Thành Tiết ra mắt tướng Hạng Lương. Hạng Lương thấy Bái Công tướng mạo khác thường, quý bạn trọng nghĩa, liền cấp cho ông năm nghìn lính, mười vị tướng, lệnh cho ông đi đánh Phong Thành. Đánh thắng xong, Bái Công quay về Thành Tiết phục mệnh, bắt đầu cùng với một lãnh tụ quân sự khác là Hạng Vũ làm việc dưới tướng Hạng Lương.

Hạng Vũ vốn là người Hạ Tương nước Sở cũ, khi khởi nghĩa chống Tần mới hai mươi bốn tuổi. Ông là cháu họ Hạng Lương. Hạng Lương là con Hạng Yên, thượng trụ quốc của nước Sở cũ. Họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, công lao hiển hách, được người nước Sở yêu quý. Hồi Hạng Vũ còn nhỏ, Hạng Lương dạy Hạng Vũ học chữ, Hạng Vũ không chuyên tâm; dạy Hạng Vũ múa gươm, học cũng không thành. Hạng Lương quát mắng Hạng Vũ. Hạng Vũ trả lời, học để biết chữ, nhận biết được họ tên là đủ rồi. Còn học kiếm thuật, chỉ để đánh nhau với một người cũng chẳng có gì phải học nhiều, rồi nói rằng mình muốn học cái gì mà một người có thể địch muôn người. Hạng Lương bèn dạy cho Hạng Vũ học binh pháp, Hạng Vũ mừng lắm, nhưng Hạng Vũ chỉ học qua loa đã thỏa mãn rồi, không chịu khó để học cho thành tài.

Về sau, vì Hạng Lương can tội giết người, kéo Hạng Vũ cùng đi trốn đến miền Trung nước Ngô cũ. Ở đó mỗi khi có lao dịch hoặc việc tang quy mô lớn, Hạng Lương đều đứng ra lo liệu, nhân cơ hội đó đã làm quen được với nhiều người, ngầm truyền dạy binh pháp cho khách khứa và con em nhân dân, dân địa phương vì thế mà biết ông là người có tài. Năm thứ ba mươi bảy Thủy Hoàng tuần du ở Cối Kê, Hạng Lương và Hạng Vũ đứng ở bờ sông nhìn cảnh Thủy Hoàng chỉ huy đoàn xe hàng vạn người qua sông Chiết Giang thật hùng tráng, Hạng Vũ buột miệng thốt ra câu: “Mình có thể thay thế ông ta được”. Hạng Lương vội bịt miệng Hạng Vũ, bảo chớ nói lung tung mà mang họa chu di tam tộc. Từ đó Hạng Lương cho rằng Hạng Vũ là người kỳ tài. Hạng Vũ cao hơn tám thước, rất khỏe, cử được đỉnh, lại tài trí hơn người, cho nên con em Ngô Trung đều kính nể.

Tháng bảy năm Tần Nhị Thế nguyên niên, Trần Thắng, Ngô Quảng dẫn đầu khởi nghĩa ở Đại Trạch. Tháng chín thái thú Thông ở Cối Kê nói với Hạng Lương:

- Cả vùng Giang Tây đều đã làm phản, đây là lúc ý trời muốn tiêu diệt nước Tần rồi. Tôi nghe nói, ra tay trước thì áp đảo được người, ra tay sau thì bị người áp đảo. Tôi dự định dấy binh khởi nghĩa, mời ông và Hoàn Sở thống lĩnh quân đội. Hoàn Sở lúc này còn đang đi trốn, ẩn náu ở vùng sông nước Đại Trạch.

Hạng Lương nói với viên thái thú:

- Hoàn Sở đang trốn tránh ở nơi khác, chẳng ai biết ông ta ở đâu chỉ có tôi biết và tìm được ông ta về thôi.

Nói xong đi ra, dặn Hạng Vũ cầm kiếm đứng ngoài chờ lệnh, rồi lại quay vào phòng, làm ra vẻ kính cẩn ngồi xuống nói tiếp:

- Xin cho triệu Hạng Vũ vào, lệnh cho anh ra đi tìm Hoàn Sở về cầm quân.

