Nhạc chế = ngôn luận & Aspirin
Sáng tạo của người Việt thì có hạn, nhưng cái tài chế biến, cải biên phục vụ mục đích sử dụng của mình thì vô hạn. Thử nhìn vào âm nhạc, những bài hát phổ biến thì thể nào cũng được dân gian mượn giai điệu, chế lời mới để nghêu ngao.
Và có lẽ vì cái mục đích là chỉ để nghêu ngao phi chính thống, nên nhạc chế chưa được tìm hiểu một cách bài bản và khoa học. Nó bị giới nghiên cứu nhạc thuật nghiêm trang coi là thứ “thiếu nghiêm túc” bóp méo sáng tạo của người khác, nhưng lại là vấn đề thú vị với những ai nhìn sự việc dưới lăng kính xã hội học hay tâm lý cộng đồng.
Nhạc chế, nhạc cải biên thực ra không mới; đã có mặt ngay từ khởi đầu lịch sử tân nhạc Việt Nam. Trong cuốn Tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu, nhạc sĩ Phạm Duy viết:
“… vào đầu thập niên 30, vì chưa có ai dám nghĩ đến chuyện sáng tác ca khúc mới (gần cả nhạc điệu với lời ca), ca nhạc Việt Nam là dăm ba điệu cổ nhạc đã quen biết được hát lên với lời ca mới.
Một số điệu Tầu đã được Việt Nam hóa và được dùng trên sân khấu cải lương, bây giờ cũng có lời ca mới để dân chúng hát chơi, như bài hát tán gái bằng điệu Mãi Tạp Hóa:
Mình ơi có đi bờ hồ
Cùng ta chén kem kẹo dừa…
(hồi đó, kéo nhau đi ăn kem ở bờ hồ Hoàn Kiếm là một cái thú của người Hà Nội)
Cứ đi, đi mình nhé
Trong túi có vài Rồng Xanh…
(nghĩa là tờ giấy bạc có vẽ hình con rồng xanh)
Cũng có cả một bài hát chế diễu người Hoa kiều, hát theo điệu Quảng (tức là điệu Tầu Quảng Đông) trong giới âm nhạc gọi là Bài Tạ:
Bên Tầu ngộ ở bên Tầu
Bên Tầu ngộ mới qua đây
Qua Nam Việt bán buôn làm giầu
Mới đến ngộ có cái đòn gánh
Mới đến ngộ bán bánh chè khô
Chè lỗ ngộ bán mì khô
Bán không được kéo nhau về Tầu…
Lúc bấy giờ có một số nhà giáo, có lẽ cũng muốn bắt chước người xưa là Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái đã dùng thi ca để viết cuốn Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca… cho phổ biến một số bài hát với lời ca kể chuyện tích trong lịch sử Việt Nam, hát theo nhạc điệu cổ truyền. Chẳng hạn một bài hát yêu nước theo điệu Cổ Bản:
Dân số 25 triệu, nói giống da vàng (ứ)
Chi Hồng Bàng, dòng họ Hùng Vương (ứ ư)
Phi thường, về thời hồng hoang…
Soạn lời ca mới hát trên điệu cổ để kể truyện lịch sử, và để nung nấu tinh thần yêu nước, lúc đó các nhà giáo còn làm chuyện đáng kể hơn nữa là dùng một điệu hát Việt Nam đang thịnh hành là điệu Hành Vân để dạy học trò với lời ca bằng tiếng Pháp:
Mes chers enfants
Vous êtes des jeunes gens
Il faut travailler
Et n’oubliez pas
Que le temps passé vite…
Lúc đó cũng có một bài ca yêu nước hát theo điệu Bình Bán mà có người cho là do nhà cách mạng Nguyễn Thái Học soạn:
Ta là dân nước Nam
Giống Lạc Hồng nay đã lầm than
Phải làm sao giết quân tham tàn
Giết loài thực dân lòng ta mới an…
Tóm tắt lại, trong thời gian sống dưới chế độ thực dân, lũ thiếu nhi hay thiếu niên chúng tôi, cũng như những người lớn, đã chỉ làm một công việc rất dễ dãi là: hoặc dùng nhạc điệu cổ Việt Nam để soạn lời ca mới, có khi là lời ca tiếng Pháp, với mục đích khêu gợi tinh thần yêu nước; hoặc dùng những nhạc điệu Tầu đã được Việt Nam hóa để soạn những bài hát chơi”.
