HỒI THỨ BA MƯƠI NĂM ỨNG LỜI SẤM NGUYỀN, THỦY HOÀNG VONG MẠNG-SOẠN DI CHIẾU GIẢ, HỒ HỢI CHIẾM NGÔI---------
Cờ quạt phấp phới, xa mã giáp trụ toàn một màu đen, đám tùy tòng đông tới vạn người cùng đoàn xa giá dài tới mấy dặm rùng rùng kéo về phía tây, nhấp nhô ngoằn ngoèo hệt như một con rồng đen bướng bỉnh bất kham. Đoàn xa mã chạy qua, bụi đất bốc mù mịt chẳng khác gì mây đen ùn ùn vờn quanh rồng đen, tiếng bánh xe lăn vang ầm ầm như sấm dậy. Cảnh tượng mây cuốn theo rồng, trời rung đất chuyển ấy là cảnh uy nghi hùng tráng của đoàn xa giá Thủy Hoàng trên đường hồi kinh. Chỉ mấy ngày đoàn xe đã đến bến Bình Nguyên của nước Tề cũ (nay ở phía Nam huyện Bình Nguyên, Sơn Đông). Khi qua sông, Thủy Hoàng cố nhổm người dậy qua khe hở rèm xe nhìn sóng cuồn cuộn dưới thuyền liền nghĩ tới lý luận “Tần là đức thủy” do chính ông xác định. Lý luận này ông suy diễn từ lý thuyết về quan hệ giữa ngũ hành và ngôi báu của Trâu Diễn, nhà phong thủy thời kỳ Chiến Quốc: Hoàng đế có đức thổ, thì rồng vàng hiện ra trên mặt đất. Hạ có đức mộc, rồng xanh dừng lại ở ngoại đô, cây cỏ tốt tươi. Ân có đức kim, bạc đầy rẫy từ núi ra. Chu có đức hỏa có ấn phù chim đỏ. Nay Tần tiếp theo Chu, là vận vào đức thủy. Ngày xưa Văn Vương đi săn, bắt được rồng đen, đấy là điềm lành của đức thủy. Xem ra mình là con rồng đen ấy rồi, nhưng tại sao lại tự xưng là “Thủy Hoàng đế” nhỉ? Nay chữ “Thủy” đã thành ra chữ “Tổ”; “Tổ long năm nay sẽ chết”, lời sấm này là lá bùa dồn “Thủy Hoàng đế” ta vào chỗ chết?... Nghĩ tới đây Thủy Hoàng tự nhiên thấy đau trong bụng, thần trí hôn mê và bất tỉnh ngay tại chỗ ngồi. Thái y Hạ Vô Thả theo hầu bên cạnh vội vã bấm nhân trung, cho ngửi xạ hương, uống nước sâm, Thủy Hoàng mới dần dần hồi tỉnh. Cảm giác đau ở phần bụng phía bên phải ngày càng kịch liệt khiến người ông quằn quại. Hạ Vô Thả biết rõ bệnh tình càng nguy kịch thì càng phải nằm bất động, không thể để bị xóc được. Ông cùng Lý Tư, Triệu Cao, Mông Nghị khuyên Thủy Hoàng dừng xe lại để chừa bệnh. Thủy Hoàng tự biết bệnh tình rất nặng, nhưng một là tin rằng mình vẫn còn có thể gắng gượng được một thời gian nữa, hai là chỉ sợ băng hà trên đường đi thì quả là bất hạnh quá, hai vua Thuấn, Vũ đều ốm chết trên đường đi tuần thú. Lăng mộ các ông thật cô đơn lạnh lẽo. Mình một đời oanh liệt, làm sao lại chết trên con đường lạnh lùng vắng lặng thế này được? Cho nên ông không nghe lời khuyên can, dứt khoát cho xe tiếp tục đi. Quần thần không dám trái ý, đành phải lặng lẽ theo xe của Thủy Hoàng, tiếp tục đi giữa cái nắng mùa hè nóng bỏng, lòng dạ như thiêu đốt còn khốn khổ hơn cả nắng nóng trên đường. Đã nhiều lần thái y Hạ Vô Thả và mấy cận thần muốn tâu bày sự thực với Thủy Hoàng rằng bệnh của thánh thượng không thể cứu vãn được nữa rồi. Nhưng Thủy Hoàng tính tình hung bạo, tình cảm lại yếu đuối, hơn nữa lại rất ghét người ta nói tới chữ “chết”, nên mọi người đều không dám nói ra chuyện đó với ông; cùng lắm cũng chỉ nghẹn ngào tâu rằng: “Bệnh tình bệ hạ trầm trọng, nên nghỉ lại để chạy chữa là tốt nhất!”. Thủy Hoàng sốt cao hoài, đầu đau muốn vỡ ra, tâm thần bất định. Sau nhiều lần khuyên can của quần thần, đành miễn cưỡng gật đầu. Lý Tư lệnh cho đoàn xe đi chậm lại, quan sát dọc đường, tìm một nơi thích hợp gần nhất để cả đoàn người ngựa được nghỉ ngơi, để Thủy Hoàng được nằm yên, chữa trị tốt hơn, mong kéo dài thêm một thời gian nữa.
