Thật sướng được là người Hà Nội
Đã bốn chục năm rồi đấy nhỉ. Năm lẻ lễ vừa năm chẵn lễ lớn. Suốt cả cái tháng Mười hai phố tôi ngày ngày vang vang những bản hùng ca và chuyện xưa chiến thắng ôn lại. Hàng sáng cứ phải đợi cái loa đầu ngõ ngừng hát mới ra làm được chén trà ở quán cóc đầu ngõ.
Sáng nay Phường mở chiến dịch giải tỏa cụm dân cư bên số chẵn. Thông thường lẻ xui chẵn hên mà may thay ở phố tôi thì ngược lại, chúng tôi bên số lẻ yên ấm rung đùi trà thuốc nhìn hàng xóm ngay bên kia đường đang vỡ tổ. “Đã bốn chục năm rồi đấy nhỉ, các bác”, bà cụ quán cóc nói mà như than lên. Bà bảo là mạn số chẵn bên kia đường xưa chỉ rặt những rác rưởi, sình lầy, ma trơi. Tới hồi loạn, nhiều gia đình trong nội phố nhà bị trúng bom phải dạt ra chỗ rác rưởi đó dựng lều. Đợt tháng Chạp 72 là đông nhất, toàn người Ngõ Chợ. Lần hồi thành ra phố xá bây giờ, nhưng gốc gác là như thế, từ cái thuở binh đao nhà tan cửa nát ấy. Tới giờ, bốn chục năm sau, các nhà bên ấy lại gặp hạn
Đời người ta sống bưng tai bịt mắt là chính, gắng không mong gì, cố chẳng nhớ gì, mà rồi vẫn cứ nhớ, chẳng quên nổi một cái sự gì cả...
■
Tháng Chạp 72, đang trong chiến trường, không được chứng kiến Điện Biên Phủ Trên Không, vậy mà không thể nào tôi quên 12 ngày đêm ấy. Bởi vì, ngược với cảnh ngộ khi đó của gia đình tôi và của nói chung mọi người dân Hà Nội, 12 ngày đêm ấy với tôi lại là quãng thời gian yên ắng nhất từng có trong đời bộ đội.
Một sự yên ắng kinh hoàng. Tôi nhớ là nó “ nổ ra” từ ngay buổi chiều ngày 18. Đang suốt ngày đêm không lúc nào dứt tiếng bom hú, đột nhiên đất trời lặng phắc. Suốt tối, trọn đêm, rồi đã sang hẳn ngày 19, không gian vẫn trống trơn, tịnh không có tiếng máy bay dù là văng vẳng. Thế nghĩa là sao? Mãi chiều tối ngày 19, khi chính trị viên tiểu đoàn lên được chốt, chúng tôi mới vỡ lẽ vì sao điểm cao của chúng tôi được yên thân trong suốt 24 giờ qua. Mà chắc không chỉ chỗ chúng tôi, có lẽ trên toàn khắp chiến trường đều đã tạnh mưa bom. Toàn bộ Không lực Mỹ, kể cả loại khu trục yểm trợ bộ binh, bị vét sạch, dốc lực tấn công Hà Nội. Những thảm bom B52 vẫn hàng ngày trùm lên các vùng chiến sự nay đã tụ hết lại dập xuống chỉ một tọa độ duy nhất: Hà Nội!
Mà đâu chỉ trong 24 giờ. Ngày 20 qua, rồi ngày 21, 22, 23... tuy rằng địch ta vẫn giằng co nhau trên các triền đồi, và thi thoảng vài chiếc A37 của không quân Sài Gòn xuất hiện, nhưng về thực chất thì cuộc chiến đã chết lặng, quân lính như nín thở nhìn lên bầu trời mùa khô đã hơn mười ngày không thoáng một vệt khói Pháo đài bay B52. Một nỗi yên ắng tàn khốc, vò xé tâm can. Tôi thì tất nhiên rồi, nhà tôi phố Hàng Đẫy ngay mé sau Ga. Nhưng mà thực sự là ai cũng tâm trạng đó, mặc dù khi đó trừ tôi, tất cả đại đội đều quê Thanh Nghệ Tĩnh.
