← Quay lại trang sách

- 2 -

Hai anh không còn cưng chiều em như xưa, em hết được nằm trong lòng anh Ba vừa nghe kể chuyện vừa được gại lưng, anh Hai cũng không bế xốc em vào giường phản mỗi tối, em thôi vòng tay qua cổ anh, ngái ngủ gọi nhầm tên anh Ba.

Chỉ khi ngái ngủ, em mới gọi lầm tên hai anh. Vì ngoài vú Mười ra chỉ có em nhận ra được ai là anh Hai và ai là anh Ba.

Cũng đôi mắt sâu dưới hàng lông mày đậm xếch hình lưởi mác, kiểu mắt đen đa tình của đàn ông xứ Huế, khuôn mặt chữ điền, xương quai hàm cứng cỏi của người miền Trung mưa dầm, nắng hại nhưng mắt anh Hai có màu xám lạnh như màu núi, tia nhìn sắc nhọn như cánh cửa đóng kín, trong khi đồng tử mắt anh Ba nâu trong veo, bình yên như mặt nước sông An Cựu. Cùng cặp môi dầy dặn nhưng cái cười của anh Hai sao mà ngạo nghễ lạnh lùng, cái cười không tròn, kiểu cười nhếch nửa miệng làm người ta sợ hãi, anh Ba có nụ cười hiền, nụ cười làm sáng bừng khuôn mặt, làm người ta mềm lòng. Từ nhỏ em đã quen nể sợ anh Hai mà quấn quít quyến luyến anh Ba.

Năm em tròn 15 tuổi, Cha đột ngột qua đời. Một sáng sau cơn bão lớn năm Thìn nặng nhọc kéo qua vườn, một trận giông gió đã quật đổ cây cau cổ thụ già nhất vườn. Từ ngày đó cha không gượng dậy được nữa. Thì ra như thân cây đã héo khô từ bên trong, cha vẫn gắng gượng đứng sừng sững là chổ dựa cho ba anh em. Đến ngày cây cau cổ thụ mất đi, khoãng trống trãi quá lớn sau bóng cây làm người ta hụt hẫng, choáng váng.

Ngay lập tức em cảm nhận nổi hụt hẫng đó đầu tiên.

Từ lâu vườn cau không đem lại hoa lợi nào nữa, ngoài trừ bóng mát và ký ức của một thời huy hoàng xưa. Nhiều nhà đã đốn vườn cau để trồng loại cây khác có lợi ích kinh tế hơn, nhưng cha nhất định không chịu bỏ vườn cau, nơi đã gắn bó quá nhiều thế hệ, nhiều cuộc đời và ký ức, hai anh em đành xoay sở đủ nghề, đánh cá làm nông để sinh sống. Khu vườn cứ thế mà hoang phế, già đi mổi ngày.

Đêm giỗ đầu tiên của cha, dưới ánh trăng 17 đỏ quạch, em núp sau gốc cau ứa nước mắt chứng kiến anh Hai và anh Ba dằng co vật lộn:

- Anh Hai, anh không được nhổ cọc vườn đi bán! Đó là kỷ niệm của cha. Cha chỉ mới nằm xuống!

- Kỷ niệm có nuôi mi sống được không? Mi có cạp ký ức ra mà ăn không? Mi để mặc tau!

Tiếng cọc sắt va vào nhau, cứa vào tim chát chúa.

Tờ mờ sáng, em chạy dọc theo bờ sông, một triền sông dằng dặc chìm trong sương mờ trắng đục, em vừa chạy vừa khóc, có khi mắc vào gốc phượng, rể tre vấp té chúi nhuỗi rồi bò lóp ngóp đứng dậy chạy tiếp:

- Anh Hai ơi, anh đừng đi! Anh Hai ơi, anh về đi!

Tiếng gọi yếu ớt của em chìm trong màn sương dày đặc, chỉ thấy bóng con đò chập chờn lúc ẩn lúc hiện, rồi mất hẳn. Nhiều năm về sau này nữa, cơn ác mộng đó luôn trở về, trong giấc mơ em chỉ thấy mình chạy mãi miết suốt một triền sông dằng dặc trắng xóa sương và tiếng em yếu ớt thảng thốt như tiếng khóc của chim Từ Quy:

- Anh Hai ơi, anh đừng đi!

Tuổi thơ êm đềm của em bên vườn cau Nam Phổ đã chấm dứt từ đó!

Sau hai năm bỏ đi, anh Hai lại trở về.

Trong hai năm đó tin đồn về anh Hai chờn vờn khắp thôn Tây Phổ nhỏ bé, rằng anh Hai đã thành trùm buôn lậu sắt vụn, lính của anh thu mua sắt vụn khắp rẻo đất miền Trung chở kình kình về Hà nội mổi ngày. Rồi số sắt phế liệu đó đi đâu nữa không ai rõ.

Anh Hai trở về một buổi sáng, râu quai nón rậm rì trên mặt, đôi mắt xám lạnh nay lẫn màu sắt gĩ đục mờ. Anh vứt một bó tiền trên bàn hất hàm:

- Chuyến này tau vào Sài gòn luôn, tau kêu người bán mảnh đất vườn rồi chia hai, tau cần một nửa tiền để đi buôn lớn.

- Không được, đây là đất hương hỏa của ông bà để lại, không ai được bán. Tui không để ai đặt chân vào vườn cau này đâu!- anh Ba rên lên, thất thần.

- Mi có cần tau nhắc lại không? Không ai cạp đất ra mà ăn được. Nghề trồng cau không thể làm giàu- Mặt anh Hai sắt lại- Tau muốn làm giàu. Tau thề là tau sẽ giàu. Tau mà quyết định rồi thì không ai cản được! Mi có một năm để rao bán hoặc là nguyên cả mảnh vườn, hoặc chỉ là 1 nửa của tau. Tau sẽ trở lại lấy tiền.

Anh quay sang tôi, đôi mắt đen thẫm lại:

- Bé đi với anh, anh sẽ lo cho bé ăn học đàng hoàng. Ở nơi quê mùa này em không ngóc đầu lên nổi đâu. Mà em cũng phải cần cứng cát lên, yếu đuối hay mũi lòng như anh Ba thì cả đời nghèo khổ.

- Em không nỡ bỏ vườn, em không bỏ anh Ba mà đi đâu! – em lí nhí.

- Em cũng thề là trong vòng một năm em sẽ phục hồi vườn cau! Bé đi với anh Hai đi, anh Hai cần bé hơn- Anh Ba chỉ lặng lẻ nói có vậy rồi quay lưng đi.

Em ngơ ngẩn cầm theo một chậu dây trầu không, và cứ như vậy mà ra đi khỏi Nam phổ.