Chương 40
Ngày hôm sau, sau khi khởi hành được một tiếng thì chúng tôi ra được khỏi khu rừng thông và hiện ra trước mắt chúng tôi là một thung lũng phủ đầy tuyết trắng. Phía bên phải thung lũng, nằm trơ trọi trên triền đồi là một dãy nhà thờ khá đồ sộ và cổ kính, với những chiếc tháp chuông xây bằng gạch tối màu nổi bật trên nền tuyết trắng.
Ở phía bên trái, trên triền đồi đối diện, một nhà thờ thứ hai đang nhìn thẳng qua thung lũng sang nhà thờ thứ nhất. Nó khoác trên mình màu áo trắng toát của đá vôi hoặc đá cẩm thạch và trông thậm chí còn cổ kính và lộng lẫy hơn cái đầu tiên. Một thị trấn nhỏ đang nằm nép mình dưới chân ngôi nhà thờ thứ hai.
Có hai tấm biển đề. Quốc lộ 52 và Chào mừng tới thị trấn St.Donatus . Đứng từ xa chúng tôi đã nhìn thấy dấu chân trên tuyết ở khắp các con đường trong thị trấn. Một vài đoạn, tuyết thậm chí đã được dọn sạch hai bên vỉa hè. Darla và tôi quyết định men theo con đường mòn bên ngoài thị trấn. Trong hoàn cảnh hiện nay sẽ chẳng ai muốn chia sẻ thức ăn với người lạ, không phải chỉ một mà tận hai người. Và nếu họ đã không muốn giúp thì chúng tôi cũng chẳng nên mạo hiểm cho họ lý do để tấn công mình.
Cách St.Donatus không xa là một con đường nhỏ đi qua nhà thờ màu trắng, về hướng Đông. Chẳng hiểu sao lúc đi trên con đường nằm giữa hai ngôi nhà thờ cổ ấy, tôi cứ có cảm giác chúng đang nhìn xuống và cầu nguyện cho cuộc hành trình của chúng tôi. Có thể là do ảnh hưởng của đêm hôm trước, nhưng tôi thấy lạc quan và tràn trề hy vọng hơn bao giờ hết, kể từ khi rời khỏi Worthington.
***
Chiều hôm đó, hy vọng bắt đầu rời bỏ tôi. Con đường vốn vẫn đang hướng thẳng về phía Đông đột nhiên trở lên lắt léo khó đoán, khiến tôi hoàn toàn mất phương hướng không biết mình đang đi về đâu. Darla nói chúng tôi vẫn đang đi đúng hướng Đông, nhưng cô ấy cũng nói đáng ra giờ chúng tôi đã gặp sông Mississippi rồi mới phải. Suốt dọc đường, chúng tôi chỉ gặp có đúng hai trang trại, nhưng đều có người ở nên chẳng dám lại gần.
Ngay trước khi trời tối hẳn, Darla phát hiện ra một ngôi nhà bỏ hoang bên cạnh đường. Cô ấy trượt thật nhanh về phía đó và tìm thấy một cánh cửa mở ra từ đằng trước.
Trần của ngôi nhà này thấp hơn mức bình thường, tôi có muốn đứng thẳng người cũng không được, một đầu của nó cao cỡ 1 mét, đầu còn lại chắc cũng chỉ được mét rưỡi là cùng. Nhưng bù lại, được cái rất rộng: ngang 2,5m và dài hơn chục mét. Điều đáng nói là cả căn phòng nồng nặc mùi phân lợn.
“Ôi! Ngủ trong chuồng lợn! Tiêu chuẩn của chúng ta đúng là càng ngày càng thấp.” Tôi thở dài nói.
“Ít ra ở trong này có tường và mái che. Vẫn còn đỡ hơn là ngủ ngoài trời tuyết.”
“Ừ. Mà sao chẳng thấy bóng dáng con lợn nào nhỉ?”
“Chịu! Có thể chúng đã chết hoặc đang bị nhốt trong cái chuồng nào đó gần với khu nhà chính hơn.”
Chúng tôi ăn nốt hai cái bành ngô cuối cùng. Darla vẫn để phần riêng cho con Jack một ít bột ngô trong túi,
Chúng tôi trải tấm vải dầu ra một góc sạch nhất có thể rồi nằm xuống. Tôi đã hy vọng hai đứa có thể nằm tán gẫu một lúc trước khi đi ngủ, nhưng Darla chỉ hôn chụt lên môi tôi một cái rồi quay mặt vào tưởng ngủ ngon lành. Có thể là cô ấy mệt, nhưng cũng có thể là mùi phân lợn khiến cô ấy không có hứng nói chuyện.
***
Jack là đứa duy nhất được ăn sáng vào sáng hôm sau. Tôi đã nghĩ đến chuyện bảo Darla nấu nốt chỗ bột ngô còn lại để ăn, thay vì để dành cho con thỏ, nhưng chỗ đó cũng chỉ đủ cho một cái bánh rán.
Cách nơi chúng tôi dừng lại nghỉ đêm hôm qua không xa là một ngã ba đường và tôi không biết phải rẽ theo hướng nào. Tôi hỏi Darla, nhưng cố ấy cũng mù mịt như tôi. Các kĩ năng về cơ khí và máy móc của cô ấy xem ra không ứng dụng được gì ở đây. Chúng tôi quyết định rẽ phải, với hy vọng rằng nó sẽ dẫn chúng tôi đi về hướng Nam, tránh xa khỏi Dubuque với điều kiện nãy giờ chúng tôi vẫn đang đi đúng hướng Đông.
Đến tầm khoảng giữa trưa thì chúng tôi đã phải rẽ thêm hai ngã rẽ nữa. Và lần nào cũng chỉ là theo phỏng đoán. Đường càng lúc càng hẹp và các rãnh nước hai bên đường có vẻ nông hơn. Đoạn nào đi xuyên qua rừng thì thấy thoải mái, nhưng đoạn nào phải băng qua cánh đồng là lại thấy nản. Chúng tôi đi mãi, đi mãi mà chẳng thấy bóng dáng con sông Mississippi đâu, mặc dù Darla luôn miệng nói có các ngọn đồi dốc chứng tỏ nó đang ở rất gần.
Bữa trưa hôm nay của chúng tôi chỉ là vài phút nghỉ ngơi và một chút nước. Tôi đã cố gắng để không nghĩ tới thức ăn nhưng hình ảnh chiếc bánh ngô và mấy túi bột ngô để lại cho mẹ Katie cứ liên tục lởn vởn trong đầu tôi. Càng lúc tôi càng cảm thấy hành động nghĩa hiệp khi ấy của mình là ngu xuẩn. Tôi vẫn còn nhớ như in mình đã đói và kiệt sức như thế nào khi vét từng chiếc kẹo Skittle ở trạm xăng trên đường 20. Chúng tôi cần phải tìm ra thức ăn, càng nhanh càng tốt.
Chưa đầy một tiếng sau, chúng tôi gặp thêm một ngôi nhà nữa, đang nằm ẩn mình ở cuối con đường ngoằn ngoèo, không tên. Đó là căn nhà nhỏ theo kiểu nông trại, với bốn khu chuồng trại thấp lè tè nhưng rộng rãi, rộng 3 mét, dài 15 mét. Chạy dọc bên ngoài là một dãy các máng nước và bể ủ thức ăn cho gia súc bằng kim loại, nối liền với khu chuồng trại thông qua một hệ thống các đường ống.
“Trang trại lợn.” Darla phán.
Tôi khịt khịt mũi nhưng chỉ ngửi thấy mùi nhựa thông thoang thoảng trong không khí. “Sao cậu biết?”
“Mấy cái chuồng mái thấp nối với máng nước và bể ủ thức ăn thông qua hệ thống cho ăn tự động, không phải trang trại lợn thì là gì.”
“Có vẻ như không có dấu chân người qua lại. Cậu có muốn qua đó xem thử không?”
“Cũng được.”
Chúng tôi trượt về phía ngôi nhà. Một thứ yên ắng một cách đáng ngờ, làm tôi cảm thấy bất an. Darla cởi ván trượt và kéo thử cái cửa chống bão. Cửa không khóa, nhưng cũng không mở ra được bởi vì đang bị đống tuyết dày chặn đến quá nửa.
Tôi giúp cô ấy đào bớt tuyết cho tới khi lách được người vào bên trong. Darla đẩy cánh cửa chính và nó phát ra những tiếng cọt kẹt lâu ngày không được sử dụng.