Viên thái thú đồng ý. Hạng Lương liền gọi Hạng Vũ vào bảo đứng bên thái thú đợi lệnh, nhưng không chờ thái thú nói, Hạng Lương đã ra hiệu cho Hạng Vũ như muốn nói “hạ thủ được rồi”. Hạng Vũ bèn vung gươm chém đứt đầu viên thái thú. Hạng Lương xách thủ cấp thái thú đầm đìa máu, đeo ấn và đai thêu của thái thú, thuộc hạ thấy vậy hoảng hồn náo loạn cả lên, Hạng Vũ giết ngay hơn một trăm người. Người trong phủ thái thú đều kinh hãi, quỳ hết xuống đất không dám đứng lên. Hạng Lương tụ tập hào kiệt và quan lại đã giao du xưa nay, tuyên bố đại sự khởi nghĩa. ông chỉ huy quân đội Ngô Trung, đánh chiếm Hạ huyện, thu nhận được tám nghìn tinh binh. Hạng Lương lần lượt bổ nhiệm hào kiệt Ngô Trung đảm nhiệm các chức hiệu úy, hầu và tư mã, bản thân giữ chức thái thú Cối Kê, Hạng Vũ làm phó tướng.

Trước đó có Triệu Bình người Quảng Lăng, theo lệnh Trần Thắng Vương tiến đánh huyện Quảng Lăng, chưa giành được thắng lợi thì nghe nói Trần Thắng Vương thua chạy, binh mã của Chương Hàm nhà Tần sắp kéo đến, liền vội vã vượt qua sông Hoài, giả mạo vương mệnh Trần Thắng, tấn phong cho Hạng Lương làm Thương trụ quốc nước Sở và truyền khẩu dụ: “Đại cục Giang Đông đã xong, nhanh chóng tiến quân sang phía Tây đánh Tần”.

Hạng Lương dẫn tám nghìn quân vượt sông Hoài, tiến sang phía Tây, một mặt liên hệ với Trần Anh ở Đông Dương để cùng hợp lực đánh Tần. Trần Anh vốn là thuộc lại của huyện lệnh Đông Dương, là một người cẩn thận, trọng danh dự. Đám trẻ ở Đông Dương sau khi giết huyện lệnh, tụ tập được mấy nghìn người, muốn bổ nhiệm một trưởng quan, vì không có người thích hợp, liền đến mời Trần Anh. Trần Anh từ chối mãi không được, đành phải miễn cưỡng nhận, người trong huyện đi theo có tới hai vạn. Đám trẻ thấy người đông thế mạnh, muốn lập Trần Anh lên làm vua. Bà mẹ Trần Anh nói với Trần Anh: “Từ khi ta về làm dâu nhà họ Trần, chưa hề nghe nói họ Trần này từng có quý nhân. Bây giờ bỗng nhiên nổi danh là điềm không lành. Tốt nhất con đi theo người khác, sự nghiệp thành công sẽ được phong hầu phong tước, thất bại thì trốn đi cũng còn dễ dàng, không bị người đời chỉ họ chỉ tên trách mắng”. Nghe lời mẹ, Trần Anh không dám làm vua, nói với quan quân rằng: “Họ Hạng đời đời làm tướng, rất nổi tiếng ở nước Sở. Khởi nghĩa là một việc lớn, không phải người họ Hạng thống lĩnh ba quân ắt không thành, còn tôi chỉ dựa vào tiếng tăm của gia đình mà làm được một số việc. Việc nước Tần bị tiêu diệt là kết quả tất nhiên rồi”. Mọi người đều nghe theo chủ trương của Trần Anh, đem quân về với Hạng Lương.

Hạng Lương sai Hạng Vũ đánh thành Tương, quân giữ thành đóng chặt cổng cố thủ, không hạ được. Hạng Vũ cho chôn sống tất cả quân dân trong thành, tiếng kêu khóc vang trời dậy đất, nhưng Hạng Vũ chẳng mảy may động lòng, lại còn khoe khoang công trạng. Hạng Lương được tin cả mừng. Lúc này Trần Thắng Vương đã chết. Hạng Lương bèn triệu tập tướng lĩnh các lộ về Thành Tiết để bàn công việc đúng vào lúc Bái Công cũng vừa hạ được Phong Thành, đang kéo quân trở về phục mệnh Hạng Lương, từ đó quen biết Hạng Vũ, trở thành tướng lĩnh nổi tiếng dưới trướng Hạng Lương.

