- 3 -
“Anh à, có nhiều đêm em giật mình thức dậy, vẫn còn nghe hương hoa cau thơm thoang thoảng trong vườn, nghe tiếng gió bấc nghiến thân cau, nghe tiếng nước mưa chảy từ máng tàu cau vào bể nước. Em nhớ vườn, nhớ cau, nhớ Huế quá!”
“ Anh à, bây giờ em biết em vịn vào nổi nhớ để mà sống, như ngày xưa em đã vịn vào thân cau, vịn vào tay anh để mà lớn lên. Ngày mưa em ngơ ngơ đi tìm tàu lá chuối rách, ngày nắng em đi tìm tiếng dế kêu trong vườn. Sài gòn mãi không là quê hương thứ hai của em, em chỉ có một quê hương là Huế, nơi nào cất giữ tuổi thơ của mình, nơi đó mới là quê hương”…
“ Anh à, khi em đi xa rồi, em mới biết tâm hồn mình lưu trú ở đâu. Ở Sài gòn chỉ là nơi tâm hồn em lưu lạc. Anh và vườn xưa Nam phổ mới là nơi tâm hồn em lưu trú. Người ta làm sao có thể lìa bỏ được nơi tâm hồn người ta đã lưu trú?”
Trong lá thư nào gửi cho anh Ba, em cũng viết đi viết lại về nổi nhớ. Ba năm ở Sài gòn, mỗi tuần một lá thư. 144 lá thư. Chỉ viết về một nổi nhớ vườn.
Ba năm trời, em đã tốt nghiệp đai học ngữ văn. Em trở thành cô giáo dạy Văn. Cái môn chẳng thể dạy thêm kiếm tiền ở thành phố.
Ba năm trời anh Hai đã kịp trở thành ông trùm của ngành hóa chất. Từ một người bán hóa chất lẻ cho các cửa hàng ở chợ Kim Biên, nhờ biết phát triển các mối quan hệ làm ăn, networking, như cái cách người Sài gòn hay nói, anh Hai đã trở thành đầu mối cung cấp hóa chất cho các nhà máy lớn của thành phố. Cái đầu lạnh biết tính toán nhanh hơn người và chính xác hơn người làm người ta nể phục anh Hai, đôi mắt lạnh làm người ta sợ anh Hai, những ràng buộc mềm mại của tiền, quyền và “chân dài” cột chặt người ta với Anh Hai. “Đó là bí quyết đơn giản để thành công” Anh Hai thường giơ 1 ngón tay cái lên ngạo nghễ nói.
Và tiền cứ đẻ thêm ra tiền, đất đẻ thêm ra nhà, ra biệt thự.
Sài gòn có loại cau nào, nhà anh Hai có loại cau đó, ngày đầu tiên anh Hai dọn về nhà mới, xe tải mấy lượt chỉ ùng ùng chở về đổ xuống bao nhiêu là cây cau: cau đỏ tía trái đỏ son, cau kiểng, cau lùn, cau bụng bự, cao bonsai, cao non bộ… Chỉ có thiếu cây cau Nam phổ trái cau bánh dầy, hoa trắng tươi thơm ngan ngát là không tìm đâu có được. Dây trầu không em mang theo ba năm trước vẫn xanh ngắt 1 góc vườn.
Nhà có 3,4 người làm, anh Hai không muốn em đụng đến tay bất cứ việc gì nặng nhọc nữa. Nhưng con gái Nam phổ sao có thể chịu ngồi không.Hết gói bánh lá, chả tôm, rồi nấu chè đậu ván, nấu bánh cạnh, chè bắp hột, bắp trái. Bánh canh Năm Phổ khác bánh canh Sài gòn, nấu bằng bột gạo, có pha một ít “bột năng” nên rất trong và mềm. Nhụy thuần tôm tươi, nhưng không phải tôm gân mà tôn càng, võ dày, khi luộc có màu đỏ tự nhiên, tôm giã nhuyễn mà không bị xơ, cũng không nát. Lúc múc vào tô, nhụy tôm mới được rãi trên mặt, nhụy tôm tươi hồng, thêm vài cọng ngò rí xanh rì, tô bánh canh như một bức tranh nồng nàn màu sắc. Có những lúc anh Hai ngồi thần người trước tô bánh canh Nam phổ nhụy tôm đỏ tươi, khóe mắt ướt nhòe rất nhanh rồi tắt ngúm, sắt lạnh.