Và nhạc sĩ hàng đầu trong nền tân nhạc Việt Nam cắt nghĩa: “Sự chắp và này chỉ nói lên nhu cầu có cái mới trong ca hát và chỉ được coi như đang trong giai đoạn sửa soạn để có một loại ca nhạc nào đó, khác với nhạc cổ truyền, nhạc dân ca đã có từ lâu và đang suy tàn”.
Và đây là tâm tình có tính đại diện cho một thế hệ: “Tới đầu thế kỷ XX thì những bài hát Âu Mỹ được phổ biến mạnh mẽ hơn tại Việt Nam dưới hình thức đĩa hát loại 78 tours, hoặc được phô diễn trên màn ảnh phim nói. Thế hệ chúng tôi không còn bị hấp dẫn bởi nhạc cổ truyền, không ham đánh đàn tranh, đàn bầu, đàn nhị, đàn nguyệt nữa, thì bèn tập đánh đàn mandoline, guitare và giỏi hơn nữa là tập violon, piano để có thể làm quen với những bài hát ngoại quốc mà chúng tôi ưa thích. Rồi cũng có khi chúng tôi soạn lời ca tiếng Việt cho những bài hát ngoại quốc, nhưng cũng chỉ là để “mình hát cho mình nghe” mà thôi” (Phạm Duy; Bài ta theo điệu Tây; dđd).
Như vậy, rõ ràng, bước chuyển tiếp từ nhạc truyền thống sang tân nhạc đã trải qua một quá trình cựa quậy thực hành mà ngày nay ta gọi là “chế” – từ chế “dăm ba điệu cổ nhạc đã quen biết được hát lên với lời ca mới” đến chế “một số điệu Tầu được Việt Nam hóa” với “lời ca mới” cho đến chế “bài ta theo điệu Tây”. Qua chế, người Việt có bước nhảy về hình thái âm nhạc và cũng qua chế, họ tỏ bày được trực tiếp tâm tình của con dân trong một đất nước đang sống trong mối họa ngoại xâm. Người ta mượn điệu Tây, điệu Tầu để cất lên thông điệp về ý thức dân tộc, tố cáo kẻ xâm lược hay giễu cợt hiện thực nhiễu nhương, những thứ không hoàn thiện trong đời sống.
Nhìn lại bức tranh khái quát của tân nhạc Việt Nam thuở đầu, có thể nói rằng, nhạc cải biên lời, hay nhạc chế, theo cách nói ngày nay, được xem là có yếu tố truyền thống. Đó không chỉ là một trò “hát chơi” mà xa hơn, đặt nền tảng cho một quá trình tiến đến sự tự chủ, khởi điểm của nghệ thuật tân nhạc Việt Nam.
Trong sự “hát chơi” đó, bên cạnh yếu tố giải trí, thì những bản nhạc cải biên thời bấy giờ đã thể hiện tính trào lộng, phê phán hiện thực của người dân, có thể xem như là hai yếu tố làm nên đặc thù của loại nhạc này tự thuở ban đầu và sẽ được tiếp nối về sau.