Đoàn xa giá cũng như bị ốm, tiếng trục xe òng ọc cót két ầm ĩ, tiếng thở gấp gáp, tiếng ngựa phì phì dưới cái nắng gay gắt, người và ngựa uể oải nặng nhọc kéo đi trong bụi vàng mù mịt. Mọi người nóng lòng sốt ruột nhìn quanh bốn phía, mong tìm được chỗ để cả đoàn người ngựa dừng chân. Quả nhiên, cách không xa phía trước bên phải có một sân bằng phẳng rộng rãi và một quần thể kiến trúc đồ sộ, mọi người phút chốc vui vẻ hẳn lên, tăng nhanh tốc độ. Đến nơi xem, thì ra là nền cũ của hành cung Sa Khâu (đồi cát) của nước Triệu xưa. Quần thần sững sờ, Thủy Hoàng càng tỏ ra hãi hùng, định lập tức ra lệnh quay xe đổi hướng, thì nhìn thấy một đám trẻ con đang nghịch. Tướng sĩ bèn hỏi đường, lũ trẻ ngây thơ trả lời: “Vùng này rộng dài mấy chục dặm đều là cồn cát, không có lối đi nào khác”. Thủy Hoàng bệnh đã quá nặng, không chịu nổi xe xóc nữa, liền khoát tay thều thào bảo: “Chẳng cần đi đâu nữa, nghỉ tại đây thôi”. Tất cả làm theo, dừng lại ở cung Sa Khâu, đưa Thủy Hoàng vào một gian tẩm thất mát mẻ, tránh được cái nắng nóng dữ dội bên ngoài, có lợi cho việc hạ bớt thân nhiệt, điều hòa bệnh tình. Hết bị xe xóc mệt mỏi, nằm trên giường bằng phẳng thư thái, bệnh tình Thủy Hoàng có phần thuyên giảm, tinh thần cũng tỉnh táo hơn. Nhìn trò chơi đắp cồn cát của đám trẻ vừa rồi, ông nghĩ tới mình đang ốm nằm trong hành cung Sa Khâu, nhớ lại sấm ngữ trên vách mộ Khổng Khâu ở Khuyết Lý: “Tần Thủy Hoàng, sao dám bạo ngược, mở cửa nhà ta, chiếm lấy giường của ta, uống rượu của ta, nhổ bọt vào nhà ta, đi tới Sa Khâu ngươi phải chết!” sao lại linh nghiệm đến từng chi tiết như vậy, rút cục tại sao lại đến nông nỗi này? Nhìn vào thành bại được mất gần bốn mươi năm làm vua của mình, tiêu diệt sáu nước, thống nhất thiên hạ, chấm dứt tình trạng chư hầu hỗn chiến mấy trăm năm, rõ ràng đấy là thành tích vĩ đại chưa từng có xưa nay; xe đi cùng một đường, chữ viết cùng một thứ, hành cùng một đạo, đánh đuổi Hung Nô, giữ nước yên dân, vỗ về các nước man di bốn phía, hẳn cũng là công lao văn võ nghìn năm sáng mãi. Cả như việc thực hiện chế độ quận huyện, di dời phú hào, dân đen có ruộng, tức là thực hiện biện pháp chủ trương trung ương tập quyền, ổn định xã hội, thi hành pháp trị, phồn vinh kinh tế, tất cả đều giành được thắng lợi có tính quyết định và hiệu quả rõ rệt... Vậy mà vì sao vẫn có nhiều thế lực đối địch như vậy? Chúng dùng đủ mọi cách chống lại mình trên mọi mặt như vậy? Ngẫm ngọn nguồn và ý nghĩa của những lời sấm ngữ rõ ràng không phải xuất phát từ ân oán cá nhân, mà là do mình đã làm dân chúng căm giận! Trước hết là việc đốt sách chôn nho. Hơn tám trăm kẻ sĩ đã bị chôn sống thê thảm. Tổ tông của họ Khổng Khâu làm sao mà không căm phẫn, không nguyền rủa mình? Lại còn chuyện phóng hỏa đốt Tương Sơn, chửi bới sỉ nhục con gái vua Nghiêu, hậu phi vua Thuấn, đốt thành tro bụi tất cả. Ta thật sự quá nông cạn, quá hẹp hòi!
Thủy Hoàng cho vời Mông Nghị tới, chân thành nói với các vị lão thần tâm phúc:
- Ta muốn lại tới lăng vua Nghiêu và Tương Sơn cúng tế vua Nghiêu và hai bà hậu phi Nga Hoàng, Nữ Anh, nhưng ta đã ốm đến thế này, Triệu Cao phải lo chăm sóc ta, Lý Tư phải thay ta trông coi chính sự, chỉ còn biết nhờ khanh làm thay ta việc này thôi.
Mông Nghị thấy nhà vua thành khẩn tha thiết, biết là lời lẽ tâm can của nhà vua, nhưng lúc này mà đi e không còn cơ hội gặp lại, cảm thấy đau đớn trong lòng, nước mắt lưng tròng, nghẹn ngào nói với Thủy Hoàng:
- Xin bệ hạ yên tâm chữa bệnh, tạm ngừng việc chính sự, vi thần xin thay bệ hạ cúng tế núi sông, làm xong xin về phục mệnh, hầu hạ bệ hạ, cùng về Hàm Dương. - Nói xong quỳ lạy, nước mắt như mưa, quay người lên ngựa, đi ngay tới lăng vua Nghiêu (nay ở đông nam huyện Bộc Sơn Đông).
Sai Mông Nghị đi rồi, Thủy Hoàng như cảm thấy đã làm xong một điều tâm nguyện quan trọng, trong lòng thấy yên ổn hơn, liền nhắm mắt dưỡng thần, dựa vào gối thiếp đi. Ông muốn lánh mình vào cõi hư không quên hết mọi công tội, vinh nhục, họa phúc, chẳng còn vui buồn, chẳng còn oán hận luyến tiếc. mặc cho tử thần đến đón tới một thế giới khác. Nhưng mấy chục năm nay chìm đắm trong quyền thế lợi lộc công danh, nỗi đam mê dồn đọng lại quá dày, quá sâu, tới giờ phút cuối cùng giữa cái sống và cái chết, Thủy Hoàng không những chẳng quên nổi, ngược lại suy nghĩ càng lung. Từ những dấu vết lịch sử của cung Sa Khâu nơi ông đang nằm dưỡng bệnh, Thủy Hoàng nghĩ đến Trụ Vương nhà Ân, Thương mất nước, xây dựng nên rừng thịt ao rượu tại đây, hoang dâm vô đạo, sủng ái con yêu tinh Đát Kỷ, giết chết trung thần Tỷ Can, tàn hại sinh linh, xâm lược khắp nơi, kết quả bị Chu Vũ Vương đánh bại, tự thiêu mà chết. Lẽ nào nay ta lại đi vào vết xe đổ của ông ta sao? Rồi ông nghĩ tới mình đã xây dựng lăng mộ Lệ Sơn, cung A Phòng, tàn sát trung phần, phi tần sáu nước, giết cả làng có thiên thạch rơi xuống, thi hành hình pháp khắt khe, lao dịch nặng nề... Thế nên trời căm giận giáng tai giáng họa, dân tình thù oán. Đúng như sách “Thượng thư - Thông Thệ” đã nguyền rủa: “Tàn hại kéo dài, ta và người đều chết”. Dân đã muốn liều chết cùng ta thì dẫu ta có lầu son gác tía, bạc vàng châu báu, há đâu được một mình hưởng thú vui? Xem ra ta đã ở vào thế muôn dân chống lại, người thân từ bỏ rồi. Lộng thần Ưu Chiên từng khuyên can ta: Chỉ có người không thích giết người mới thống nhất được thiên hạ, sao ta lại không nghe theo nhỉ? Sao cận thần tả hữu lại chẳng bao giờ nhắc nhở ta, cứ mặc cho đất nước vừa mới bình định được mấy năm lại rơi vào nguy cơ bị chia năm xẻ bảy? Xem ra các trọng thần ta tin cậy nhiều năm, chẳng qua chỉ là một lũ gian nịnh, lừa dối để lấy lòng, chẳng dám nói lời trung nghĩa, để giữ lấy con dường tước lộc, đã cam tâm vất bỏ vận nước mạng dân, vậy mà ta lại tin cậy họ, dựa vào họ tới mức nói gì cũng nghe theo. Tới bây giờ, có tỉnh ngộ lại thì cũng đã muộn rồi, sao không khiến người ta đau lòng khổ sở, muốn khóc cũng chẳng còn nước mắt nữa!
