Vì sao "sát thủ” thì"đầu mưng mủ”?
Điều gì xảy ra trong tâm lý cộng đồng những người trẻ khi ngày càng phổ biến lối nói vần kiểu như: “sát thủ đầu mưng mủ”, “chuyện nhỏ như con thỏ”, “buồn như con chuồn chuồn”, “chảnh như con cá cảnh” hay “đau khổ như con hổ”…?
Có thật đó là sự nhảm nhí hay nông cạn như cách mà một số nhà ngôn ngữ học, quản lý văn hóa cao đạo, nhân danh việc bảo vệ sự trong sáng tiếng Việt để chỉ trích, quy chụp, tìm cách cấm đoán?
Trước hết phải khẳng định rằng, từ trong lời ăn tiếng nói dân gian truyền thống, người Việt rất sính dùng thành ngữ, trích dẫn tục ngữ để gia tăng thêm hiệu quả biểu cảm của phát ngôn. Những thành ngữ súc tích, những tục ngữ gói gọn kinh nghiệm dân gian truyền đời phần lớn đều được thể hiện bằng hình thức biền ngẫu, cấu trúc cặp đôi, đăng đối, và được “gieo” vần, tạo cảm giác trôi chảy trong lời nói, biểu trưng về nghĩa, cô đọng về khái niệm, dễ nghe về mặt ngữ âm. Thành ngữ, tục ngữ được “xen” vào hợp lý trong văn viết đem lại giá trị phái sinh ngữ nghĩa cao. Cho nên có tâm lý này: chúng ta thường xem người biết dùng, dùng hiệu quả, nhuần nhuyễn nhiều và hợp lý những thành ngữ, tục ngữ, dụng điển vào giao tiếp (nói và viết, nhất là trong bình luận xã hội, nghệ thuật, học thuật) là sắc bén, thâm thúy.
Người Việt rất sính thơ ca. Một thời, không ít người trong giới phê bình văn học hay chua vào câu “Chúng ta một dân tộc của thơ ca” để mở màn cho những luận điểm ve vuốt tự hào về tâm tính truyền thống của người Việt. Một trong những đặc tính quan trọng và phổ biến trong quan niệm về thơ ca của người Việt là nệ vào vần, đề cao nhịp điệu đến nỗi, sinh ra một quan niệm lệch lạc: quy tất cả những gì có chút vần vè là… thơ. Cho nên, có thể cảm thông cho việc không ít người vì quá tự tôn dân tộc mà sướng lên rằng: mỗi người Việt đều là một nhà thơ (có lẽ vì khắp nơi trên đất nước này, ai cũng có khả năng “làm vần làm nhịp” trong lời ăn tiếng nói, trong viết lách). Ra đường gặp “nhà thơ” là vậy. “Thơ” (có vần) xuất hiện tràn lan trong sinh hoạt lời nói hằng ngày, từ quán nhậu, hội thảo đến các buổi hội thảo, bàn tròn, từ văn bản đơn thư dân sự cho đến rổn rảng trong các văn bản hành chính như nghị quyết, tham luận. Một trong những hậu quả nhãn tiền mang lại đó là, những diễn ngôn luôn dễ nghe, dễ đi vào lòng người nhưng gây ra không ít nguỵ tín, trì trệ cho đời sống vì khi cần minh bạch cụ thể thì chúng lại du dương truyền thông những điều thật mơ hồ, đa nghĩa.
Người ta vừa “làm vần” nhưng lại vừa rẻ rúng thơ là vậy. Mật độ “nhà thơ” xuất hiện trong các đám đông ngày càng lớn, cường độ vần vè xuất hiện trong ngôn ngữ giao tiếp ngày càng cao, mức độ thành ngữ, tục ngữ bị lạm dụng một cách vô tội vạ, thiếu chọn lọc, không phù hợp văn cảnh ngày càng lớn. Rất nhiều bài phát biểu của lãnh đạo được phát công khai trên truyền thông đầy tính thơ ca. Rất nhiều văn bản hành chính rỗng nghĩa nhưng nghe như áng văn bay bổng. Quá nhiều câu lạc bộ, hội đoàn nghề nghiệp quy tụ người làm vần nhưng việc sáng tạo ngôn từ lại bị hạn chế bởi những rào cản chủ quan lẫn khách quan.
Bắt nguồn sâu xa từ tâm lý phản ứng trước những khuôn thức, tình trạng trên những người trẻ đã có cách giễu nhại các mâu thuẫn hài hước đầy rẫy xuất hiện trong môi trường sống của mình. Họ giễu vần vè, châm biếm các hình thức giao tiếp bày trò văn hoa bề ngoài, bỡn cợt trước những trò trịnh trọng và sâu sắc giả tạo bề ngoài, khiêu khích sự bịp bợm hời hợt dưới chiếc áo ngôn ngữ hoa mỹ… Cách hiệu quả nhất là:
1/ mô phỏng chính cơ trình tạo ra vần vè, song đối, biền ngẫu, nhịp điệu, nhạc tính của “mô hình” truyền thống để tạo ra các “ngữ liệu” mới, đẩy giá trị biểu trưng nghĩa trở về rỗng, cốt tạo ra cảm giác nhảm, gây cười;
2/ lợi dụng đặc tính dị bản của truyền khẩu để bẻ đôi câu chữ, “hiệu chỉnh” khái niệm, đem lại những ý nghĩa hoàn toàn đối lập, ưu tiên sự phi lý hơn là logic, nặng tính giải trí “lãng xẹt” để đối lập với thông điệp nghiêm trọng và cao đạo đã cũ.
Và sau đó là gì? Dần xuất hiện một lối nói nhại biếm, đùa giỡn ngôn ngữ tự do, phóng túng, khinh khoái. Và, dễ cắt nghĩa khi cách nói dí dỏm bạt mạng kiểu: “chơi trội như bộ đội”, “đau khổ như con hổ”, cách thay từ bẻ câu, lái nghĩa so với “phiên bản cũ” như: “một điều nhịn là chín điều nhục”, “một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ” hay “thuận vợ thuận chồng đông con mệt quá”,… lại xuất hiện ngày càng nhiều trong trong những không gian tán gẫu, phổ biến trên không gian mạng, phi chính thức hơn là thành văn.
Không thể phủ định tính giải trí, thời trang trong lối nói này. Nhưng chúng ta tin rằng, thời gian sẽ sàng lọc một cách hợp lý để sự vui đùa với ngôn từ của con người không trở nên là một trò hoang phí, vô thưởng vô phạt.
Ngôn ngữ chỉ thực sự sống động khi người ta, qua lời ăn tiếng nói, qua sáng tạo ngôn từ, còn biết vui đùa tung tẩy với nó. Di sản ngữ liệu mà hôm nay không ít người đang sốt sắng quyết liệt bảo vệ (và quá đỗi lo sợ nguy cơ mất trong sáng) trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc cũng từng có nguồn gốc là từ lời ăn tiếng nói, tinh thần ưa hài hước, giễu nhại và đùa vui với ngôn từ của dân gian.
Vậy, trước những hiện tượng mới phát sinh trong đời sống ngôn ngữ, thì các nhà ngôn ngữ học và quản lý văn hóa phải cắt nghĩa cho được điều gì phía sau hành vi, chức năng sử dụng ngôn ngữ và nhận diện một cách khách quan, khoa học về quá trình chuyển động của nó thay vì vội vàng lên án, quy chụp và làm cái việc quá sức mình đó là tìm mọi cách để ngăn chặn.