Nhưng khoan đi vào lãnh địa của sự nghiêm túc. Hãy bắt đầu với những bản nhạc chế sinh ra chỉ để tán nhảm, văng tục nghe vui tai mà mỗi người hát, qua quá trình nghịch ngợm, “xuyên tạc” tác phẩm gốc, những ca khúc (được chế) đã có một sức sống khác, tạm gọi là sức sống bên lề. Loại ca khúc chế như thế này nhiều vô kể trong dân gian, được giới bình dân hát nhiều, đôi khi chỉ để thấy vui vui, giải khuây trong những khung cảnh sinh hoạt thân tình. Ví dụ, khoảng những năm 1980, khi xe đạp Phượng Hoàng và quần jeans hiệu Hara là “đỉnh mốt”, thì lưu truyền trong dân gian bản nhạc chế theo giai điệu bài hát Alibaba: “Alibaba cái quần Hara xé ra làm ba, Alibaba/ Alibaba vô nhà người ta xách xe đạp ra, Alibaba!”. Thời đó, bản Đêm buồn tỉnh lẻ của Tú Nhi – Bằng Giang được hát lại được thay lời như vầy: “Ở trong tù con kiến cắn con cu nên con cu thù con kiến/ Kiến thù cu nên cu thù kiến biết bao lâu mới được ra tù…”. Còn bài Con đường có lá me bay của Phạm Minh Tuấn thì bị “xuyên tạc”: “Con đường có lá cao su/ Chiều chiều ta lại cầm (…)u nhau về”. Bài nghệ thuật tân nhạc Việt Nam. Một đời người một rừng cây của Trần Long Ẩn triết lý rổn rảng vậy, nhưng được “chế” ra “nhảm nhí”: “Khi nghĩ về đàn bà, tôi chợt nhớ về đàn ông/ Khi nghĩ về đàn ông, tôi thường nhớ về đàn bà…”. Còn giai điệu bài Lý chim quyên nổi tiếng đất miền Tây được “ráp” vào phần tếu táo hưởng ứng phong trào… kế hoạch hóa gia đình: “Em đặt vòng, em sướng vui/ Đã có vòng, đã có vòng, em tưng tửng từng tưng, em tưng tửng từng tưng”, v.v
Nhiều, nhiều những bản nhạc chế nhảm một cách độc đáo có thể trích dẫn sa đà triền miên như những cuộc bia bọt bất tận. Và đây là kho tàng “mồi nhắm” hạp tạng của các ông khi rượu đã mềm môi. Bàn nhậu cũng là một trong những không gian quan trọng để những nghệ sĩ “chế” phát huy “tài năng sáng tạo” của mình. Từ đây, chế mẹ đẻ chế con!
Nhạc chế dùng hát quán nhại, hát chơi thường có nhiều dị bản, bởi vì nó thiếu những thông điệp cụ thể, được “diễn xướng” tự do, tùy hứng. Trong khi đó, xuất hiện một dòng nhạc chế khác, tạm gọi là chế có thông điệp xã hội thì được chăm chút và “đầu tư” chuyên nghiệp hơn trong phần lời, phần kỹ thuật ghi âm. Thậm chí, chúng được cài cắm ngụ ý, quan điểm, như là một thứ “ngôn luận”, của người hát trước những vấn đề nóng bỏng, thời sự chính trị, văn hóa xã hội.