Hạng Lương đã là danh tướng nước Sở, lại có thực tài thống lĩnh ba quân, đương nhiên rất có uy tín. Tiếng tăm ngày một lẫy lừng, tướng tài, mưu sĩ các nơi đều quy phục. Phạm Tăng người đất Kỳ, tuổi đã bảy mươi, là người kỳ tài, vì tránh đời loạn nên nhiều năm chỉ sống ở nhà, đóng cửa không tiếp khách. Nay thấy Hạng Lương khởi sự ở đất Kinh Sở, được các chư tướng ngưỡng vọng, ủng hộ, biết là đã có hy vọng diệt Tần phục quốc, liền đến theo quân Sở, nói với Hạng Lương rằng: “Trần Thắng thất bại là tất nhiên. Năm Tần Vương tiêu diệt sáu nước, nước Sở vô tội nhất. Trước đây, Sở Hoài Vương đến nước Tần cầu hòa hiếu giữa hai nước, đã bị bạo chúa Thủy Hoàng giam giữ, từ đó không về nhà. Người nước Sở tới nay vẫn rất thương xót, nhớ tiếc ông, cho nên Sở Nam Cung mới nói “Sở tuy nhỏ nhưng diệt Tần vẫn chỉ có Sở”. Trần Thắng khởi nghĩa trước không lập con cháu vua Sở làm vua mà lại tự xưng vương, nên số phận không lâu dài được. Nay tướng quân đã dấy binh Giang Đông, tướng lĩnh các lộ nước Sở đều lần lượt kéo về quy phục tướng quân là vì họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, tin tưởng rằng tướng quân sẽ lập con cháu vua Sở là Sở Vương”.

Hạng Lương rất tán thành đề nghị của Phạm Tăng, cho người đi dò la trong dân chúng, cuối cùng tìm được cháu của Sở Hoài Vương là Sở Tâm đang làm nghề chăn dê, đưa lên ngôi là Sở Hoài Vương để bày tỏ lòng thương nhớ của dân chúng đối với tổ phụ Sở Hoài Vương của ông ta. Trần Anh được phong làm Thượng trụ quốc nước Sở, cấp cho lãnh địa năm huyện, phò tá Hoài Vương lập quốc kiến đô tại Chu Di. Hạng Lương tự phong tước vị xưng là “Võ An Quân”. Lúc này, Trương Lương vốn dòng dõi thừa tướng nước Hàn cũ, người đã ném chùy mưu sát Thủy Hoàng ở Bác Lãng La không thành, phải sống lén lút nhiều năm, nay là mưu sĩ đắc lực của Bái Công. Trương Lương thấy thời cơ đã đến, liền đề nghị với Hạng Lương: Võ An Quân đã lập con cháu Sở Vương làm vua, trong các công tử nước Hàn có công tử Thành là người hiền đức, tốt nhất nên lập công tử làm vua để tăng thêm thế lực của Trương Lương và bè đảng để cùng nhau diệt Tần. Hạng Lương chấp nhận đề nghị, lập công tử Thành làm Hàn Vương, phong Trương Lương làm tư đồ, khôi phục lại tên nước Hàn như cũ, đã khiến lòng dân yên ổn. Dân chúng đua nhau gia nhập quân đội, cùng quân Sở tiến đánh nước Tần.

Đứng trước tình hình ngày một nguy ngập, Lang Trung lệnh nước Tần Triệu Cao lại giấu giếm tình hình quân sự, chỉ chuyên tâm lo việc củng cố cái triều đình đã cướp được do đồng mưu với Hồ Hợi lập di chiếu giả giết anh. ông ta xúi giục Nhị Thế thi hành hình phạt tàn bạo và luật “liên đới”, giết hại Mông Điềm, Mông Nghị và các lão thần khác. Các anh chị em của Hồ Hợi, mười hai công tử đều bị giết ở Hàm Dương, mười hai công chúa bị chặt chân tay và chết ngay tại nơi ở. Số người vì “liên đới” mà bị giết rất nhiều. Công tử Cao định chạy trốn, sợ bị diệt tộc đành dâng sớ xin tội chết. Sáu công tử khác cũng bị giết tại nơi ở. Ba anh em công tử Tương Lư đều bị hỏi tội, tuy đã khai hết sức thành khẩn mà cũng chẳng được tha, đành phải ngậm oan tự vẫn chết. Sự tàn bạo của Nhị Thế diễn ra đúng như những lời dạy bảo của Thủy Hoàng và sự xúi bẩy của Triệu Cao, thật mất hết tính người và táng tận lương tâm. Kết quả là không những không củng cố được quyền lực mà càng nhanh chóng di tới chỗ diệt vong.