Quanh năm em chỉ vò một ấm chè tươi, đập dập thêm miếng gừng tinh tắn, khách đến nhà cũng chỉ mời một loại nước chè ấm hương gừng. Em giữ nguyên nét nhà quê Nam phổ.
Đêm nay trời Sài gòn sau cơn mưa trong vắt, trăng 16 mọc muộn, gần nửa đêm vầng trăng tròn nhợt nhạt mới lên tới giữa bầu trời. Em giật mình thức dậy, sau cửa sổ, bóng tàu cau và ánh trăng vương vãi khắp khu vườn. Tàu lá chuối lênh loáng ánh trăng và sương mưa, hương hoa lài, hoa ngâu, dạ lý gần như cùng một lúc theo ánh trăng ùa vào trong phòng. Hơi tĩnh lặng của đêm gần như đêm tịch mịch của Huế, mơ hồ một tiếng kêu rất khẽ lúc xa lúc gần, rung rinh trong không gian:
- Bé ơi, về đi em, anh nhớ em!
Em rùng mình, như có ai cứa vào tim. Em phải trờ về thôi, em phải trở về với anh, về với vườn cau, về với Nam phổ.
Vừa lúc đó, anh Hai loạng choạng sau buổi tiệc đêm về. Đôi mắt xám lạnh ngầu đỏ. Anh gõ cửa phòng em rầm rĩ:
- Bé, anh khát quá, cho anh ly nước chè xanh.
Em ngồi đối diện với anh, không nhận ra anh Hai ngày tuổi nhỏ, khuôn mặt lầm lì lớp cơ mặt chảy xệ, vòng bụng nặng nề và đôi mắt mệt mõi. Mắt anh chỉ ấm lại khi ủ hai tay vào ly nước chè xanh ấm sực.
- Mùi chè thơm quá bé à, không có chi bằng uống ly nước chè quê mình.
Em chỉ chờ có thế, em nói nhanh:
- Anh Hai à, cho em về quê, em không thể ở Sài gòn được nữa.
Anh trở lại lầm lì:
- Về làm gì? Có chi đâu chốn đó mà về? Đi bao nhiêu năm nay mà chưa vứt được cái gốc quê à?
- Em nhớ quê lắm, em nhớ anh Ba, em nhớ vườn. Em không thể sống ở đây được nữa, em phải về! Mai em về liền!
Anh lồng lộn như hóa điên:
- Anh cấm em ra khỏi nhà. Em ở đây! ở đây là nhà của em! em không được đi đâu hết!
- Em lớn rồi, anh không có quyền chi với em mà cấm em!- Em cũng gào lên, nổi nhớ và tuyệt vọng đã làm em như hóa điên theo- Mà anh cũng đâu cần có em, anh có tất cả mọi thứ, tiền bạc, nhà cửa, gái đẹp vây quanh, đêm nào anh cũng đi đến khuya, nhậu đến khuya. Em chỉ ở nhà một mình!
Anh đột nhiên ôm xiết em vào lòng, kề khuôn mặt đỏ lựng sát khuôn mặt của em:
- Em ăn nói chi khùng điên rứa? Anh chẳng có chi cả, em là tất cả của anh. Không có em anh không có sống nổi, Anh không cần Nam phổ, vì em là cả Nam phổ của anh. Em đừng bỏ đi! Anh xin em! Em đừng bỏ đi!
Anh áp môi vào môi em, tha thiết:
- Lần đầu tiên anh bỏ nhà ra đi, Đêm nào anh cũng mơ thấy em chạy chân đất theo anh dọc bờ sông, em gọi anh “ anh Hai ơi, về đi”. Anh không đi đâu được với giấc mơ đó, anh phải về với em. Anh phải có em!