Quãng cuối những năm 1990, dậy lên trong đời sống âm nhạc hải ngoại hiện tượng “nhạc cười” (trung tâm băng nhạc Cười ở Mỹ sản xuất) do ca sĩ Trần Thiện hát trên giai điệu nhiều bản nhạc nổi tiếng. Phần hòa âm đơn giản, giọng ca xuềnh xoàng, tùy hứng đậm chất tấu hài truyền tải sự mỉa mai, trào phúng về tình thế dở khóc dở cười, éo le mà Việt kiều ở Mỹ gặp phải. Một số bài phê phán thói thực dụng, lọc lừa, chạy theo vật chất của người Việt hiện đại. Trần Thiện ra được một số album nhạc chế phổ biến tại hải ngoại và nhập nội theo đường xách tay, như: Áo em chưa mặc một lần, Tiếu ngạo giang hồ, Đàn bà đàn ông ở Mỹ, Huyền thoại đàn ông…
Trong các album này, có thể “đọc thấy” một số bài khá tiêu biểu, có độ lan tỏa cao trong cộng đồng. Ví dụ, để mô tả tình trạng thất nghiệp, sống thừa của đàn ông Việt Nam trong xã hội Mỹ, Trần Thiện “vay” giai điệu bài Không của Nguyễn Ánh 9: “One đô-la, phim cao bồi phim cao bồi coi khoái quá/ one đô-la phim đô vật phim đô vật coi sướng quá/ hai mươi lăm xen, phim kiếm hiệp, phim kiếm hiệp coi rẻ quá em ơi/ từ ngày vượt biển sang đây/ tiền xài đã có welfare, bệnh tình lại có medicare, không cần làm gì cũng lie/ làm gì cho nó mệt thân…”. Nói về sự lép vế của người đàn ông Việt Nam trong xã hội Mỹ khi người vợ nắm vai trò kinh tế chính trong gia đình, Trần Thiện chế bài Tình khúc buồn của Ngô Thụy Miên: “Em như một người chồng nàng lo chuyện lòng vòng/ Anh như người vợ hiền tề gia và tùng quyền/ nấu cơm với rửa chén/ giặt quần áo cho em, rồi bọc tã cho con/ Buồn/ Bao năm cuộc tình này hằng mơ được một ngày/ bao nhiêu lần định chuồn, bị em liệng vào buồng/ đắng cay như cà cuống/ rồi thì bó tay anh, rồi thì bó chân anh/ Buồn”. Bài Kiếm tiền kiểu mới phê phán việc “kinh doanh đám cưới” kiếm lời, nhại giai điệu rất dễ thương Gió mùa xuân tới của Hoàng Trọng: “Kiếm tiền kiểu mới/ Cứ làm đám cưới mong có lời/ Đám cưới khơi khơi/ Khách khứa xa xôi đều mời tới/ Có người đang túng/ Cố làm đám cưới mong vẫy vùng/ Ai tới vui chung/ Góp vốn cho ta làm hoàng cung”…
Những album bị coi “tào lao xịt bụp” đó lại được truyền lan rất rộng trong giới nghe nhạc bình dân vì sự hài hước, yếu tố “ba xu” giải trí rất cao, nó nói trực tiếp - không cần đắn đo lựa lời - những suy nghĩ bộc trực của người dân. Người ta phá cười khi giai điệu buồn bã, ủy mị, bay bổng mộng mơ hay trang trọng của những ca khúc gốc đã bị đánh tráo bằng những lời mới tếu táo, thô tục, được thể hiện bằng một giọng hát ngang phè phè, kéo lè nhè. Mua vui cũng được một vài trống canh.
Bấy lâu chìm đắm trong những tâm sự buồn, nay người nghe được nhìn mọi thứ bằng sự hài hước, trào lộng văng mạng không phải nhìn trước ngó sau, nhảm nhí đến thả lỏng, tạm quên đi cuộc sống đang lên dây cót, thì còn gì hơn. Con đường đến với công chúng của ca sĩ hải ngoại Trần Thiện không bền, nhưng ít ra là cháy lên trong một thời điểm bằng sự méo mó phá phách của ông ta. Những bài nhạc chế “nói chuyện thực tế” ở Mỹ, tưởng là chỉ để cười thuần túy, nhưng xa hơn, nó phản kháng lại một giai đoạn việc người ta biến hát hò thành công cụ nọ phương tiện kia, nghiêm trọng và lên gân đến nhàm chán.