Quân Sở tiến ào ạt sang phía Tần, đại phá quân Tần của Chương Hàm tại Đông A, Định Đào (nay ở Sơn Đông). Hạng Vũ, Bái Công quyết chiến với quân Tần ở Ung Khâu, con trai Lý Tư là Lý Do làm thái thú Tam Xuyên chết trận, quân Tần thua rút chạy cả vào trong cửa quan. Võ An Quân Hạng Lương cả mừng, cho rằng quân Tần không kham nổi một trận nữa, trở nên kiêu căng, binh lính cũng vì thế mà trễ nải. Mưu sĩ Tống Nghĩa ra sức can ngăn ông không nghe, vẫn liều lĩnh tiến quân. Tướng Tần là Chương Hàm có thêm viện quân, tìm cách dụ cho quân địch vào sâu, rồi vây chặt quân Sở ở Định Đào. Hạng Lương phá vây không nổi, đã thiệt mạng trong chiến trận. Sở Hoài Vương hoảng sợ dời đô tới Bành Thành, tự mình thống lĩnh ba quân, phong Hạng Vũ làm Trường An hầu, hiệu là Lỗ Công; Bái Công là Đẳng Quận trưởng, phong Vũ An hầu, tạm ngừng chiến để chỉnh đốn quân đội, chuẩn bị đánh tiếp.

Tháng mười một năm thứ hai Tần Nhị Thế, Hoài Vương phong Hạng Vũ làm tướng quân chinh phạt Tần. Hạng Vũ sau khi đưa quân qua sông Hoài, lập tức cho phá hết thuyền bè, đốt sạch nhà cửa, cảnh báo tướng sĩ rằng không còn đường rút, chỉ có quyết chiến mới có đường sống. Một trận đại quyết chiến giữa quân Sở và quân Tần đã diễn ra tại Cự Lộc (ở tỉnh Hà Bắc ngày nay). Khi ấy, các lộ chư hầu đều đến chi viện cho quân Sở, thấy tình hình chiến đấu cực kỳ ác liệt tàn khốc, đều không dám tiến quân tới gần trợ chiến, đành đứng sau chiến lũy quan sát. Quân Sở quyết tử xông lên, lấy một chọi mười, tiếng hô “giết” rung trời chuyển đất, khiến quân sĩ chư hầu cũng kinh hồn bạt vía. Sau chín lần xung sát quyết liệt, quân Tần đại bại. Hạng Vũ cho mời tướng lĩnh các lộ quân chư hầu tới tiếp viện. Các tướng đều sợ hãi quỳ xuống cúi mặt tham bái, không dám ngẩng đầu lên nhìn. Hoài Vương phong cho Hạng Vũ là thượng tướng quân, thống lĩnh toàn bộ quân Sở và các lộ chư hầu, dốc toàn lực tiến đánh quân Tần. Chương Hàm sau khi thất bại thảm hại rút về đóng ở Cửu Nguyên, cử phó tướng Tư Mã Hân về Hàm Dương cấp báo, nhưng Triệu Cao xúi Nhị Thế trốn biệt trong nội cung, không tiếp sứ giả. Tư Mã Hân sợ bị Triệu Cao hãm hại, vội trở lại quân doanh khóc với Chương Hàm; Chương Hàm chẳng còn trông mong gì được vào Tần nữa, liền dẫn quân tới đầu hàng Hạng Vũ. Hạng Vũ lập Chương Hàm làm Ung Vương, phong Tư Mã Hân làm thượng tướng quân, dùng số quân Tần cũ làm tiên phong, chuyển sang tấn công nước Tần.

Tại Bành Thành, khi làm lễ tuyên thệ ra quân đánh Tần, Sở Hoài Vương hẹn ước với các lộ chư hầu ai đánh vào Hàm Cốc Quan trước, người đó sẽ làm vua Tần. Khi đó, binh lực nước Tần còn rất mạnh, các cánh quân chư hầu đều sợ không dám tiến lên, không dám đi đầu đánh vào quan ải. Duy chỉ có Hạng Vũ nóng lòng muốn báo thù cho chú là Hạng Lương, sẵn sàng ký cam kết với Hoài Vương. Nhưng Hoài Vương cho rằng Hạng Vũ tuy vũ dũng, nhưng quá tàn bạo, không nên để ông ta tiến vào nước Tần trước. Vì thế liền quyết định để Bái Công thống lĩnh tám nghìn quân đánh vào Hàm Cốc Quan, Hạng Vũ thì chỉ huy hai mươi vạn quân đón đánh quân Tần, giải vây cho nước Triệu đang lâm nguy. Hạng Vũ đã giành được thắng lợi lớn ở Cự Lộc, lại hàng phục được Chương Hàm và Tư Mã Hân, dương dương tự đắc cho mình là đắc sách, căn bản không coi Bái Công ra gì, bèn cử ngay Chương Hàm, Tư Mã Hân thay mình làm quân tiên phong đánh thẳng vào Hàm Cốc Quan, và tin chắc sẽ vào Hàm Dương trước Bái Công.

