← Quay lại trang sách

Chương 45

Tôi bừng tỉnh giấc khi ai đó vô tình đá phải tôi lúc mọi người lục đục ra khỏi lều. Tôi cầm balô và lăn ra ngoài. Darla kể sau khi tôi đi ngủ chẳng còn ai đến quấy rầy căn lều nữa, chứng tỏ ca đầu tiên luôn là bận rộn nhất.

Bữa sáng hôm nay vẫn diễn ra y như hôm qua: chen lấn xô đẩy và chờ đợi hai tiếng đồng hồ cho một cốc 200 gam cơm trắng. Lính gác phun sơn vàng lên tay trái của chúng tôi, đè lên vệt sơn xanh của ngày hôm trước.

Sau bữa sáng, chúng tôi quay về lều ngủ bù cho buổi tối hôm qua. Để cho chắc chắn, Darla nhét cái balô vào giữa hai đứa.

Tôi chỉ tỉnh dậy khi bị Darla đánh thức. “Ê, anh chàng ngủ nướng. Mình nghĩ đến giờ xếp hàng xin đồ ăn của Hội Tin lành Báp-tít rồi.”

“Okay.” Tôi lắc đầu cho tỉnh hẳn rồi gấp chăn cất vào trong balô.

Lần này chúng tôi chia nhau ra xếp hàng. Darla thấp hơn tôi khoảng 3 phân, vì thế cô ấy có thể xếp trước tôi tầm 12-13 mét. Vẫn là hai người mặc áo vàng hôm qua đang vừa đi vừa trò chuyện với đám trẻ con và ổn định trật tự.

Chiến lược mới của chúng tôi vẫn không hiệu quả. Phía trước Darla vẫn còn ít nhất hơm 100 đứa trẻ đang xếp hàng, lúc mấy người mặc áo vàng kia hết thức ăn. Mọi người nhanh chống tản mát đi các phía.

Chúng tôi đi ra phía người phụ nữ tóc dài vừa gặp ngày hôm qua.

“Cảm ơn cô về nắm hạnh nhân hôm qua.” Tôi nói.

Cô ấy liếc nhìn xung quanh. “Cháu nhầm rồi, chắc là ai đó khác đã tặng cho cháu chỗ hạnh nhân đó. Hầu hết bọn cô đều sẵn sàng chia sẻ đồ ăn của mình với mọi người nhưng chuyện chia sẻ đồ ăn cá nhân tuyệt đối bị nghiêm cấm ở đây. Nếu bị bắt được sẽ... rất rắc rối.

Tôi hạ giọng thì thào “Vậy thì cô cho cháu gửi lời cảm ơn người em gái sinh đôi của cô nhé.”

Cô ấy mìm cười và thì thào lại “Ok. Cô sẽ chuyển lời.”

“Cháu đang thắc mắc tại sao mọi người không sử dụng chỗ lúa mì trên xà lan?”

Darla huých vào mạng sườn tôi.”Cậu điên à? Nhỡ sau này bọn mình cần dùng đến chúng thì sao?” Cô ấy rít lên.

“Mọi người ở đây đang cần chúng hơn chúng ta nhiều.”  Tôi thì thào lại.

“Khoan đã, hai cháu đang nói chuyện gì thế?” Người phụ nữ kia hỏi. “Một cái xà lan là sao?”

“Vâng, có một cái xà lan bị kẹt ở âu tàu 12, cách đây không xa. Trên đó chất đầy lúa mì. Chắc phải hàng trăm tấn là ít.”

“Âu tàu 12?”

“Trên sông Mississppi, ở Bellevue. Nó đang bị kẹt ở âu tàu. Việc dỡ hàng chắc sẽ hơi khó khăn, nhưng ở đây có thừa nhân công đẻ làm việc đó.”

Darla thở dài cái thượt. “Chúng ta sẽ phải xay chỗ lúa mì đó. Nhưng cháu biết phải làm cối xay như thế nào. Còn không thì chúng ta có thể dùng cối và chày đập thủ công. Như Alex đã nói, ở đây có thừa nhân công để làm việc đó.”