Nhạc chế sống đúng nghĩa bên lề vì những “thợ chế” chẳng mấy ai xuất đầu lộ diện (ra vài ba album như trường hợp Trần Thiện là rất hiếm hoi). Một trong những lý do quan trọng đó là: trò “chế nhạc” này chắc chắn sẽ làm phiền lòng những tác giả văn bản gốc, và nguy cơ đáo tụng đình về tác quyền rất có thể xảy ra. Tránh lôi thôi - đó là lý do vì sao người chế nhạc, sau khi thỏa mãn với sự giải bày thái độ, thì thường đẩy bài hát vào trong dân gian hơn là xác định vị trí đồng sáng tác. Đời sống bên lề của những bản nhạc chế bản thân đã rất khỏe mạnh, vì người ta cần hát như cần tán nhảm, vui đùa, người “sáng tác” nào cần chi cái danh hão.
Thế giới âm nhạc “bên lề” đó được mở rộng biên giới không ngừng, nhất là khi có mạng internet. Chỉ cần một cây guitar, một đĩa nhạc đệm, rồi ngồi trước webcam máy tính, một người trẻ có thể tự ghi lại phần trình diễn một ca khúc chế rồi sau đó chia sẻ với hàng nghìn người xem, nghe trên mạng xã hội. Vậy là vô tư “câu view”, “câu like” và “âu còm” (comment)!
Đã có những “sự kiện” nhạc chế gây đình đám trên mạng. Hà Nội sau trận lụt lịch sử tháng 11.2008, trên mạng xuất hiện bản Hà Nội mùa này phố cũng như sông (chế từ bài Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa của Trương Quý Hải) do Tuấn DM trình bày nhận được một làn sóng “like và còm” kịch liệt của cộng đồng mạng:
“Hà Nội mùa này phố cũng như sông / Cái rét đầu đông chân em run ngâm trong nước lạnh/ Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố/ Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng/ Hà Nội mùa này chiều không có nắng/Phố vắng nước lên thành con sông/ Quán cóc nước dâng ngập qua mông/ Hồ Tây, giờ không thấy bờ/ Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn/ Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay/ Cho đến đêm qua lạnh đôi chân/ Giờ đây lạnh luôn toàn thân.
Hà Nội mùa này phố cũng như sông/ Cái rét đầu đông chân em thâm vì ngâm nước lạnh/ Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố/ Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng/ Hà Nội mùa này người đi đơm cá/ Phố vắng nước lên thành con sông/ Quán cóc nước dâng ngập qua mông/ Hồ Tây tràn ra Mỹ Đình/ Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn/ Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay/ Cho đến đêm qua lạnh đôi chân/ Giờ đây lạnh luôn toàn thân”.
Người ta thấy bắt đầu xuất hiện những ca sĩ trẻ xuất hiện một cách tự tin với nhạc chế khi không gian chia sẻ mạng cũng có thể đem lại cho anh ta tên tuổi không kém trên những sân khấu ca nhạc chính thức. Điều này đúng với trường hợp ca sĩ Cáp Anh Tài. Tự quay lại những phần trình diễn những bản “nhạc chế thời sự” dưới dạng các clip rồi post lại trên website của mình (capanhtai.com), Tài, tốt nghiệp ĐH Bách Khoa Đà Nẵng từng đoạt giải tiếng hát miền Trung đã thu gặt những thành công bất cứ một showbiz chính thống nào cũng phải thòm thèm mơ ước.
Hướng sự châm biếm đến các vấn đề xã hội: kẹt xe, đua xe trái phép, đường ngập hay chuyện bão giá với sinh viên…, Cáp Anh Tài tạo ra sự đồng cảm lớn trong cộng đồng mạng. Anh có fan club khắp ba miền đất nước. Mỗi clip mới của anh thu được vài trăm nghìn lượt xem và bình luận. Anh được mời đến một số sân khấu để chính thức hát… những bản nhạc chế của mình. Dưới đây là câu chuyện về một “tình cảnh ngập” trong liên khúc Sài Gòn trong mắt ai, viết nhân kỷ niệm ngày giải phóng TP.HCM, tháng 4.2012, Cáp Anh Tài chế theo giai điệu bài hát Tàn tro của Nhật Bản:
Này hỡi con, sao mà đi lâu thế.