Mùa xuân năm thứ ba Tần Nhị Thế, Bái Công dẫn quân đánh Xương Ấp. Bình Việt đem quân quy phục ông. Quân lính khi qua Cao Dương, có vị trưởng lão là Lệ Thực Kỳ gặp được một kỵ binh quê ở Cao Dương bèn ngỏ ý muốn được gặp mặt Bái Công. Người kỵ binh nói với ông cụ rằng Bái Công không thích nho sinh, nên xin ông cụ chớ nói mình là nho sinh.

Sau đó anh lính nói việc này với Bái Công. Bái Công cho mời trưởng lão họ Lệ tới phòng khách Cao Dương. Cụ Lệ bước vào, thấy Bái Công đang ngồi bên giường để hai nữ tỳ rửa chân cho mình, thái độ rất khinh mạn. Cụ Lệ vái chào Bái Công nhưng không quỳ, sau đó nghiêm sắc mặt nói:

- Ông đã muốn thảo phạt nước Tần vô đạo thì chớ nên ngạo mạn vô lễ như thế đối với người già cả.

Bái Công vội vã ngừng rửa chân, mời ông cụ ngồi lên chiếu trên, thỉnh giáo ông cụ kế diệt Tần. Cụ Lệ nói:

- Quân của quân hầu chưa tới vạn người mà muốn đánh vào nước Tần lớn mạnh thì chẳng khác gì đem thân vào miệng cọp, tự chuốc lấy cái chết. Trần Lưu là nơi xung yếu trong thiên hạ lại tích trữ rất nhiều lương thực, tôi và huyện lệnh huyện này là chỗ bạn bè với nhau. ông có thể cử tôi đến thuyết phục ông ta dầu hàng quân hầu. Nếu ông ta không chịu, ông sẽ đánh thành, tôi làm nội ứng cho.

Bái Công bèn cử cụ Lệ đi làm thuyết khách, còn mình dẫn quân đi theo ngay. Lệ Thực Kỳ quả nhiên thuyết phục được huyện lệnh Trần Lưu quy phục Bái Công, sung cả bốn vạn người vào đạo quân của Bái Công. Cụ Lệ được phong làm Quảng Dã Quân. Em trai cụ là Lệ Thương cũng chiêu mộ được bốn nghìn trai tráng đi theo dưới cờ Bái Công. Quân Bái Công không phải chiến đấu, đã giành được thành trì, lại mở rộng được binh lực, quân hùng lương đủ, sĩ khí hăng hái, tiếp đó đánh chiếm Dĩnh Xuyên. Hàn tư đồ Trương Lương thấy thời cơ đã tới cũng thuyết phục Hàn Vương Thành quy phục Bái Công, thế là Bái Công dễ dàng giành được lãnh thổ nước Hàn. Trương Lương dẫn quân theo Bái Công, sau khi chiếm được quân Nam Dương, tiếp tục tiến sang phía Tây, chẳng gặp trở ngại gì. Quân Sở kỷ luật nghiêm minh, nghiêm cấm cướp bóc, được quân dân nước Tần trên dọc đường hoan nghênh và ủng hộ, đua nhau tham gia đội quân của Bái Công. Đoàn quân cờ đỏ áo đỏ hùng dũng tiến vào vùng Lũng Tây, chẳng khác gì một con rồng lửa đang bay về phía trước.

Trong khi đó ở cung Hàm Dương, Nhị Thế Hồ Hợi bị Triệu Cao bưng bít và xúi giục, ngày càng hoang dâm vô đạo. Tả hữu thừa tướng Lý Tư và Phùng Khứ Tật, thượng khanh Phùng Kiếp ra sức can ngăn ngừng việc xây dựng cung A Phòng, giảm lao dịch và bắt lính, Nhị Thế nổi giận, giao họ cho Triệu Cao xét hỏi định tội. Phùng Khứ Tật, Phùng Kiếp lẫm liệt nhìn vào mặt Triệu Cao nói: “Ta thà chết không chịu nhục”. Nói xong tự cắt cổ chết. Lý Tư bị bắt bỏ ngục, nhiều lần dâng sớ lên Nhị Thế biện giải cho mình, và vạch tội Triệu Cao lừa dối mê hoặc vua. Triệu Cao bèn sai bọn thân tín tạo ra chứng cớ giả, tố cáo con trai Lý Tư là Lý Do làm thái thú Tam Xuyên đã dung túng cho quân Ngô Quảng xâm phạm đất Tần. Lý Tư giấu không bẩm tấu việc này mắc tội thông đồng với giặc. Lý Tư cãi nhưng vô hiệu, bị tra tấn buộc phải nhận tội. Sau đó vào tháng bảy năm thứ hai Nhị Thế bị xử trảm ở Hàm Dương và bị tru di ba họ. “Làm nhiều chuyện bất nghĩa thì phải chết” là sự phán xét rất chính xác về ông ta.