Đúng lúc Thủy Hoàng đang tự trách mình về những lỗi lầm và cảm thấy vô cùng đau khổ thì Lý Tư, Triệu Cao tháp tùng Hồ Hợi tới thăm hỏi bệnh tình. Thủy Hoàng đã chẳng còn chút cảm tình nào với Lý, Triệu, thấy bực bội trước vẻ khúm núm xun xoe của họ, bèn lắc đầu xua tay, bảo họ lui ra, chỉ giữ con nhỏ Hồ Hợi lại bên mình. Thủy Hoàng nằm ngửa, cố nén những cơn đau trong bụng và trên đầu, gượng mở cặp mắt đã đờ đẫn, âu yếm nhìn đứa con trai nhỏ đang đứng trước mặt và chợt nghĩ tới một chuyện lớn cực kỳ trọng đại: Do ông độc đoán chuyên quyền và đa nghi đa kỵ, tuy có “hơn vạn gái đẹp hậu cung” và hơn hai mươi người con trai nhưng chưa lập thái tử (Trong sử sách chỉ ghi “thê thiếp...” mà không có họ của hoàng hậu, có thể thấy Thủy Hoàng không chính thức sách phong hoàng hậu). Vì vậy, tới lúc sắp trút hơi thở cuối cùng này, ông mới nghĩ tới chuyện truyền ngôi cho ai. Tại hành cung Sa Khâu của nước Triệu xa xưa này ông nhớ lại một bi kịch lịch sử. Ngược dòng lịch sử hơn 190 năm trước, Triệu Võ Linh Vương vốn là một ông vua có tài cai trị đất nước đã đánh bại Hung Nô nhưng lại không quyết đoán trong việc lựa chọn thái tử, dẫn tới cảnh cha con thâm thù, anh em hiềm khích bị vây hãm trong cung Sa Khâu, cơ khổ một mình, chẳng có cái mà ăn, một đời quân vương rút cục bị chết đói. Vết xe đi trước là bài học cho người sau. Giờ đây Thủy Hoàng cũng đang đứng trước vấn đề khó khăn là giao phó giang sơn xã tắc lại cho ai. Theo tình thân sơ yêu ghét, ông rất có thể truyền ngôi cho Hồ Hợi, đứa con nhỏ của ông đang ở đây. Song thầy dạy của Hồ Hợi lại là Triệu Cao, một người trước đây ông đã từng hết sức tin cậy nhưng nay thì ông không còn tin nữa, vì thế Thủy Hoàng không thể không suy nghĩ thận trọng. Nếu Hồ Hợi kế vị làm vua tất sẽ bị Triệu Cao nắm trong tay rồi sẽ lại diễn ra bi kịch chính trị bạo ngược, hình phạt nặng nề, hại nước hại dân, trăm họ chống lại, người thân xa rời, trời giận dân oán. Cơ đồ suốt đời mình gây dựng, công lao mình khai sáng, tất sẽ chẳng còn gì và phút chốc sẽ tan tành. Vì vậy, lập Hồ Hợi làm thái tử chẳng khác gì gửi gà con cho diều hâu, tự tìm lấy diệt vong mà thôi!
Nghĩ đi nghĩ lại mãi cuối cùng Thủy Hoàng tuy đau khổ nhưng thoát ra được cái định kiến đã có hàng mấy chục năm nay chuyển hướng chọn người kế vị sang người con trưởng đã bị ông ta xa lánh nhiều năm, đó là Phù Tô. Khi mây mù thành kiến bị xua tan, ông đã nhìn thấy phẩm chất và ưu điểm tốt đẹp của Phù Tô. Trước hết, nó giống tiên phụ Tử Sở của mình, cũng là một người con bị ruồng rẫy thất sủng, không có những thói xấu và tính kiêu căng như các hoàng tử khác. ưu điểm là thực thà kiên nghị, tự cường hăng hái, hơn nữa tính tình thuần hậu, hiếu học và yêu người, siêng năng rèn luyện, cần mẫn thẳng thắn. Đặc biệt là tôn sùng Nho học, chủ trương nhân chính, quan tâm tới nỗi thống khổ của dân, sống liêm khiết, được trong triều ngoài nội ủng hộ. Tuy chưa được sách phong, nhưng đông đảo thần dân đều tôn xưng nó là “thái tử điện hạ”. Khá nhiều người trong hoàng tộc và đại thần, nhiều lần khuyên mình lập nó làm thái tử, nhưng bị bọn gian nịnh gây khó khăn và xúi bẩy, cộng với thiên kiến của mình, không những đã không nghe lời nói phải, lập Phù Tô làm thái tử, giao phó vận mệnh đất nước và con dân cho nó, kế thừa đại nghiệp còn dang dở của mình; ngược lại đã biếm truất đưa ra khỏi cung, đi xa tận biên ải Cửu Nguyên, chịu nhiều phong sương lao khổ. Nghĩ lại làm cha như mình thật sự là có lỗi với đứa con này! Điều đặc biệt đáng quý là, Phù Tô ở vào nghịch cảnh vẫn tự mình rèn giũa, nhẫn nhục gánh vác, ra sức làm việc, phò tá tướng Mông Điềm chỉ huy xây đắp Trường thành, ngoài chống Hung Nô, trong yên dân chúng, làm cho vùng đất đai rộng lớn các quận Cửu Nguyên không còn nghe thấy tiếng trống chiến trận, mà luôn vang tiếng đàn ca yên vui. Nó đã nhiều lần dâng biểu khuyên can mình phải thi hành nhân chính với dân, giảm nhẹ lao dịch và sưu thuế, không lãng phí, đề cao liêm khiết. Nó đặc biệt quan tâm tới sức khỏe của mình và thân thiện với các em... Lời nói của nó chân thành sâu sắc, hiếu với cha, yên mến các em, tỉnh táo trước những hiểm họa, thương dân lo cho đất nước. Ta tin rằng, phó thác giang sơn đại Tần cho Phù Tô, nó nhất định sẽ lo toan được chính sự, yêu nước thương dân, mang tài trí ra cai trị đất nước. Nhất là sẽ tôn sùng Khổng Mạnh, trọng dụng nho sinh, để nho sinh được vỗ về an ủi, để họ như muôn sao vây quanh mặt trăng, trăm chim chầu phượng hoàng, phò tá cho vị vua hiền minh này, cứu vãn lòng dân mà ta đã để mất, bảo vệ giang sơn đại thống nhất mà ta đã tốn bao công sức mới có được. Qua nhiều năm đích thân làm việc, Phù Tô đã có đầy đủ tài năng chỉ huy quân lính, lại được sự hợp tác chặt chẽ thân thiết của tướng Mông Điềm, nhất định chống được Hung Nô, để giang sơn vững bền mãi mãi. Và lời sấm ngữ của tên yêu đạo Lư Sinh “Vong Tần giả tất Hồ dã” sẽ hoàn toàn tan biến... Nghĩ tới đây, mạch suy nghĩ của Thủy Hoàng chợt dừng lại ở chữ “Hồ” trong câu sấm ngữ. Lâu nay Thủy Hoàng chỉ nghĩ chữ “Hồ” này là ám chỉ bộ lạc Hung Nô ở giáp biên giới phía Bắc, luôn đến xâm phạm quấy nhiễu biên cương, tính cách dân tộc này hung hãn, ham chiến thiện chiến, lâu nay nhòm ngó Trung Nguyên, dã tâm tiêu diệt nhà Tần rõ như ban ngày. Nhưng rất nhiều liên tưởng lúc này đã khiến ông ý hiểu ra chữ “Hồ” trong sấm ngữ có quan. hệ đến Hồ Hợi. Vậy là đứa con nhỏ Hồ Hợi sẽ trở thành mối nguy hiểm nhất. Vì nó quá yếu hèn, ích kỷ, nhất là nhiều năm được nịnh thần Triệu Cao dạy dỗ, chờ mình hai tay buông xuôi về chầu trời, nó sẽ rơi vào vòng tay Triệu Cao để mặc cho lão chi phối, thao túng và Hồ Hợi chỉ còn là một “ông vua trẻ con” bảo sao nghe vậy. Nếu không vừa ý Triệu Cao, lão sẽ rất dễ dàng đứng ra thay thế ngay. Dù kết cục thế nào, thì nước đại Tần của ta sẽ mất bởi tay “Hồ” rồi! Nếu thực sự như vậy, thì sấm ngữ “vong Tần giả Hồ dã” đã nói quá rõ ràng rồi. Nhưng Thủy Hoàng đế là người đã khai sáng ra thế cục đại thống nhất thiên hạ này, chỉ cần còn một hơi thở cũng quyết không thể để cho sấm ngữ ứng nghiệm. Sự chọn lựa duy nhất là lập con trưởng Phù Tô làm thái tử, thừa kế cơ nghiệp của mình. Phù Tô đã kết giao thân thiết với Mông Điềm, nhất định phối hợp chặt chẽ với nhau chống lại Hung Nô, phá tan họa “Hồ” bên ngoài. Phù Tô lại có thể đoàn kết các lực lượng chính nghĩa trong hoàng tộc và triều đình, ngăn chặn và đàn áp họa “Hồ” bên trong của bọn nghịch tử loạn thần muốn cướp đoạt chính quyền, bảo đảm chắc chắn cho giang sơn đại Tần bất vong bất bại. Thủy Hoàng thật không hổ thẹn là anh hùng một thời vào lúc gần đất xa trời, vẫn suy nghĩ sâu sắc, giải thoát mình khỏi những trói buộc, tỉnh ngộ hối cải, gạt bỏ sai trái quay lại chính nghĩa, khiến con thuyền vận nước mệnh dân bị chính mình làm cho sắp chìm, trở lại con đường đi đúng hướng, vẫn trở được đất nước đại Tần tiếp tục vững vàng đi lên. Quyết định như vậy, Thủy Hoàng bèn bảo Hồ Hợi đi gọi Triệu Cao đến ngay và dặn con tạm thời tránh mặt. Hồ Hợi đau khổ quay đầu nhìn gương mặt xám ngoét của cha rơi nước mắt ra khỏi tẩm cung.
Triệu Cao được Hồ Hợi truyền chỉ, vội vã vào tẩm cung tới trước giường thăm hỏi bệnh tình thánh thượng, thấy mạch yếu, hơi thở ngắn gấp, mắt đờ đẫn, môi khô se, biết đã nguy kịch rồi, bất giác đau lòng rơi lệ khóc không thành tiếng. Thủy Hoàng tuy đã sắp tắt thở, mừng rằng đã có quyết sách, cố gượng không để lộ vẻ bi thương, vẫn bình tĩnh nói:
- Ta tự biết mình không sống lâu, khóc cũng vô ích, đừng quá bi thương!
Triệu Cao nghẹn ngào hỏi nhà vua có di chúc lại gì không, Thủy Hoàng bảo ông ta mau đem nghiên bút ngọc tỷ đến. Triệu Cao là Trung xa phủ lệnh kiêm quản ngọc tỷ, vội cấp tốc mang đến, trải tấm lụa lên cạnh giường bên tay ông, Thủy Hoàng gắng gượng nghiêng người dậy, đón lấy bút lông, chấm mực, run rẩy viết di chiếu cho con trưởng Phù Tô lên tấm lụa. Chiếu viết: “Giao quân lại cho Mông Điềm về Hàm Dương làm tang lễ và chôn cất”. Viết xong, ngắm nhìn một lát mới đưa trả bút Triệu Cao, nhìn Triệu Cao ấn dấu ngọc tỷ gấp di chúc, buộc đai dây thao, xong mới yên tâm nằm xuống. Ông trịnh trọng nghiêm trang bảo Triệu Cao lập tức cử ngay khinh kỵ đưa tới cho con trưởng Phù Tô tại đốc quân Thượng quận, đích thân đọc và dặn linh cữu loan giá ngay sau đó tới Cửu Nguyên hội hợp với Phù Tô, rồi về Hàm Dương tổ chức tang lễ. Nói xong ngả người nằm xuống, hơi thở yếu dần và ngừng hẳn, hai mắt từ từ khép lại, tim ngừng đập. Tần Thủy Hoàng con người kiêu hùng một thời đã sáng tạo nên công lao vĩ đại chưa từng có trên đời, đã gây ra bao thảm án oan nghiệt muôn đời còn mãi, đã tận hưởng mọi vinh hoa phú quý, mọi lạc thú tinh thần và thể xác đã vỡ mộng thoát tục nên tiên và trường sinh bất tử đã hối tiếc vô hạn về sự nghiệp chưa xong, đang tha thiết trông chờ vào con trưởng Phù Tô, trên đường đi tuần du đã băng hà ở hành cung Sa Khâu của nước Triệu cũ. Chấm dứt một cuộc đời đầy màu sắc thần kỳ, đậm ý nghĩa lịch sử và cũng rất giàu giá trị nghiên cứu. Hưởng thọ năm mươi tuổi, mất vào ngày Bính Dần tháng bảy năm Thủy Hoàng thứ ba mươi bảy (năm 210 trước Công nguyên).