Từ lúc trưa, khi trời chưa có mưa.
Hay vẫn ưa, tụm năm ba đứa.
Thôi về mau, kẻo tim má đau.
Chà chán ghê, con nào đâu thích thế.
Cũng muốn nhanh, để còn đi đá banh.
Nhưng ngó quanh, đường đi không thấy.
Thì con cũng pó tay nào hay.
Trời vừa mưa xuống con đường biến ngay thành sông, thì cũng bằng không.
Dù nôn nóng trong lòng, cũng đành đứng trông,
Con ao ước khi vô nhà, để ngồi với ba,
và cùng ăn cơm với má…
Chờ con lâu quá má bắt ngay con gà.
Chờ thêm lúc nữa má bỏ đi vô nhà
Chỉ còn mỗi ba, lại ngồi thở ra.
Buồn tay nhấm nhá, hết cha con gà.
Những ca sĩ nhạc chế như Cáp Anh Tài ngày càng đông. Forum “chuyên trị” nhạc chế nở rộ trên mạng, thu hút nhiều thành viên. Báo chí bắt đầu có sự quan tâm đặc biệt đến hiện tượng này. Vì qua những bản nhạc chế được cập nhật liên tục, người ta nhận ra đo được cảm xúc, nhận thức của người trẻ trước những vấn đề thời sự nóng bỏng.
Chỉ sau một tuần xảy ra chuyện các phụ huynh chen lấn đạp đổ cổng trường Thực Nghiệm (Hà Nội) chỉ để kiếm một suất học cho con, bản nhạc chế Ngày nộp đơn đi học được cải biên trên nền ca khúc Ngày đầu tiên đi học của Nguyễn Ngọc Thiện được phát tán, gây sốt trên không gian ảo. Bài hát có những câu cười ra nước mắt thế này:
“Ngày nộp đơn xin học,
Mẹ thức đêm đứng chờ,
Mắt mờ mong trời sáng,
Mẹ lách vào, mua đơn.
Ngày nộp đơn xin học
Mưa ướt hết mẹ rồi!
Nhưng quyết phải chen lấn
Thương con nên thế thôi!
Rồi trời kia cũng sáng,
Mẹ đá tung cổng vào
Chen nhau chạy nước rút,
Trong hỗn loạn biết bao.
Con mai này khôn lớn
Sẽ nhớ mẹ ngày xưa:
Phải chạy đua hỗn loạn
Để con khỏi “học thường”!!!”
Báo chí đã nghiêm túc trích dẫn và bình luận rằng, đây là một bản nhạc chế đầy thâm thúy. Nhạc chế phản ánh thời sự cũng đã xuất hiện công khai trên VTV vào mỗi tối giao thừa, trong Gala Táo quân hàng năm.
Người ta thấy các “Nam Tào, Bắc Đẩu” báo cáo với Ngọc Hoàng về các tiêu cực trong những lĩnh vực xã hội bằng… những bài hát cải biên có tính gây hấn với những bê bối, trong đó có bê bối trong quản lý nhà nước. Nhạc chế cũng xuất hiện như một món không thể thiếu trong các chương trình sân khấu tấu hài phía nam. Sự phát tán của “dòng nhạc” này đi khắp mọi miền đất nước qua con đường băng đĩa chính thống đến với những hộ gia đình, qua những xe kẹo kéo, hàng dạo với những loa thùng luôn mở hết công suất và được mở mua vui trên những chuyến xe khách liên tỉnh. Kẻ chịu thứ nhạc này gật gù đã đành, kẻ dị ứng với thứ nhạc này, lâu ngày chịu đựng sự cưỡng bức thanh âm, đâm ra ám ảnh, cũng thuộc làu làu và gật gù theo lúc nào không biết.