Sau khi những bề tôi phò tá thời Thủy Hoàng đều đã bị giết Triệu Cao lên làm thừa tướng, càng lộng hành ngông cuồng tàn bạo, nắm mọi quyền bính. Để chứng tỏ uy lực của mình, một lần Triệu Cao dẫn một con hươu lên triều đường bảo với Nhị Thế, đây là con ngựa. Nhị Thế cười gượng bảo, thừa tướng sai rồi, đã nói hươu thành ngựa. Triệu Cao lập tức nghiêm sắc mặt quay hỏi quần thần, có người không dám hé răng, có người trả lời là ngựa hoặc hươu. Triệu Cao lúc ấy không nói gì cả, nhưng dùng kế thi hành hình phạt đối với những người nói là hươu, khiến quần thần vô cùng sợ hãi, chẳng còn ai dám nói chữ “không” với Triệu Cao nữa. Nhị Thế hoàn toàn bị Triệu Cao nắm trong tay, răm rắp làm theo ý Triệu Cao.

Tháng tám năm ấy, Bái Công đánh vào Vũ Quan. Trước đó, Triệu Cao luôn bẩm báo dối trá về tình hình chiến sự, nói giặc ở Quan Đông đều là bọn trộm cướp, chẳng làm nên được chuyện gì, chẳng có gì đáng sợ cả. Tới lúc “giặc” kéo tới chân thành, Nhị Thế nổi giận trách mắng Triệu Cao vì sao không nói sự thực. Triệu Cao sợ hãi, vội cùng con rể là Diêm Nhạc là lệnh doãn Hàm Dương bí mật âm mưu lập vua mới. Diêm Nhạc dẫn tướng lĩnh xông thẳng vào cung Vọng Di, kể tội Nhị Thế đã ngạo ngược chuyên quyền giết hại trung lương, hoang dâm vô đạo, khiến thiên hạ đều làm phản chống lại và hỏi Nhị Thế xem đáng xử như thế nào. Nhị Thế nói muốn giáng cấp xuống làm quận vương. Diêm Nhạc không nghe, Nhị Thế lại xin làm Vạn hộ hầu, Diêm Nhạc vẫn không chịu. Cuối cùng, Nhị Thế đành xin đem vợ con đi làm dân thường. Diêm Nhạc bảo: “Ta theo lệnh của thừa tướng, thay mặt trăm họ trong thiên hạ đến trừ khử ngươi, ngươi muốn nói gì cũng vô ích”. Nói đoạn lệnh cho tướng sĩ bước tới ra tay, Nhị Thế khóc rồi tự vẫn. Triệu Cao cùng Diêm Nhạc mưu tính lập con của anh Nhị Thế là Tử Anh lên làm vua, Tử Anh vờ cáo bệnh không nhận. Triệu Cao đích thân đến cung mời Tử Anh. Tử Anh nhân lúc Triệu Cao không phòng bị đã giết luôn và tru di cả ba họ nhà Triệu Cao, sau đó mới lên ngôi Tần Vương. Tử Anh vội vã phái quân đến Nghiêu Quan chống lại quân Sở, nhưng đã muộn, bị Bái Công đánh thua liên tiếp. Hàm Dương như trứng để đầu đẳng, nguy cấp trong một sớm một chiều.

Mùa đông tháng mười, Bái Công tiến quân tới Bá Thượng, Tần Vương Tử Anh theo xe tràng ngựa trắng, tròng thừng vào cổ, bưng ngọc tỷ và phù tiết hoàng đế đã niêm phong cẩn thận, quỳ xuống bên đường nghênh tiếp Bái Công. Tướng lĩnh có người đề nghị giết Tử Anh, Bái Công nói: “Sở Hoài Vương lúc đầu cử ta đi đánh Tần, vì cho rằng ta biết khoan hồng với mọi người, huống hồ Tần Vương nay đã đầu hàng, nếu giết đi là điều không tốt lành”. Bái Công bèn giao Tử Anh cho thuộc hạ canh giữ. Tần Vương đã xin hàng, mười vạn đại quân Bái Công rầm rộ tiến vào thành Hàm Dương. Các tướng lĩnh đua nhau đi cướp bóc tiền bạc của cải; chỉ có một mình Tiêu Hà xông vào phủ thừa tướng thu lượm hồ sơ, tài liệu, nhờ đó mà nắm được tất cả tình hình về quan ải, hộ khẩu, khu vực hành chính, cách bố trí quân sự... ở các nơi trong toàn quốc. Việc làm này chứng tỏ ông là một lương tướng có tài ngang trời dọc đất, là bề tôi thủ túc của Bái Công.