“Sao lại có người không khóa cửa thế nhỉ?” Tôi thì thào hỏi.
“Nhiều người không có thói quen khóa cửa nhà mà. Hoặc cũng có thể họ khép tạm đấy rồi quay về ngay.”
Chúng tôi thận trọng bước vào trong nhà. Căn phòng khách khá bình dị với cái bàn nước bằng gỗ sồi và bộ sô-pha kẻ sọc, cũ kỹ. Một cái lò sưởi lớn bằng đá vôi chiếm trọn một bên phòng.
“Bọn mình có nên gọi hỏi xem có ai ở nhà không?” Darla thì thầm hỏi.
“Mình nghĩ là nên.”
“Có ai ở nhà không ạ?” Cô ấy gọi to.
Không có ai trả lời. Đột nhiên, tôi nghe thấy có tiếng động ở bên ngoài, nhưng không chắc có phải là do mình tưởng tượng hay không.
Chúng tôi rón rén đi qua phòng khách vào trong bếp. Một cái bát bẩn vẫn đăng nằm chỏng chơ trong bồn rửa, thức ăn còn thừa đã mọc nấm mốc trắng xóa do quá lâu ngày. Và tất nhiên là vòi nước và lò nướng điện đều không hoạt động.
Chúng tôi lục lọi tìm kiếm trong tủ lạnh và các ngăn kéo, nhưng chỉ tìm thấy một hộp cháo ăn liền chỉ còn vài thìa ở đáy, ¼ hộp nguyên liệu làn vánh shortening Crisco và bốn gói đường ăn kiêng Sweet’N Low. Chẳng đủ cho một bữa ăn.
“Nhà này đi đâu hết rồi ý nhỉ?” Darla lẩm bẩm hỏi.
“Chẳng biết. Hay là họ ra ngoài tìm thức ăn? Chứ trong nhà làm gì còn cái gì ăn được đâu.”
“Bọn mình thử ra mấy cái chuồng xem nào.”
Chúng tôi quay ra cửa và đi tới chuồng lợn gần nhất, Darla tìm thấy lối vào là một cánh cửa thấp đến nỗi chúng tôi phải cúi đầu mới đi qua được. Trồi lên trên sàn tuyết trắng là một cái cán bằng sợi thủy tinh. Tôi kéo nó lên, một cây rìu cỡ lớn, đầu sắt đã bị gỉ, rồi quay sang Darla hỏi ý kiến. Cô ấy nhún vai, và tôi bỏ cây rìu xuống.
Tôi vặn tay nắm cửa đẩy vào nhưng cửa còn chưa mở được 1/3 thì bỗng nghe thấy tiếng khụt khịt và cánh cửa bị xô mạnh từ bên trong, đóng sầm lại. Tôi nhảy vội ra đằng sau, giương cây trường côn tự chế lên để tự vệ.
Mọi thứ lại im phăng phắc, như chưa hề có gì xảy ra. Ngoài tiếng máu chảy dồn dập trong tai tôi và tiếng tim đập thình thịch trong lồng ngực. Tôi hét lên “Xin chào, cho hỏi có ai ở đây không?”
Không có tiếng trả lời,
Tôi dùng gậy gõ lên cánh cửa sắt.
Vẫn không có động tĩnh gì.
Tôi lại thử mở cửa lần nữa, lần này chỉ dám mở hé vài phân. Cái khe cửa thì hẹp, bên trong lại qúa tối nên tôi chẳng nhìn thấy gì. Một mảng tuyết trên cửa rơi xuống đất. Tôi đứng im và lắng nghe trong khảog 4-5 giây. Lại một tiếng khụt khịt nữa vang lên và cánh cửa bị đóng sầm lại.
“Kỳ lạ nhỉ! Thôi, bọn mình đi thôi.” Darla nói.
Tôi đồng ý với cô ấy là chuyện này rất lạ. Nhưng cơn đói đã chiến thắng cả nỗi sợ hãi trong tôi. “Chúng ta cần đồ ăn.”
“Cứ đi tiếp biết đâu tìm được ở chỗ khác thì sao.”
Tôi hạ giọng thì thào. “Nghe mình nói này, dù người trong kia là ai thì mình cũng phải nhìn thấy mới chiến đấu được.”