Càng ngày, truyền thông trong nước càng mạnh dạn xiển dương những thông điệp bên lề của nhạc chế. Điều này kể cũng dễ hiểu, khi chính họ, với những vướng mắc cấm kị trong kiểm duyệt, dù muốn lắm, cũng khó toàn tâm đứng về phía người dân để mô tả trực tiếp và trung thực tâm thế xã hội. Thì điều đó, những người viết nhạc chế làm được. Làm tốt là khác. Một ví dụ khác cho thấy điều này. Việc nhà nước không tìm ra được nguyên nhân lẫn biện pháp xử lý, để tình trạng xe máy đang chạy trên đường tự nhiên bốc chảy xảy ra như cơm bữa, báo chí gào thét không lay chuyển được tình hình, thì những “chế giả” Trí TM, Thế Anh Đại Hiệp, Hiếu TT và Trúc LT vào cuộc với một clip có tên Ngọn lửa tay ga (mượn giai điệu Ngọn lửa Tây Nguyên của Trần Tiến): Một ngọn lửa hồng kề mông ta Ứ Ừ Ư/ Một ngọn lửa hồng cháy từ từ/ Một ngọn lửa hồng từ từ bốc cháy/ Ôi mông ta mông ta, ôi honda honda, ôi chiếc xe của ta/ Một ngọn lửa hồng từ đâu ra??? á à a.../ Một ngọn lửa hồng cháy phà phà.../ Một ngọn lửa hồng phà phà đốt cháy, ôi mông ta mông ta. Ôi honda honda trong ánh lửa bập bùng!/ Biết bao ngày qua, tình góp tình góp mua chiếc xe honda..
Đến bây giờ, xe bốc hơi rồi, XĂNG KIA BỊ PHA LẮM THỨ.../ Giờ nó bị cháy thì biết kêu ai, bây giờ/ còn bao nhiêu honda honda vẫn đang chạy?/ còn bao nhiêu xăng pha xăng pha bán trên đường/ còn bao nhiêu honda, còn bao nhiêu tay ga vẫn CHỜ CHÁY, CHỜ CHÁY/ Cháy lên đi này xe Honda, cháy lên đi này Yamaha, cháy lên đi này Toyota!!!
Cũng nhóm nhạc này, trước đó, có một bản cải biên ấn tượng gây sốt phản ứng chính sách nhà nước rục rịch ban hành quy định thu phí giao thông nội thị. Ở bản nhạc chế này, người nghe thấy thỏa mãn vì đã chỉ trích trực tiếp chủ trương không thuận lòng dân của Bộ Giao thông Vận tải; chế theo giai điệu của bản Ngẫu hứng lý ngựa ô (Trần Tiến):
Bao năm qua nằm mơ một con xế hộp/ cho vợ con khỏi lo nắng mưa. Nhưng xe hơi tiền cao còn lo thuế nặng. Xăng thì không ngừng tăng, dầu kia cũng tăng. Nghe tin anh giao thông đưa ra kế hoạch trụ sở anh quyết xây to… to.
To nhưng anh không lo do thu thuế nhiều thế nhưng bao con đường bao cây cầu đang cất đến bây giờ… chưa xong. Phí… phí… phí không ngừng tăng. Phí… phí… phí không ngừng thêm vừa thêm lại thêm rồi mai anh bí… túng… thiếu… phí anh bèn tăng thật cao thì… dân thế nào. Bán xe, không thèm, chuyển sang xe ngựa giờ thì mình chuyển sang xe ngựa không lo ô nhiễm.
Biết rất rõ phố đang ngày đêm kẹt xe thì anh chơi tới/ khúc đóng phí ra vào nơi thành đô thành đô còn dân thế nào? Quyết tâm không cần lại đi xe đạp. Giờ thì ngày ngày mình đạp xe cưỡi ngựa. Phí… phí… phí không ngừng thêm vừa thêm lại thêm rồi mai anh bí túng thiếu… phí anh bèn tăng thật cao thì… dân thế nào…”.