Triệu Cao theo hầu Thủy Hoàng hơn hai mươi năm, ân sủng vinh hoa hưởng gấp bội phần. Giờ đây Thủy Hoàng băng hà, sinh ly tử biệt, dĩ nhiên ông vô cùng đau thương, nhưng vội bình tĩnh kìm chế tình cảm suy nghĩ tới mình phải cùng Hồ Hợi mưu việc thành bại, vinh nhục cùng nhau, bằng không thì tình thế và tiền đồ từ nay về sau rất khó lường. Vì vậy, nhất định phải làm ngược lại di chiếu, thừa lúc sơ hở, rối ren mà giành lấy thắng lợi. Ông giấu kín ngọc tỷ và di chiếu Thủy Hoàng viết cho con trưởng Phù Tô, sau đó báo cho Hồ Hợi biết Thủy Hoàng đã chết. Hồ Hợi gục người trên thi thể phụ hoàng khóc lóc thảm thiết. Triệu Cao vội ngăn lại, thánh thượng chết trên đường đi nơi đất lạ. Nếu tin này lan ra e rằng hoàng thất và quân đội nảy sinh náo loạn, tình hình sẽ rất khó kiểm soát.
Hồ Hợi vội nén đau thương lau nước mắt, vái ông ta xin kế sách. Triệu Cao liền gọi cho thừa tướng cùng mấy cận thần, thái giám đã thay nhau trông nom lúc vua đau ốm đến báo tin Thủy Hoàng đã chết. Lý Tư chủ trương giữ bí mật không phát tang để thi thể Thủy Hoàng nằm trong xe, tiếp tục theo hướng Tây về Hàm Dương. Các quan có việc trình tấu và dâng đồ ăn uống, vẫn làm theo phương thức và trình tự như lúc còn sống, do thái giám thị vệ tiếp nhận và xử lý. Khi mọi việc thu xếp xong xuôi việc ám muội lấy chết thay sống chưa bại lộ, tâm trạng của quần thần và tướng sĩ theo hầu ổn định, Triệu Cao mới nói với Hồ Hợi:
- Thánh thượng băng hà không để lại di chiếu phong hoàng tử nào làm thái tử, chỉ có một phong thư đích thân viết cho con trưởng Phù Tô. Phù Tô nhận được thư, sẽ danh chính ngôn thuận kế vị làm hoàng đế còn công tử thì chẳng được một tấc đất, bây giờ phải làm sao đây?
Hồ Hợi bảo:
- Thì cứ làm như thế thôi. Tôi nghe nói, đức vua anh minh hiểu bề tôi của mình nhất, người cha sáng suốt hiểu con mình nhất. Phụ hoàng đã băng hà, đối với các con không có sắc phong gì cả tôi còn biết nói thế nào.
Triệu Cao nham hiểm nói:
- Không phải như vậy đâu. Bây giờ quyền bính đất nước còn hay mất do công tử quyết định. Thần và thừa tướng Lý Tư mong công tử phải suy nghĩ thận trọng. Huống hồ, việc làm chủ bề tôi hoặc làm bề tôi cho người khác, cai trị người ta hay bị người ta cai trị, há chẳng đã rõ như ban ngày đó sao?
Hồ Hợi nói:
- Phế truất huynh trưởng để em lên làm vua là việc làm bất nghĩa; không có chiếu lệnh của phụ hoàng mà làm trái là thể hiện bất hiếu; tài năng kém cỏi mà cướp công người khác là hành vi vô đạo; ba việc đó đều trái với đạo lý, sẽ khiến thiên hạ không phục, bản thân sẽ rơi vào nguy khốn, xã tắc sẽ nghiêng ngả, như vậy chẳng phải là hủy hoại cơ nghiệp tổ tông hay sao?
Triệu Cao nói:
- Thần nghe nói, Thương Thang và Chu Vũ Vương đều giết vua của mình. Thiên hạ khen họ đã làm việc đại nghĩa, biết lo cho đất nước. Vua Vệ giết cha, trong triều ngoại nội đều cảm phục ơn đức. Khổng Tử viết sách ghi chép việc này, đã không nói họ bất hiếu. Vì thế, phàm những việc quan hệ tới quốc gia đại sự, đều không cần quá chấp nê nhỏ nhặt, tự mình có đức cao, gặp được thời cơ không nên khiêm nhường. Mọi việc trên đời đều phải biết thích nghi, công lao của trăm quan đâu có hoàn toàn giống nhau, cho nên chú ý việc nhỏ mà quên việc lớn thì hậu họa sẽ rất nhiều; trù trừ không quyết đoán, do dự không dứt khoát thì sau hối không kịp. Hành sự quyết đoán thì quỷ thần cũng sợ hãi lánh xa, nghiệp lớn chắc chắn thành công. Mong công tử làm theo đề nghị của thần.
Hồ Hợi thở dài nói:
- Nay việc tang của phụ hoàng còn chưa bố cáo, tang lễ còn chưa cử hành, sao lại có thể đem việc này đến làm phiền thừa tướng được?
Triệu Cao nói:
- Thời gian gấp gáp, giây phút cũng không được chậm trễ, trù trừ một chút là không kịp đâu? Nhân lúc trong tay còn đầy đủ xe mã, quân mạnh, lương thực dồi dào, phải nhanh chóng ra tay, bỏ lỡ thời cơ là hỏng tất cả!
Triệu Cao sau khi thấy Hồ Hợi bị những lý lẽ và cơ mưu của mình thuyết phục, đã thuận nghe theo bèn dấn thêm bước nữa:
- Đại sự thế này, không bàn bạc với thừa tướng, không thể thành công được, thần sẽ thay công tử đi bàn mưu với thừa tướng để cùng làm việc này.
Vào một đêm khuya dừng chân nghỉ lại, Triệu Cao mời thừa tướng Lý Tư vào một phòng kín đáo, vẻ nghiêm nghị nói:
- Thánh thượng có đích thân viết một phong thư mật để lại cho con trưởng Phù Tô bảo đến Cửu Nguyên đón linh cữu, rồi tới Hàm Dương chủ trì tang lễ, sau đó lập làm thừa tự, kế thừa ngôi vua. Phong thư này chưa đưa đi thì thánh thượng đã băng hà. Thư viết cho con trưởng Phù Tô và Vương Phù ngọc tỷ vẫn còn ở chỗ Hồ Hợi. Việc định ai làm thái tử, nhân lúc chưa ai biết nội tình, chỉ một câu nói của ông và tôi là xong.