“Và nó cách đây không xa?”

“Cháu không biết chính xác nhưng chắc chỉ độ 15-20 dặm là cùng thôi.”

“Vậy là cuối cùng Chúa cũng đã đáp lại một trong những lời cầu nguyện của cô. Cháu có thể chỉ cho cô biết cái xà lan đó ở đâu không?”

“Được ạ. Nhưng nó nằm ở ngay trong cái âu tàu ý ạ, rất dễ tìm.”

“Tên hai cháu là gì?”

“Cháu là Alex. Alex Halpin. Còn đây là Darla Edmunds.”

“Cô là Georgia Martin.” Cô ấy chìa tay ra. Tôi ngập ngừng mất một lúc bởi vì tay quá bẩn, nhưng cô ấy dùng cả hai tay siết chặt tay tôi, sau đó đến Darla. “Rất vui được làm quen với hai cháu. Ngày mai cô sẽ tìm cháu ở đây và cho cháu biết có cần nhờ cháu chỉ chỗ xà lan hay không.”

***

Nhưng chúng tôi đã không phải đợi lâu. Sáng hôm sau, mới đang xếp hàng nhận đồ ăn sáng được một tiếng thì cái loa phóng thanh trên hàng rào đã bật mở “Alex Halloran và Darla Edmunds đến cổng C trình diện ngay lập tức. Alex Halloran và Darla Edumunds, cổng C.”

“Là bọn mình thì phải.” Tôi nói

“Ừ.”

“Hy vọng điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ bị lỡ bữa sáng.”

Chúng tôi chen ra khỏi đám đông và đi ra phái cánh cổng vào hôm đầu tiên. Từ xa tôi nhìn thấy cô Georgia đang đứng ở phía bên kia của hàng rào cùng với một người đàn ông lớn tuổi. Mặt ông ấy hốc hác, như thể mới sụt khá nhiều cân gần đây. Cô Georgia nói câu gì đó với mấy tay lính và họ vẫy tay cho chúng tôi đi qua.

“Cảm ơn cháu đã tới. Đây là Cha Evans.”

“Cứ gọi ta là Jim.” Người đàn ông nói. “Cảm ơn con vì tin tức tốt lành ngày hôm qua. Con nói có bao nhiêu lúa mì trên xà lan?”

“Con mới chỉ nhòm vào một cái xà lan và dưới đó chứa đầy lúa mì tới tận ngọn. Có tới chín cái xà lan nối với nhau bên trong âu tàu. Nếu tất cả đều chở lúa mì thì con nghĩ phải đến...”

“Hàng trăm tấn.” Darla kết luận.

“Thật kỳ lạ...” Cha Evans lẩm bẩm. “Chúng ta có một cái hẹn với ngài chỉ huy của khu trại Hồ Đen, Đại tá Levitov. Đi thôi nhỉ?”

Ông ấy dắt chúng tôi đi vào một trong mấy cái lều lớn. Nó còn to gấp mấy lần cái rạp mà chị họ Sarah của tôi làm đám cưới hồi hai năm trước, có điều bên trong được chia ra thành các ngăn. Chúng tôi đi theo Cha Evans qua mê cung của các hành lang vải bạt, cho tới khi gặp một căn phòng nhỏ. Một người đàn ông trong bộ rằn ri đang ngồi đằng sau chiếc bàn sắt, miệt mài gõ laptop.

“Chào buổi sáng, trung sĩ.” Cha Evans nói. “Chúng tôi có hẹn với ngài Đại tá.”

“Ông ấy sẽ đến muộn một chút. Mời ngồi.”

Chúng tôi có bốn người mà trong phòng chỉ còn hai cái ghế trống. Darla và tôi đứng tránh sang một bên nhường cho Cha Evans và cô Georgia.

“Hai đứa ngồi đi.” Cha Evans nói.

“Bọn con đứng cũng được ạ.” Tôi nói.

“Không, cứ ngồi đi. Với lượng calo nạp vào người ít ỏi như vậy, các con cần ngồi hơn là chúng ta.”