Song thời khắc mà tôi đích thực cảm nhận được tình cảm của anh em đồng đội đối với Hà Nội lại chính là lúc “12 ngày đêm” kết thúc. Chúng tôi, lính trên chốt, không hề được thông báo về sự kết thúc ấy, mà chúng tôi nhìn thấy. Lúc đó là sáng ngày 30. Sầm sầm hai “vỉ ruồi” ập tới, bổ nhào trút bom xuống đồi. Chỉ hai chiếc thôi, nhưng là F4 Con Ma, của Hải quân Mỹ. Tôi không hiểu ngay ra được ý nghĩa của điều này, nhưng C trưởng Tâm thì hiểu. Từ hầm chốt bên mỏm đồi A anh hét vào bộ đàm sang cho bọn tôi bên mỏm B. Tôi khi đó đeo “hai oát” nên tới bây giờ vẫn nhớ y nguyên lời và cái giọng Nghi Lộc của anh Tâm lúc ấy, tá hỏa mừng vui, quên cả dùng mật ngữ. “Hắn nhả Hà Nội rồi bay ơi! Hắn nhả Hà Nội rồi trời nạ! ”. Trong tiếng gầm của Con Ma, tôi gào: Bọn nó ngừng Hà Nội rồi anh em ơi! Tiếng reo nối theo tôi lan khắp các chiến hào của trung đội.
Niềm vui bột phát ấy thật là khác thường, bởi rất chi ngược đời: mừng vì bị ném bom trở lại! Như tôi, thì đã đành, nhưng các bạn tôi? Bởi việc quân Mỹ ngừng oanh tạc Hà Nội, không chỉ có nghĩa sự khốc liệt trở lại với chúng tôi, mà quê nhà của các bạn tôi, của anh Tâm, vùng nam Khu Bốn, sẽ lại lập tức lụt chìm trong lửa đạn ngút trời. Bom rải thảm, bom tọa độ, trọng pháo Hạm đội Bảy...
■
Từ trong chiến tranh, và về sau này trong hòa bình, luôn luôn tôi ngạc nhiên nhận thấy cái tình ưu ái đặc biệt ấy của người thường dân, nhất là nông dân, ở mọi miền đất nước đối với Hà Nội. Đối với Thủ đô Hà Nội, thì sự ưu ái ấy là điều đương nhiên, chẳng có gì khó hiểu. Có công dân của quốc gia nào mà lại không quý thủ đô của nước mình. Mà thành Hà Nội, Thăng Long ngàn năm, có ý nghĩa thiêng liêng như thế nào trong tâm hồn mỗi người Việt Nam thì lại càng khỏi phải bàn. Song, sự thiên vị về tình cảm của cả nước, như tôi thấy, dành cho con người - “người Hà Nội” - thì thú thực luôn khiến tôi lấy làm lạ.
Khi còn nhỏ tuổi, mười năm hòa bình giữa hai cuộc chiến, sống quẩn quanh trong phố thì chưa biết gì, nhưng từ 1965, đi sơ tán về nông thôn, đám học trò Hà Nội chúng tôi có vô cảm tới ấy cũng thấy ngay ra rằng:
1. Nông thôn có nơi đất tốt nơi đất cằn, có vụ được mùa vụ mất mùa, song người nông dân thì đâu đâu và thuở nào cũng nghèo, ai ai cũng quanh năm tứ thời cật sức làm lụng mà thiếu thốn mọi bề, “đứt bữa” là sự thường. Một tay học trò dài lưng tốn vải nhưng có sổ gạo Hà Nội như tôi dẫu chẳng sung sướng gì, song chí ít vẫn có cái tiêu chuẩn “nhân dân” mà bất kỳ một người nông dân lực điền nào cũng chẳng dám màng. Làm ra hầu như tất cả mọi thứ để nuôi sống thế gian mà rồi theo nghĩa vụ của người nông dân thời đó, họ phải đóng nộp hầu hết, chẳng còn lại bao lăm cho gia đình. Mà nghĩa vụ của nông dân đâu chỉ có thế. Tôi học lớp 10 ở trường cấp ba huyện Thạch Thất, song bạn học đa phần là Hà Nội sơ tán, bạn học người địa phương chỉ non nửa. Thi tốt nghiệp xong, học trò người Hà Nội du học tận Liên Xô với Đông Âu, nhập ngũ mỗi hai người, còn các bạn học người Thạch Thất tất tật chẳng trừ ai đều đi bộ đội, đi Thanh niên xung phong. Bởi thế, như tôi thấy, làng mạc đã cạn hết thanh niên. Và cũng nhờ thế mà trong bộ đội, nhất là trên dọc 559 và trong các chiến trường Bê, tới 90 % quân số là đã từ làng quê lên đường ra trận. Nhưng, có lẽ tôi nhầm, bộ đội ngoài Bắc, trong Không quân và trong Phòng không, trong các đơn vị đã đổ máu xương bảo vệ Hà Nội và đánh bại B52 hồi 1972 chắc cũng hầu hết là anh em nông dân mặc áo lính. Chứ còn ở đâu ra nữa?