Bái Công bị mê mẩn trước vẻ đẹp lộng lẫy tráng lệ của cung điện nhà Tần, vẻ kỳ lạ và sang trọng của các thứ đồ đạc, dáng kiều diễm thướt tha của các cung nữ, muốn ở lại trong hoàng cung. Tướng Phàn Khoái vốn là anh em cọc chèo nghiêm nghị khuyên can Bái Công rằng chính những thứ xa hoa đẹp đẽ ấy đã khiến Tần diệt vong, Bái Công còn tham lam luyến tiếc những thứ ấy làm gì, hãy mau trở về quân doanh Bá Thượng. Bái Công không nghe. Trương Lương lại ra sức khuyên ngăn nói rằng, vì nước Tần vô đạo, Bái Công mới đến được đây. Bái Công thay bách tính trong thiên hạ diệt trừ bạo tặc, phải làm gương trước, nay vừa mới vào nước Tần, đã tham lam hưởng thú hoan lạc, khác gì giúp kẻ ác làm điều xấu. Lời nói phải tuy chối tai nhưng lợi cho công việc, thuốc hay tuy đắng miệng nhưng tốt cho việc chữa bệnh, xin Bái Công nghe lời khuyên chân thành của tướng Phàn Khoái. Bái Công khi ấy mới cảnh tỉnh, xấu hổ cảm tạ lời can thẳng thắn của Phàn, Trương, lui quân về Bá Thượng rồi cho mời các bô lão tới trịnh trọng tuyên bố. “Các vị bô lão lâu nay bị nước Tần bạo ngược làm cho vô cùng khổ cực. chư hầu các nước dã hẹn ước cùng nhau, người nào vào được quan ải trước sẽ làm vua nước Tần. Nay Lưu Bang tôi đã vào quan ải trước, định ra ba điều cho mọi người tuân theo: kẻ giết người bị tội chết; kẻ đánh người bị thương và kẻ ăn trộm, sẽ tùy theo sự việc nặng nhẹ mà xử theo hình pháp”. Nhờ vậy đã khiến cho quan lại và dân chúng nước Tần cũ giữ nguyên được tình hình an cư lạc nghiệp. Dân nước Tần vô cùng hoan hỉ tranh nhau mang bò, rượu đến úy lạo quân Sở. Bái Công khiêm nhường không nhận, dân chúng lại càng vui mừng, chỉ sợ Bái Công không chịu ở lại làm vua Tần.

Lại nói, Hạng Vũ đã chiêu hàng được các tướng Tần, như Chương Hàm v.v... bình định được Hà Bắc, thống lĩnh các lộ chư hầu tiến sang phía Tây cấp tốc đánh vào cửa ải nhà Tần. Hàng binh nước Tần có nhiều người oán trách. Hạng Vũ bèn nhân lúc đêm tối tấn công bất ngờ, chôn sống hơn hai mươi vạn quân Tần tại phía Nam thành Tân An, chỉ đem theo các tướng Tần Chương Hàm, Tư Mã Hân và Đổng Ế tiến vào nước Tần. Hạng Vũ vừa vào Hàm Dương đã chém giết bừa bãi, giết cả Tần Vương Tử Anh, các công tử nước Tần và họ hàng tông tộc thành Hàm Dương, máu chảy thành sông. Hạng Vũ còn quật mộ Tần Thủy Hoàng, chiếm làm của riêng tất cả các đồ bằng vàng bạc châu báu trong mộ và trong cung A Phòng. Theo ghi chép trong “Tần Thủy Hoàng bản kỷ” và “Thủy Kinh Vị Thủy chú”, Hạng Vũ bắt ba mươi vạn quân lính chuyên chở tất cả thứ quý giá này suốt ba mươi ngày vẫn không hết. Hạng Vũ còn phóng hỏa đốt cung A Phòng, lửa cháy suốt chín mươi ngày, thiêu trụi thành đống hoang tàn cả một quần thể kiến trúc hùng vĩ kéo dài ba trăm dặm dọc theo Thục Sơn. Một công trình nghệ thuật vĩ đại, xây dựng suốt mấy chục năm, tốn phí công của không biết bao nhiêu của bảy mươi vạn thợ và phu phen làm việc vất vả, chỉ một mồi lửa đã tan thành tro bụi, khiến ai cũng phải đau lòng. Nhất là việc quật mộ Tần Thủy Hoàng chẳng khác gì Ngũ Tử Tư đào mộ bạo chúa Sở Bình Vương, cũng ba trăm roi quất vào thây, hành động báo thù sao giống nhau quá vậy. Mới hay, người đời căm giận bạo chúa tới mức độ nào.