Lý Tư bèn trách mắng Triệu Cao:
- Sao ông lại dám nói ra những lời thoán nghịch mưu toan cướp ngôi hại nước như vậy được. Đấy không phải là việc của những kẻ bề tôi như ông và tôi được bàn bạc!
Triệu Cao nghiêm giọng nói với Lý Tư:
- Xin thừa tướng tự mình lượng sức. Thừa tướng có sánh nổi Mông Điềm hay không? Công lao có bằng Mông Điềm hay không? Suy nghĩ sâu xa và chín chắn có sánh bằng Mông Điềm không? Được khắp thiên hạ ủng hộ có bằng Mông Điềm không? Cảm tình với con trưởng Phù Tô có bằng Mông Điềm không?
Lý Tư buồn rầu trả lời:
- Cả năm mặt ấy tôi đều không bằng Mông Điềm. Nhưng sao ông lại nghiêm khắc trách móc tôi như vậy?
Triệu Cao rất tự tin nói với Lý Tư:
- Triệu Cao tôi chẳng qua chỉ là tên đầy tớ trong nội cung để người ta sai bảo. Cũng may nhờ tinh thông pháp luật và chữ nghĩa nên được vào cung đình nước Tần, coi sóc công việc nội cung đã hơn hai mươi năm nay. Chưa bao giờ thấy các vua đời sau của nhà Tần tái phong cho các thừa tướng và công thần, họ đều bị giết cả. Hai mươi mấy người con của hoàng đế, ông đều hiểu rõ. Con trưởng Phù Tô cương nghị vũ dũng, tin cậy quân thần, khuyến khích chí tiến thủ của mọi người. ông ta lên làm vua nhất định sẽ phong Mông Điềm làm thừa tướng. Khi đó chẳng lẽ ông lại không mang theo ấn tín quân hầu mà trở về quê cũ hay sao, sự thể đã rõ ràng rồi. Triệu Cao tôi phụng chiếu chỉ hoàng đế làm thầy dạy học cho Hồ Hợi, dạy công tử pháp luật đã nhiều năm, chưa thấy công tử có sai sót gì. Công tử tuy ngôn từ không giỏi nhưng là người nhân từ trung hậu, khinh tài trọng sĩ, thông minh mẫn tiệp, biết lẽ phải trái, đối xử với mọi người lễ phép, rất tôn trọng hiền sĩ, các hoàng tử khác không thể sánh nổi, tôi thấy có thể lập làm thái tử. Ông xem xét và quyết định đi thôi.
Lý Tư nghiêm sắc mặt nói:
- Ông muốn cướp ngôi phải không? Tôi tuân theo di chiếu của thánh thượng, nghe theo mệnh trời, làm sao lại có thể do tôi suy nghĩ quyết định được?
Triệu Cao gợi ý:
- Mọi chuyện đều có thể từ yên đến loạn, cũng có thể chuyển nguy thành yên. Bây giờ yên nguy chưa định được, làm sao biết chúng ta là người sáng suốt được?
Lý Tư than thở:
- Lý Tư tôi vốn là kẻ sĩ áo vải sống nghèo nơi ngõ hẻm, được Thủy Hoàng tin dùng, phong làm thừa tướng, phong làm Thông hầu, con cháu đều được hưởng quan cao bổng hậu. Thánh thượng giao phó cho tôi trách nhiệm nặng nề về sự yên nguy mất còn của xã tắc, tôi làm sao dám phụ lại sự phó thác của Thủy Hoàng?... Xin ông đừng nói nữa, đừng để tôi phải phạm tội.
Triệu Cao vẫn ra sức thuyết phục:
- Tôi nghe nói, người hiểu biết không khư khư giữ quy tắc mà phải biết thay đổi, thuận theo tình thế, biết ngọn ngành thì cũng phải hiểu gốc rễ, nhận ra xu thế, phải biết nó đi về đâu... Nếu vận mệnh đất nước bây giờ thuộc về Hồ Hợi, chúng ta sẽ được thỏa nguyện!... Làm sao ông lại chậm hiểu như vậy, không nhìn thấy mối quan hệ nhân quả này sao?
Lý Tư vẫn không chịu nghe theo:
- Tôi nghe nói, ngày xưa Tấn Công phế Thân Sinh lập Hề Tề làm thái tử, khiến ba đời rối loạn không yên; Tề Hoàn Công và công tử Kiểu, hai anh em tranh nhau ngôi vua, kết quả bị giết chết; vua Trụ nhà Thương giết thân thích, không nghe trung thần can ngăn khiến đất nước diệt vong. Ba việc làm trên đều làm trái đạo trời, tông miếu hoàng tộc tan hoang, không tổ chức nổi quốc lễ dâng tam sinh huyết thực cúng tế tổ tông. Lý Tư tôi sao có thể làm theo họ như vậy được? Dù thế nào tôi cũng không thể theo ý của ông được!
Triệu Cao thấy Lý Tư vẫn nhất quyết không chịu làm theo mình, liền vừa cương vừa nhu, vừa dụ dỗ vừa đe dọa nói:
- Vua tôi trên dưới đồng tâm hiệp lực, có thể làm cho vận nước trường cửu, trong ngoài một lòng, sẽ tạo nên sự thống nhất. Nếu ông nghe theo mưu kế của tôi sẽ được phong hầu ban tước lâu dài, đời đời xưng hầu, xưng vương, chắc chắn được hưởng thọ dài lâu như cây tùng cây bách, được tôn vinh có tài trí như Khổng Tử, Mặc Tử. Nếu ông cự tuyệt không chấp nhận kế sách của tôi, chẳng những khó bảo toàn tính mạng, mà còn gây tai họa cho con cháu, thật sự khiến người ta lo sợ cho ông. Người giỏi tùy cơ ứng biến, mới có thể chuyển nguy thành an, chuyển họa thành phúc, bằng không thì sẽ biến an thành nguy, biến phúc thành họa. Vào giây phút cuối cùng mà an nguy họa phúc có thể đổi thay trong chốc lát này, xem ông chọn lựa như thế nào?