Trong cơn hoảng loạn, nước mắt anh ứa ra tràn trề trên khuôn mặt nhàu nhò, mùi rượu mạnh xộc vào mặt em tê dại. Toàn bộ thần kinh của em tê dại, nước mắt của đàn ông, nổi tuyệt vọng thê lương của anh làm em tê dại. Người đàn ông này, người luôn có sức mạnh khuất phục khôn lường, đang quỳ gối trước mặt em, đang khóc vì em. Em nhắm nghiền mắt, một nổi xót thương đau đớn tràn ngập tâm hồn.
Sau cánh cửa mở tung, giông gió tràn vào nhà. Giông gió quăng quật từng hồi trên tàng cau.
Sáng ra, khu vườn tan tác ngập tràn lá rụng.
Anh Hai đã bỏ đi từ rất sớm. Trên bàn chỉ còn dằn lại một lá thư ngắn ngũn, viết vội:
- Em hãy trở về với Nam phổ! Suốt đêm qua, em lại gọi nhầm tên anh!
Làng Cau Năm phổ đã sống lại.
Lời hứa ba năm về trước của anh Ba đã trở thành sự thật.
Từng đàn chim chào mào, chim sáo, chìa vôi, chèo bẻo lại bắt đầu rủ nhau về ríu rít trên tàng cau vào tháng 4 tháng 5 mùa buồng cau chín rộ. Âm thanh tràn đầy. Rộn rã.
Mùa cau chín không chỉ còn quanh quẩn tháng hè mà đã kéo dài cho trái cau chín muộn ra quanh năm, tăng giá cau gấp mấy lần lúc mùa vào rộ. Ngoài vườn xanh san sát hàng cau già khẳng khiu, chen lẩn hàng cau mới mập mạp, cau con làm giống chạy từng luống dài tít tắp. Người mua kẻ bán ra vào tấp nập, rộn ràng. Hương cau ngan ngát hồi sinh, như gió thổi luồng sinh khí mới lan khắp thôn Tây Phổ.
Nghề cau đã có đất sống, đây đó, khói trắng lò sấy cau vướng vít trên tàng lá cau, vươn tới trời xanh. Trái cau không quẩn quanh mấy thành phố lớn mà xuất rầm rộ sang Trung quốc, Đài Loan nơi cau được ưa chuộng và gia công thành nhiều sản phẩm, nhiều mặt hàng chất lượng cao.
Nhiều đêm anh Ba vẫn rũ rĩ với em, " anh biết là cau xuất cho người ta chế biến lại thành phẩm giá cao gấp năm lần. Biết vậy mà phải chịu cắn răng xuất cau thô thôi. Anh ước gì mình biết cách chế biến thì đâu có để tài nguyên của Nam Phổ chịu chảy máu ra nước ngoài như vậy!"
Trong bóng đêm mượt như nhung của vườn cau, em nằm ôm bụng cười thầm. Hạnh phúc tràn trề như ánh trăng loang loáng trên tàng cau, rớt xuống tàu lá chuối, len vào tận cửa phòng. Anh xoa lên cái bụng tròn vo của em, mới năm tháng mà to gấp đôi người cùng tháng bình thường làm anh hớn hở chờ một cặp sinh đôi.
- Trời thương mình cho một trai một gái, chắc anh thành người hạnh phúc nhất trên đời!
Em hốt hoảng lấy tay bịt miệng anh lại.
- Cái miệng ăn mắm muối của anh, hư thì thôi. Trời cho sao biết rứa đi, ai lại được voi đòi tiên!
Anh vùi vào tóc em, cười thành tiếng:
- Ờ, tội lỗi của anh hết, được em rồi còn đòi tiên thần chi nữa.
Dường như đã xa lắm rồi những ngày xa cách tối tăm tuyệt vọng.
Mổi sáng anh theo bạn hàng đi thu mua cau từ sớm, em ngồi ngong ngóng trên tảng đá xanh đầu vườn, bên cạnh bốn cây cau tứ quý lúc lĩu trái chín màu gạch son thơm lừng, hoa cỏ đậu phộng vẫn nở vàng như những ngón tay út rung rinh trên thãm lá mượt xanh. Nắng từng đốm nhảy nhót trên lối đi rãi sỏi.