“Có ai bảo cậu chiến đấu đâu? Đi thôi. Chúng ta sẽ kiếm thức ăn ở chỗ khác.”
“Nhỡ không còn chỗ nào khác thì sao? Chúng ta không thể cầm cự được lâu hơn nữa. Nghe mình đi.”
Darla lườm tôi một cái rồi miễn cưỡng mở balô trên vai tôi lấy ra một cây nến.
Tôi mởi chốt cửa, đẩy cửa hé ra sau đó lùi lại tung một cú thật mạnh. Cánh cửa mở được ¼ thì va phải cái gì đó rắn chắc. Tôi nghe thấy tiếng ré lên như lợn bị chọc tiết và một tràng những tiếng thình thịch như gỗ đang đập vào bê-tông và rồi cánh cửa bật mở toang. Tôi cúi đầu xông vào trong, cây côn giơ trước ngực. Darla đi theo sau, tay cầm nến.
Trong ánh nến lờ mờ, tôi cứ ngỡ mình đi vào một cái lò mổ. Một phần thịt sống đang nhai dở vung vãi khắp nơi. Sân nhà trơn tuột bởi các mảng máu đông. Hai con lợn vẫn còn sống đang tụm lại với nhau ở góc phòng, đầu chảy ròng ròng máu tươi.
Darla giơ tay chỉ “Ôi. Chúa ơi. Cái gì thế kia?”
Tôi nhìn theo cánh tay cô ấy và thấy mấy cái máng thức ăn bằng kim loại. Tất cả đều trống không. Kế bên cạnh là xác một người đàn ông hay nói đúng hơn là phần còn lại của cái xác đang nằm dọc theo máng. Một chân của ông ta bị gãy rời. Xương lòi cả ra khỏi ống quần vải và chĩa thẳng về phía chúng tôi. Một nửa khuôn mặt và phần thân trên của ông ta đã bị nhai gần hết. Bộ xương sườn giống như những ngón tay xương xẩu nhô ra khỏi lồng ngực. “Khiếp! Kinh quá!” Tôi rùng mình, quay mặt đi.
“Công nhận.” Darla nhăn mặt gật đầu. Trong lúc chúng tôi đang ngẩn người nhìn cái xác. Hai con lợn kia chạy vòng ra cửa, tợp lấy tợp để chỗ tuyết vừa rơi xuống khi nãy. Chúng vừa uống nước vừa luôn miệng kêu ủn ỉn, đầu va rầm rầm vào cửa để tranh nhau chỗ nước ít ỏi.
“Theo cậu chuyện gì đã xảy ra?” Tôi hỏi.
“Mình đoán là sau khi nhà hết thức ăn, ông ấy vác rìu xuống đây tính làm thịt một trong hai con này. Thường thì mọi người sẽ gửi những con lợn đến lò mổ để làm thịt, chứ không ai tự tay giết chúng bao giờ. Người đàn ông này chắc là đói quá nên làm liều thôi. Rồi có thể ông ấy bị trượt, ngã gẫy chân. Còn lũ lợn trong cơn điên cuồng vì đói và khát đã đẩy ông ấy vào mấy cái máng. Và một khi ông ấy đã chảy máu thì mấy con lợn đời nào tha cho ông ấy.”
“Cậu nói nghe kinh quá!” Tôi thốt lên cầm tay Darla kéo đi. “Thôi, chúng ta đi thôi. Ở đây chẳng có gì ăn được.”
“Cậu bị làm sao thế? Ở đây có đủ thức ăn cho chúng ta sống được vài tuần.”
“Cậu muốn ăn…. Cậu đùa mình đấy à!”
Darla đá vào một trong mấy tảng thịt lợn đã đông cứng thành đá trên sàn. “Mấy miếng thịt này có khi vẫn còn ăn được nhưng mình đang nghĩ: tội gì mà ăn thịt lợn chết, chi bằng cứ làm thịt một con kia còn hơn.” Cô ấy chỉ về phía hai con lợn đang thi nhau liếm tuyết bên cạnh cửa.
“Mình không…”
“Sao nào, cậu không thích thịt lợn à?”
“Mình thích món thịt lợn hun khói, nhưng mỗi lấy ra khỏi túi cứ thấy ghê ghê.”