Lý Tư cuối cùng đã khiếp đảm trước sự đe dọa dụ dỗ của Triệu Cao, ngẩng mặt lên trời thở dài, rơi nước mắt mà than: “Ôi! Một mình gặp phải thời loạn đã không thể chết còn biết gửi tính mạng vào ai?”. Tới lúc này, Lý Tư đành phải làm theo âm mưu của Triệu Cao. Triệu Cao đắc ý về phụng mệnh Hồ Hợi nói:
- Thần đã nói rõ để Lý Tư quyết định lập công tử làm thái tử, ông ta đâu dám không tuân theo!
Hồ Hợi cả mừng, liền gọi Lý Tư tới, ba người bí mật bàn mưu tính kế, giả danh Thủy Hoàng ra chiếu chỉ cho thừa tướng Lý Tư, lập con nhỏ Hồ Hợi làm thái tử. Rồi do Lý Tư chấp bút, bắt chước chữ Thủy Hoàng, viết cho con trưởng Phù Tô và tướng Mông Điềm một chiếu thư, chiếu viết:
Trẫm đi tuần du thiên hạ, tế lễ cho các thần ở Danh Sơn để thêm tuổi thọ. Nay Phù Tô và tướng Mông Điềm, chỉ huy mấy chục vạn quân trấn giữ biên cương, đã hơn mười năm rồi mà không tiến được chút nào, sĩ tốt thiệt hại nhiều, chẳng lập được công gì, lại còn nhiều lần dâng biểu phỉ báng việc làm của trẫm, vì không được triệu về làm thái tử mà ngày đêm oán trách. Phù Tô là đứa con bất hiếu, nay ban cho gươm để tự xử! Tướng Mông Điềm cùng Phù Tô ở biên cương không uốn nắn, rõ ràng là đồng mưu. Là bề tôi mà bất trung, nay ban cho tội chết, sĩ tốt giao cho phó tướng Vương Ly.
Chiếu thư giả viết xong, gấp phong lại, buộc dây thao, đóng đấu mực tía, cử môn khách của Hồ Hợi làm sứ giả, đưa ngay tới Thượng quận, bắt tội chết con trưởng Phù Tô và tướng Mông Điềm.
Sứ giả phi ngựa tới Thượng quận, mở phong ấn, tuyên đọc chiếu thư, Phù Tô nghe xong, vô cùng đau buồn, đi vào nội thất, chuẩn bị tự sát. Mông Điềm vội ngăn Phù Tô lại, cảnh giác bảo rằng:
- Bệ hạ chưa lập thái tử, lệnh cho thần chỉ huy ba mươi vạn quân bảo vệ biên thùy, lệnh cho công tử làm giám quân, đó là trách nhiệm nặng nề trước giang sơn xã tắc. Bệ hạ tuần thú ở ngoài, nay sứ giả tới bắt công tử tự sát, biết đâu họ đã giả mạo thì sao? Có thể thỉnh thị lại lần nữa, thỉnh thị xong rồi chết cũng chưa muộn.
Sứ giả một mực thôi thúc Phù Tô làm theo chiếu thư tự sát Phù Tô là người nhân hậu, không dám nghi ngờ, liền nói với Mông Điềm:
- Phụ hoàng ban cho ta cái chết, chẳng nên hỏi lại nữa!
Nói xong đâm cổ tự tử. Nhưng Mông Điềm không chịu chết một cách oan uổng, sứ giả giao ông cho phủ quan, giam vào ngục Dương Châu.
Sứ giả về báo cáo tình hình với Hồ Hợi. Hồ Hợi, Lý Tư, Triệu Cao đều cả mừng, lệnh cho đoàn xe theo đường Tỉnh Hình đến Cửu Nguyên. Khi đó đúng vào lúc giao thời hạ sang thu, thời tiết rất nóng, thi thể Thủy Hoàng thối bốc mùi lên, Triệu Cao lệnh cho quan tùy tòng đem tới một xe cá ướp nối sau xe Thủy Hoàng, để làm lẫn lộn với mùi thối của thi thể Thủy Hoàng.
Đoàn xe chạy thẳng về Hàm Dương. Tin buồn Thủy Hoàng băng hà được bố cáo, tiếp đó tuyên đọc di chiếu giả do Lý Tư viết, lập Hồ Hợi làm thái tử, và lên ngôi ngay, lấy hiệu là hoàng đế Nhị Thế. Tháng chín, chôn cất Thủy Hoàng ở Lệ Sơn, tháng mười đổi niên hiệu là hoàng đế Nhị Thế nguyên niên, đại xá tội nhân trong thiên hạ, Lý Tư vẫn là thừa tướng, Triệu Cao làm Lang trung lệnh. Nhị Thế hoang dâm vô độ, bỏ mặc chính sự, quyền bính trong triều thực tế nằm trong tay Triệu Cao. Lời sấm truyền “Vong Tần giả Hồ dã” đã ứng nghiệm. Nơi cửu tuyền Thủy Hoàng có biết việc này? Không biết sẽ than thở như thế nào?
Điều khiến người đời phải suy ngẫm là khi Thủy Hoàng mười ba tuổi lên ngôi vua và đã bắt đầu cho xây dựng lăng mộ mình tại Lệ Sơn, công việc liên tục kéo dài mãi tới khi ông ta băng hà năm năm mươi tuổi mới ngừng. Bắt đầu và kết thúc việc xây dựng lăng mộ khớp với việc bắt đầu và kết thúc thời gian ông làm vua, lẽ nào đây là một sự trùng hợp ngẫu nhiên? Lại nữa, người Trung Quốc xưa kia đã có sự tổng kết khái quát về quá trình trưởng thành, thuần thục ở một con người, nói rằng: Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng, tâm sở dục bất du cử (ba mươi tuổi lập thân, bốn mươi tuổi không gì không hiểu, năm mươi tuổi biết mệnh trời, sáu mươi tuổi nghe lời nói hiểu biết cặn kẽ, bảy mươi tuổi làm theo ý muốn, không vượt quá phép tắc). Nhìn vào cuộc đời của Thủy Hoàng lại thấy ba mươi tuổi đại lập thân, bốn mươi tuổi thì bị mê hoặc quá nhiều (ăn chơi bừa bãi, mê tín quỷ thần, truy cầu trường sinh bất tử), tới năm mươi tuổi thì “đi xa” (chết), vẫn chưa biết được mệnh trời mà còn chết rất đỗi thê thảm, di chiếu bị sửa đổi, con trưởng Phù Tô phải chết oan uổng, con nhỏ Hồ Hợi giết anh, viết giả chiếu chỉ, chiếm ngôi xưng đế, thực tế chỉ là bù nhìn “một ông vua trẻ con”, quyền bính rơi vào tay hoạn quan Triệu Cao. Điều rất đáng nói là thể xác của “Tổ long” của “tiên chân nhân” chẳng những không tới được chốn cửu trùng vời vợi, không tới được Bồng Lai tiên cảnh, mà nằm dài trong chiếc xe chật chội, bị cái nắng nóng ghê gớm thiêu đốt, làm cho thối rữa, sinh dòi bọ, buộc phải làm bạn với cá thối, khiến mọi người phải bịt mũi tránh xa. Tình cảnh ấy, Thủy Hoàng cố nhiên không thể biết được, nhưng đã để lại cho người đời sau này biết bao nhiêu điều bí ẩn, biết bao nhiêu điều phải suy nghĩ. Điều khiến người ta rất hứng thú và cũng không thể hiểu được là: Theo cách tính tuổi truyền thống của Trung Quốc thì “nam tính hư, nữ tính thực”. Thủy Hoàng hưởng thọ năm mươi tuổi là tuổi hư còn tuổi thực là bốn mươi chín, vì vậy cho tới lúc chết vẫn chưa biết được mệnh trời. Cũng như vậy, thời gian làm vua là ba mươi bảy năm nhưng thực tế chỉ có ba mươi sáu năm. Con số ba mươi sáu này vừa khớp với con số gọi là “chu kỳ ba mươi sáu” trong thiên văn, tinh tượng, lịch pháp cổ đại Trung Quốc. Vì thế, Thủy Hoàng làm vua ba mươi sáu năm, vừa tròn con số “chu kỳ ba mươi sáu”, lúc này mà bắt “Tổ long” chầu trời, với bản thân ông ta tuy đáng tiếc, nhưng không thiệt, còn đối với quần thần chúng dân đang bị đày ải thì lại là việc “đại hỷ” có khi cầu mà không được.