Có tiếng giày giẫm trên đường sõi lạo sạo, một bóng người to lớn đổ trùm xuống em. Và giọng trầm ấm quen cất lên:
- Nhìn em kìa, hồng hào như trái táo!
- Anh Hai!- tiếng kêu thảng thốt nghẹn lại trong cổ họng em. Anh Hai gầy guộc, xanh xao, hàm râu quai nón rậm rì hằn thêm nét khắc khổ. Tia nhìn dịu dàng vuốt ve chiếc bụng căng tròn của em.
- Con được mấy tháng rồi em?
Không đợi em trả lời, anh nhìn quanh vui vẻ:
- Vườn thay đổi quá, coi bộ khấm khá hơn xưa nhiều.
- Anh Ba vẫn đợi để trả tiền đất lại cho anh. Tụi em đã dành dụm đủ tiền- em lí nhí.
- Anh không về đây để đòi tiền, em biết là anh nỏ cần tiền! Tiền của anh đủ để mua cả làng cau Năm Phổ. Anh về đưa em đi lên thành phố. Em sắp sinh rồi, ở thành phố mới đủ điều kiện tốt nhất cho em.
Em co người lại, hoảng hốt:
- Không, em không đi lên thành phố. Anh Ba muốn con của tụi em phải sinh ra và lớn lên ở đây, ở Năm Phổ. Bao nhiêu bà mẹ đã sinh con được ở đây, em cũng làm được!
Anh ngẩn ngơ nhìn em, hai mắt bạc đi, xa vắng:
- Em nói Con của tụi em! Con của em và anh Ba?
- Dạ đã được năm tháng rồi, em nghĩ là song sinh- em mĩm cười xoa chiếc bụng tròn âu yếm, không để ý đến vẻ hoảng loạn thê thiết trong giọng nói của anh.
Anh bỗng bật cười gằn, tiếng cười lạnh lẻo thê lương dội lại âm u trong vườn cau.
- Anh phải đi đây- anh quay lưng- em nói đúng, em nên ở lại đây. Anh Ba cần em hơn anh.
Em ngồi ngẫn ngơ nhìn bóng anh xa dần, đôi vai rụt xuống cổ mệt mõi. Lòng tràn xót xa.
Vú Mười từ trong nhà bước thấp bước cao đến bên em, cười te tái:
- Vú nghe tiếng ai như tiếng cậu Hai, cô nờ- Rồi không đợi em trả lời, vú sà xuống bên cạnh em, nựng nịu cái bụng của em chầm bập- chà, nhỏ mau lớn như ri! Cậu Ba có được đứa con là phước lớn lắm cô nì. Vú đã tưởng hắn không bao giờ có con được. Hồi nhỏ hắn bị bệnh quai bị nặng lắm, một tay vú nuôi, vú biết mà...May nhờ, hắn ăn ở hiền lành, ông trời còn có mắt, mới có được như ngày hôm ni!
Cả bầu trời xanh chao đảo úp chụp xuống em, cả tàng lá cau trên đầu cũng quay cuồng. Tiếng cười thê lương u uất của anh Hai vọng lại, kéo dài u u như tiếng khóc.
Tự dưng, vú Mười kéo em vào lòng, giọng ru mượt mà ngân nga, lúc xa lúc gần:
Ước gì anh hóa ra vôi
Em hóa trầu lộc tốt tươi lại nồng
Anh thương em trầu hết lá lươn
Cau hết nửa vườn cha với mẹ nào hay
Trên bầu trời, những đám mây của Huế vẫn chín mọng thơm lừng như trái cây chín tới gió thổi bay lang thang từ cửa Thuận an dừng lại trên tàng cau xanh mướt, Nắng mới hồng hây hây.
"Chàng đến bờ con sông thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá.
Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nàng cũng tới con sông khóc cạn cả nước mắt và chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia.*
HẾT