Trong những bản nhạc chế phản kháng thực tế xã hội, người hát thường đứng ở vị trí thường dân với tinh thần phản biện cao. Những câu hỏi kiểu “thì dân thế nào?” hay “sao lại chơi ác với dân?” được đưa vào một cách tự do, điều mà ngay cả báo chí đôi khi cũng tránh né vì được xem là vấn đề “nhạy cảm”. Giáo sư Cù Trọng Xoay, một gương mặt quen thuộc trên show “hỏi xoáy đáp xoay” của truyền hình VTV xem ra không nổi cho bằng tham gia trong một clip nhạc chế. Anh ôm cây guitar điện trong giàn nhạc rất gọn, vẻ mặt phớt tỉnh, giọng ca vừa “nhựa” vừa “lạnh”, phê phán các quy định về tăng giá xăng dầu liên tục (trên nền giai điệu bản Mây lang thang của Kim Tuấn):
Xăng! Sao vừa tăng giá mấy hôm lại tăng
Đang thời lạm phát khắp nơi đều căng
Phen này chết đói dân nhe cả răng
Sao lại chơi ác với dân vậy xăng?
Xăng! Bây giờ ta biết kiếm ăn làm sao?
Xăng giờ tăng giá mỗi hôm một cao
Bao tiền trong ví mỗi hôm một hao
Xăng lại chơi ác với dân vậy sao?
Giờ xe máy cất trong nhà, mình đếch thèm đi
Đi bằng xe buýt, chi tiền cũng ít, đỡ phải đau đít
Giờ cưa gái đến chơi nhà, mình cứ tặng xăng
Xăng giờ cao giá, lấy lòng ba má, không cần hoa lá.
Xăng! Hay là ta sẽ đi xe đạp chăng?!
Không chừng cơ bắp mấy hôm lại căng
Nghe đồn sang tháng giá xăng còn tăng
Nhưng mà tăng nữa cũng mặc mẹ xăng!
Ông Sigmund Freud (1856 – 1939), cha đẻ ngành phân tâm học nói đại ý rằng, tiếng cười là phản ứng của sự thất vọng. Còn Kurt Vonnegut (1922-2007), nhà văn hậu hiện đại người Mỹ viết: “Óc hài hước là một cách tránh xa cuộc sống tệ hại, để bảo vệ bản thân bạn” và “Óc hài hước có thể là một sự khuây khỏa, như viên thuốc aspirin vậy”.
Thủ pháp giễu nhại (parody) và sự bên lề, giải trung tâm (decentralization) của những bản nhạc chế, rất có thể sẽ được những nhà phê bình mắc chứng ghiền hậu hiện đại có thêm nguồn cảm hứng hô hào. Nhưng rất tiếc, họ lại đang bận xếp lịch xào nấu các tham luận cho những tọa đàm hội thảo bốn mùa, diễn ra khắp nước, nên chưa ngửi thấy.
Không sao, những người chế nhạc để “nói thời sự” hôm nay không quan tâm đến việc họ có thật là hậu hiện đại hay không. Họ chẳng đứng vào chiếu nào cả. Chỉ đơn giản là, làm sao với những giai điệu có sẵn và quen thuộc, có thể tạo ra một liều lượng aspirin đủ để giải khuây, một thứ ngôn luận giải tỏa nỗi thất vọng trước những nan đề hiện thực chưa thấy giải pháp. Bằng một sự phá phách trong âm nhạc, họ tìm thấy sự chia sẻ của số đông người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Và lý lẽ để nhạc chế tồn tại là: ai cũng có thể chế, ai cũng có thể hát, ai cũng có cơ hội trải lòng hay bày tỏ quan điểm. Đó là dân nhạc.
Không bàn tay nào đủ sức để bịt kín những cái miệng đang hát mà như gào thét. Dù chỉ là gào thét cho chật đầy hư không.