2. Cái thời sơ tán chạy bom đó, suốt quãng đời từ 11 tới 17 tuổi, rời cha mẹ, xa Hà Nội, với tôi mỗi túp nhà tranh từng được ở đều là mái ấm gia đình. Bất kể tính nết của cá nhân tôi cộng với lối sống thị thành lúc ít lúc nhiều gây trái khoáy và phiền nhiễu, tôi vẫn luôn được các gia đình nông dân coi như con cái trong nhà, mà thực ra là còn được chăm chút hơn, ưu tiên hơn. Cố nhiên đâu có riêng gì tôi mới được như thế. Không phải tất cả song cũng tới già nửa dân số nội thành Hà Nội đã tản về các miền quê. Hàng trăm ngàn con người thành thị nhờ vào sự che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của người nông dân mà chẳng những yên lành tai qua nạn khỏi lại còn được hưởng sự tôn trọng và tình thương mến nồng hậu, không hề bị cảm giác đất khách quê người.
■
Nhưng năm tháng trôi qua tất cả dần mai một.
Hồi năm 1965, địa phương đầu tiên tôi chạy sơ tán về là xã Cửu Cao huyện Văn Giang. Một vùng quê tuyệt đẹp và trù mật bên bờ Bắc Hưng Hải.
Mùa thu năm nay, 2012, cái đám học trò lớp 6 người Hà Nội sơ tán hồi ấy tổ chức họp mặt ở Ecopark. Tất cả đều xe hơi, một đoàn dài quý ông quý bà về chơi “cố hương”. Chẳng ai biết điều gì đang xảy ra ở đấy, có biết cũng không quan tâm, chẳng ai đoái hoài nghĩ tới việc hỏi xem các bạn học người Văn Giang và các gia đình mà hồi đó mình ở trọ hiện tình ra sao. Có lẽ tất cả chúng tôi đều ngại, đều tránh đi cho yên chuyện. Thì đấy là cái cách muôn năm của dân Hà Thành. Tuy nhiên sao lại nhè lúc này mà kéo nhau về đây chơi, có vô cảm quá không, có bạc quá không, chúng tôi chẳng hề tự hỏi.
■
Tôi với bao bạn hữu cùng lứa cùng phố, những người Hà Nội chúng tôi, đã được hưởng bao nhiêu là ơn nghĩa của thôn quê, nhưng một cách đầy nghiễm nhiên. Cứ hưởng thế thôi, nghiễm nhiên mà hưởng. Trong chiến tranh đã thế, hòa bình vẫn thế, bây giờ càng thế. Như tôi, một thường dân Hà Nội, tất nhiên chẳng đặc quyền đặc lợi, chẳng sung sướng gì, nhưng rõ ràng là vẫn sống dễ dàng hơn hẳn so với các bạn đồng ngũ của tôi giải ngũ trở về làng quê ở Nghê An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa. Hỏi rằng vì sao thì chịu. Tôi cứ thế nghiễm nhiên mà hưởng. Và bởi vì nghiễm nhiên nên ân tình được hưởng thì sâu nặng mà sự hàm ơn nếu có chăng, cũng đã mai một đi rất nhiều. Hầu như chỉ còn là ở đầu môi chót lưỡi.
Người ta bảo rằng vì tôi quê nội Quảng Bình, không phải Hà Nội gốc, nên không thể hiểu thấu được cái giá trị vinh hiển và cái quyền đặc cách đương nhiên của người Hà Nội. Cũng đúng. Và quả thật là tôi cũng luôn tự vin vào xuất xứ Đàng Trong của mình để tránh phải băn khoăn nghĩ ngợi phiền toại.
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số Tết, 2012