Tôi ngồi xuống một cái ghế, và Darla ngồi xuống cái bên cạnh. Cha Evans nói đúng. Tôi vừa đói vừa mệt, hoặc có thể tôi thấy mệt vì quá đói. Ba ngày nay tôi gần như chưa có gì vào bụng, nhưng giờ tốt nhất không nên nghĩ về chuyện đó. Cha Evans mới chỉ nhắc tới mỗi từ calo thôi mà cái bụng tôi đã réo lên ầm ầm. Có thể vì đang là buổi sáng nên tôi nghĩ ngay đến các món ăn sáng. Bánh Donuts. Bánh vòng. Thậm chí là ngũ cốc, mặc dù trước giờ tôi ghét món ngũ cốc. Tôi gục đầu xuống hai gối, cố gắng nghĩ tới cái gì khác, ngoài chuyện ăn uống.

Chúng tôi đợi khoảng 15 phút thì nghe thấy tiếng ai đó quát lên từ đằng sau bức tường bạt “Cà phê!” Ngay lập tức, tay trung sĩ rời khỏi phòng và vài phút sau quay lại với một chiếc cốc sứ đang bốc hơi nghi ngút. Mùi thơm khiến cơn đói của tôi càng thêm cồn cào và tôi bắt đầu cảm thấy buồn nôn. Anh ta cầm cái cốc đi qua phòng bên cạnh rồi quay trở lại về bàn.

Chúng tôi lại đợi thêm gần 30 phút nữa và rồi tôi nghe thấy tiếng quát to “Cho vào!”

“Mọi người có thể vào.” Tay trung sĩ nói.

Chúng tôi đi vào một căn phòng nhỏ khác và nhìn thấy một cái bàn sắt khác, một người đàn ông mặc áo rằn ri khác cùng một cái laptop khác. Ông ta cầm cốc cà phê lên uống cạn một hơi. Mắt tôi dán chặt vào cái cốc. Trong phòng không có cái ghế nào, ngoại trừ cái ông ta đang ngồi. Ông ta đứng dậy, chìa tay ra: “Cha Evens, rất vui được gặp Cha.”

“Cảm ơn đã tiếp chúng tôi, Đại tá.” Cha Evens nhiệt tình bắt tay lại.

Tay Đại tá nhìn tôi và khẽ nhăn mũi. Ông ta không hề giơ tay ra bắt. “Mục đích của chuyến viếng thăm này là...?”

Cha Evens chỉ về phía tôi. “Chàng trai trẻ này đã tìm thấy một lượng lúa mì lớn, cỡ vài trăm tấn.”

“Ở đâu?”

“Âu tàu 12, ở Bellevue, Iowa.” Cha Evens nói. “Trên một cái xà lan đang bị mắc kẹt trong âu tài.”

“Tôi biết chỗ đó.”

“Tôi mong nhận được sự ủng hộ của ngài để đi lấy chỗ lúa mì ấy, chúng tôi có thể sắp xếp cho một nhóm người tị nạn cùng phụ giúp để xay chúng thành bột. Đây là cơ hội để tăng thêm dinh dưỡng cho mọi người trong trại. Cuối cùng thì lời cầu nguyện của chúng tôi cũng...”

“Tôi sẽ xin ý kiến của sở chỉ huy Hồ Đen ở Washington. Cảm ơn tin tức của Cha. Giải tán!” Tay Đại tá ngồi xuống và tiếp tục chúi mũi vào máy tính.

“Không phải chứ?” Tôi ngây người hỏi. “Chỉ thế thôi ạ? Chỗ đó đủ thức ăn cho cả khu trại vậy mà...”

“Trung sĩ!” Tay Đại tá quát lên, mặt không buồn ngẩng lên khỏi cái máy tính.

Cha Evens vòng tay qua vai tôi, và tôi để yên cho Cha đẩy mình ra khỏi văn phòng, quay trở về khu trại chính.

Tất nhiên là chúng tôi đã bỏ lỡ mất bữa sáng.