Lại nói, tháng chín năm ấy, Nhị Thế Hồ Hợi tổ chức quốc tang cho Thủy Hoàng cực kỳ lãng phí. Lăng mộ Thủy Hoàng ở phía bắc Lệ Sơn, cao mấy chục trượng, sân trong rộng dài năm dặm, sân ngoài rộng dài mười hai dặm, trên trồng cây cối, một tòa lăng sừng sững. Vách trong mộ thì xẻ núi khoan đá, đúc đồng làm quách ngoài, chặn đứng ba dòng suối ngầm, chu vi hơn ba mươi dặm. Vòm mộ vẽ hình tinh tú thiên văn, mặt đất dùng thủy ngân tạo thành hình thế sông núi, có bốn biển, trăm sông, ngũ nhạc, cửu châu. Khắp nơi trang điểm ngọc châu phỉ thủy, tầng giữa là nơi thưởng ngoạn, vui chơi, tầng trên là núi đồi và vườn rừng. Bố cục và sắp đặt cung điện, đạo quán, chỗ ngồi của bá quan đều giống hệt trên trần gian. Còn lệnh cho thợ chế tạo cung nỏ máy, ai đến gần cửa cung sẽ bị cung nỏ tự động bắn chết. Đỉnh vòm mộ khảm nạm dạ minh châu tượng trưng cho mặt trời mặt trăng, trong cung điện treo lơ lửng ngọc nhật nguyệt, ngày đêm chiếu sáng, những chỗ khác đều đốt đèn dầu, chất đốt là keo cá tinh luyện từ con giao long Thủy Hoàng bắn chết ở vùng biển Chi Phù, nghe nói có thể cháy sáng rất lâu không tắt.
Trước Thủy Hoàng, các đế vương sau khi hạ táng chỉ xây mộ, hình dáng một ngọn đồi, không xây thêm kiến trúc nào khác. Nhưng bắt đầu từ Thủy Hoàng trước mộ xây đền miếu, sau mộ xây tẩm thất, hoàn toàn bắt chước nơi ở trên cõi trần. Trong đền thờ bài vị của chủ mộ để cúng bái bốn mùa. Trong tẩm thất có mũ áo, kỷ án và gậy chống, tượng trưng sống mãi trên nhân gian. Vì tẩm thất phối trí đồng bộ với lăng mộ, nên gọi là “lăng tẩm”. Đó cũng là một chế độ lễ nghi bắt đầu từ Thủy Hoàng và kéo dài tới tận ngày nay, tạo nên một cảnh quan lăng mộ bao gồm một hệ thống kiến trúc mộ địa, vườn rừng mang tính chất kỷ niệm, như Lăng đời Đường, Thập tam lăng đời Minh, quần thể mộ táng vua đời Thanh có quy mô hoành tráng, thể chế hoàn hảo, bài trí sang trọng, trở thành những danh thắng cổ tích có ý nghĩa lịch sử và giá trị nghệ thuật cao.
Thủy Hoàng tuy đã chết, song vẫn còn tàn sát điên cuồng và đàn áp dã man nhân dân. Nhị Thế Hồ Hợi theo ngự chỉ phụ hoàng truyền lại, đã chôn sống tất cả hơn một vạn phi tần, tỳ thiếp, cung nhân nơi hậu cung từng được Thủy Hoàng sủng ái nhưng không có con. Thương thay cho những cô gái ở sáu cung này, thường ngày thì bị thú tính của tên bạo chúa chà đạp, khốn khổ hết chỗ nói, giờ đây lại bị lùa vào trong huyệt mộ để chôn sống, cảnh thê thảm đó ra sao, hình dung cũng đủ thấy. Đám thợ làm mấy công đoạn cuối cùng, chế tạo lẫy nỏ tự động, phòng bí mật, vận chuyển cất giấu các đồ vàng bạc, châu báu, kể tới trên vạn người cũng bị nhốt trong hai đường hầm thông xuống đáy mộ, bị ngạt thở rồi chết hết. Đấy là hành động bạo ngược hiếm thấy trên thế giới từ cổ chí kim, cũng là biểu hiện của tính cách và tư tưởng bá chủ “người ta có, ta nhất định phải có; người ta không có, ta cũng nhất định phải có; người ta làm được, ta nhất định phải làm được; người ta không làm được, ta cũng nhất định phải làm được” của Thủy Hoàng. Và tư tưởng, tính cách này không những đã di truyền cho Nhị Thế Hồ Hợi, mà còn được đám bày tôi “thân tín” mà ông để lại cho con ông như bọn Lý Tư, Triệu Cao phát huy ngày càng mạnh mẽ, ngày càng tàn bạo trong việc giúp Nhị Thế Hồ Hợi làm điều bạo nghịch, để cuối cùng làm bùng nổ cuộc đại khởi nghĩa của nông dân, thế như bão táp, chỉ trong mấy năm đã phá tan nát vương triều nhà Tần hủ bại thối nát. Nhà Tần bị diệt vong, lời sấm truyền “Vong Tần giả Hồ dã” một lần nữa ứng nghiệm.