Tần Thủy Hoàng lên ngôi từ lúc mười ba tuổi, làm vua hai sáu năm, thống nhất được thiên hạ; năm năm mươi tuổi thì chết nơi đất khách Sa khâu, truyền ngôi cho Nhị Thế được ba năm; Tử Anh làm vua bốn mươi sáu ngày, tổng cộng ba đời vua bốn mươi mốt năm. Khi sáng nghiệp oanh liệt là thế, lúc tiêu tan thảm thiết thê lương tới mức chém giết lẫn nhau, đoạn tử tuyệt tôn. Quả là một tấn thảm kịch đứng hạng đầu trên thế giới cổ kim xưa nay. Tần Thủy Hoàng, một cuộc đời kiêu hùng với những công tội, vinh nhục đã để lại cho chúng ta biết bao nhiêu kinh nghiệm, bài học và rất nhiều tấm gương.

Giả Nghị, Thái phó Trường Sa Vương đời Tây Hán đã viết trong bài “Quá Tần luận”:

“…Tần có cả một giang sơn bao la, quyền lực vô biên, khiến tám châu đều phải thần phục, kể đã dư trăm năm. Sau lại hợp sáu nước thành một nhà, quy tất cả vào một cung. Chỉ một người làm phản mà xã tắc tan hoang, thân chết vào tay kẻ khác, để thiên hạ cười chê, vì sao vậy? Không thực hành nhân nghĩa, ắt không có sức tiến công phòng thủ là thế đấy…”

Đỗ Mục, có tên là “Tiểu Đỗ”, nhà thơ nổi tiếng đời Đường, trong bài “A Phòng cung phú” của mình đã viết rất sâu sắc:

“Ô hô thương thay! Người diệt sáu nước, chính là sáu nước, đâu phải Tần. Diệt Tần là ai, chính là Tần, đâu phải thiên hạ. Than ôi! Để dân sáu nước biết tự thương xót mình, đã đủ cho họ chống Tần! Tần mà biết thương xót người sáu nước, làm vua hết ba đời còn có thể truyền tới muôn đời, hỏi ai còn ai diệt? Người Tần không biết tự thương xót, mà người đời sau lại thương xót cho họ. Người đời sau thương xót họ, nhưng không lấy họ làm gương, cũng là để người sau nữa lấy đó làm răn”.

Bài thơ “Đốt sách chôn học tro” của Chương Kiệt. nhà thơ đời Đường, viết cũng rất hay:

“Trúc Bạch yên tiên đế nghiệp hư. Quan hà không tỏa Tổ long cư. Khanh khôi vị lãnh Sơn Dông loạn. Lưu Hạng nguyên lai bất độc thư”. (Dịch nghĩa: Khói lửa đốt sách tiêu tan thì nghiệp đế chẳng còn. Phải ngăn sông khoét núi cho Tổ long (Tần Thủy Hoàng) ở. Tro trong hố chưa nguội thì Sơn Đông đã nổi loạn, Lưu Bang Hạng Vũ vốn cũng không đọc sách!).

Cuối cùng, tác giả tôi cũng không ngại thô thiển, học đòi văn chương, viết tặng bài “Niệm nô kiều”, coi như lời bình thuật về một đời Tần Thủy Hoàng kiêu hùng:

Hai nghìn năm quan quách đậy lại rồi, đã có nhiều bình thuyết về vua Tần.

Vạn lý Trường thành như rồng thần vùng vẫy, là hồn phách Trung Hoa ta. Chữ cùng viết một thứ, xe cùng chạy một đường, quận huyện có từ khi đó; diệt các chư hầu, nhất thống Trung Quốc, ấy là những công lao to lớn. Nhưng lại ngạo thế khoe công, tự cho mình hơn cả Nghiêu, Thuấn, khinh thường các bậc tiên hiền; đốt sách chôn nho, giết hại cả em và người thân, cho xe ngựa phanh thây, rồi dựng lăng xây cung, khiến lê dân khổ cực, đất nước nghèo kiệt, gây những tai họa muôn vàn độc ác. Tổ long ứng lời sấm truyền, bị Nhị Thế lật đổ ngai vàng.

Sau khi Tần bị diệt vong, Hạng Vũ và Lưu Bang đấu tố tranh tài, điều binh khiển tướng, trình diễn một vở kịch lịch sử hùng tráng “Sở Hán tranh hùng”. Một chương sử mới lại bắt đầu.

HẾT

.