Một bên miệng của cô ấy khẽ nhếch lên. “Đúng là dân thành phố. Đưa cho mình con dao của cậu xem nào.”
Tôi đưa nó cho cô ấy. “Cậu đã bao giờ làm thịt lợn chưa?”
“Chưa. Nhưng chắc nó cũng không thể tệ hơn việc làm thịt thỏ…”
Sai, nó tệ hơn rất, rất nhiều. Darla đưa cho tôi cây nến và cầm lấy cây rìu tôi bỏ lại ngoài cửa khi nãy. “Cậu có biết làm cách nào để giết một con lợn không?”
“Hả? Cậu không biết à?”
“Ừm, không. Đập vào gáy chăng? Thỉnh thoảng thấy có người vẫn làm vậy với mấy con thỏ.”
“Thế thì có mà phải đập rất mạnh.” Hai con lợn đó to như thế cơ mà, mỗi con phải 90kg là ít. “Mình không biết cách đó có được không. Vì bình thường nếu đập vào gáy một người nào đó sẽ không làm họ chết được, chỉ khiến họ bất tỉnh hoặc choáng váng thôi.”
“Hừm, okay.”
Hai tay cầm chặt cái cán rìu, Darla hùng dũng bước tới cạnh một trong hai con lợn. Cô ấy xoay cây rìu, ngửa mũi rìu lên trên và giơ cao quá đầu. Con lợn vẫn đang miệt mài tợp nước, không hề hay biết gì về số phận sắp tới của mình.
Chiếc rìu bổ xuống cái uỵch vào chính giữa gáy con lợn và ngay lập tức nó nằm lăn thẳng cẳng ra đất. Con còn lại ré lên eng éc, cắm đầu chạy thục mạng bề phía góc tường đối diện tìm chỗ trốn.
Darla vứt cây rìu xuống và cầm lấy con dao. Cô ấy chọc nó vào dưới cổ con lợn và rạch một đường lên tới mõm. Đột nhiên con lợn choàng tỉnh dậy và quẫy đạp lung tung, cả bốn chân nó khua loạn trong không khí như thể đang tìm cách bỏ chạy. Một chân trước cả nó đạp trúng cằm Darla.
“Á!” Cô ấy hét lên rồi rút con dao khỏi cổ lợn và nhảy vội ra đằng sau.
Máu từ cổ con lợn tuôn ra xối xả, phọt cả vào tay và mặt Darla. Tôi bỗng thấy buồn nôn và phải quay đầu đi chỗ khác. Nó quằn quại trên mặt đất, miệng không ngừng phát ra những tiếng eng éc rất chói tai. Chúng tôi phải chịu đựng âm thanh khủng khiếp ấy suốt hơn 5 phút trước khi nó chịu im hẳn.
Tôi chưa ăn gì suốt từ hôm qua tới giờ. Vậy mà sau khi chứng kiến cảnh này tôi chẳng còn cảm giác thèm ăn. Thậm chí tôi không biết sau này tôi có còn thèm ăn bất cứ cái gì nữa hay không. “Nếu chúng ta sống sót sau đợt này, mình thề sẽ ăn chay.”
“Đừng mong là mình sẽ nấu đồ ăn chay cho cậu.” Darla nói.
“Không sao. Mình sẽ đảm nhiệm việc nấu ăn. Hy vọng cậu thích món đậu phụ.”
“Đậu phụ á? Ghê chết đi được!” Một cô gái tay đang nhuốm đầy tiết lợn vẫn còn biết thế nào là ghê ư? “Giúp mình một tay nào.”
Darla và tôi mỗi người cầm một chân sau của con lợn kéo ra ngoài, tạo thành một vệt máu dài đỏ tươi trên tuyết.
Tôi xung phong đi nhóm lửa để tránh không bị giao cho công việc mổ xẻ. Lúc tôi nhóm lửa xong cũng là lúc Darla moi xong ruột lợn và đang cố róc thịt bằng rìu. Tiết lợn bắn đầy lên tay và ngực của cô ấy. Tôi nhìn xuống đất một lúc để kìm chế cơn buồn nôn sau đó ngẩng lên nói với Darla. “Nhiều thịt như thế có sợ hỏng không?”
“Nếu có thời gian chúng ta có thể xông khói chỗ thịt này. Nhưng mình đoán là cậu không muốn nán lại ở đây quá lâu.”
“Đúng vậy.”
“Vì thế mình đang định nấu hết chúng lên rồi ướp lạnh. Nếu trời vẫn tiếp tục lạnh như thế này, mình nghĩ sẽ không có vấn đề.”
“Ok. Mình rất sợ cậu sẽ nói có, nhưng mình vẫn phải hỏi: Cậu cần mình giúp giúp gì không?”
Tất nhiên là có. Chẳng mấy chốc cả người tôi cũng vấy đầy máu như Darla. Kỹ năng róc thịt của tôi thua xa Darla vì thế sau khi tôi làm xong mà vẫn còn cả đống thịt dính trên xương và da. Nhưng Darla chỉ nhún vai nói “Ừ, cũng hơi phí thật nhưng đằng nào bọn mình cũng không mang hết đi được. Hơn nữa, mổ lợn khác hoàn toàn với mổ thỏ. Dù gì mình cũng đã làm hết sức rồi.”
Tôi đã sai khi nghĩ rằng sẽ không bao giờ còn có thế tìm lại cảm giác thèm ăn. Mùi thịt nướng khiến cơn đói cồn cào bỗng nhiên quay trở lại với cái dạ dày của tôi. Bữa trưa muộn của chúng tôi là món thịt lợn thái dày cộp, nướng bằng chảo hơ trên lửa. Mùi vị của nó cũng tương tự như món thịt lợn muối xông khói tôi vẫn thường ăn ở nhà, có điều nó mềm và đỡ mặn hơn.
Lúc tôi gắp đến miếng thịt thứ ba, đột nhiên một ý nghĩ vụt qua đầu tôi, làm tay tôi khựng lại giữa chừng và cơn buồn nôn lại quay trở lại. “Này, bọn mình ăn thịt con lợn vừa rồi…”
“Thì sao?” Darla nhồm nhoàm hỏi.
“Nó lại ăn thịt cái ông kia. Vậy bọn mình có bị coi là đang ăn thịt người không?”
Darla đang nhai bỗng nhiên dừng khựng lại. “Kinh quá đi.” Cô ấy nghĩ một lúc rồi nuốt ực miếng thịt vào bụng. “Không. Nói như cậu thì chúng ta ăn thịt bò, mà bò lại ăn cỏ, vậy thì chúng ta thành động vật ăn cỏ hết à? Trong khi thực tế là con người đâu có ăn cỏ, còn loài bò lại có hệ tiêu hóa đặc biệt riêng của nó.”
“Ừ, cậu nói nghe cũng có lý.” Tôi gật gù nghĩ thêm vài giây rồi gắp nốt miếng thịt lợn cho vào mồm.
Chúng tôi mất toàn bộ buổi chiều và một phần buổi tối mới nướng xong hết chỗ thịt róc được. Một vài miếng bị cháy, một số khác thì hơi dai và cứng, nhưng méo mó có hơn không. Miễn sao có cái ăn là tốt rồi.
Xong xuôi, chúng tôi chôn chỗ thịt vừa nướng xuống tuyết để ướp lạnh. Darla chỉ lo bọn thú rừng đánh hơi được sẽ tới xơi sạch chỗ thịt mà chúng tôi vất vả lắm mới có được. Tôi lại cho rằng toàn bộ thú rừng giờ này có lẽ đã chết hết vì bệnh bụi phổi silic. Nhưng để cẩn thận, tôi vẫn phủ tấm vải dầu lên chỗ cất giấu thịt và chặn bằng ba khúc gỗ to.
Sau bữa tối muộn, tôi nhóm một đống lửa ngay trên sàn phòng khách rồi đi tìm trong phòng ngủ ít quần áo sạch để thay. Quần áo của chúng tôi đều đã bị tiết lợn bắn vào ướt sũng và tanh lòm.
Căn nhà này có hai phòng ngủ, cả hai đều có giường rộng rãi và thoải mái. Nhưng Darla không muốn ngủ trong đó vì trời quá lạnh. Và cô ấy đã đúng. Vì thế hai đứa đành chấp nhận nằm ôm nhau trên chiếc đi-văng cũ đặt cạnh đống lửa.