Ất Mão, một mùa xuân không thể nào ngờ và không thể nào quên
Từ mùa xuân Ất Mão đất nước Hòa bình thống nhất đến xuân Ất Mùi này đã chừng bấy năm trời sinh sống đời thường, đi nhiều, gặp gỡ nhiều, tôi dần quen biết với không ít những người đồng niên từng tại ngũ trong quân đội Sài Gòn. Dẫu không phải chí thân, song những khi có dịp, tôi vào trong đấy hay là mấy anh ra đây, thường tìm đến nhau. Các anh cũng như tôi thôi, chẳng ai giàu có đình đám nhưng bởi đã lớn tuổi, sóng gió trong đời đã lặng, nên tất cả đều một cuộc sống tàm tạm, yên bề và thong thả. Ngó mấy anh già tụm ba tụm tư lai rai nhậu bên bờ hồ Tây thiên hạ khó mà hình dung nổi cái sự tụi tôi ngày xưa nón sắt mũ cối quân ta quân địch.
Tôi không giỏi nói nhưng nghề viết văn nên giỏi nghe, do vậy dù đối ẩm hay quây quần một nhóm, những người anh em “cựu thù” cũng tỏ ra cởi mở đối với tôi. Vả lại quen biết đã lâu, không còn vướng vấp sự địch ta, không gì phải e ngại nhau, chúng tôi tự do ngôn luận song phẳng với nhau mọi điều. Ngoài những hồi ức về thời thơ ấu, tuổi học đường, về cha mẹ ông bà, quê nhà, dòng họ, nói chung về đời sống người bình dân miền Nam thời “sau 54 trước 75” mà tôi rất thích nghe kể, rốt rồi mấy anh bạn của tôi cũng sẽ cùng tôi trở lại với những năm binh lửa. Ký ức chiến tranh thầm lặng chất chứa nỗi lòng và dù muốn hay không vẫn mãi in hằn trong tâm trí mỗi người. Chỉ cần tin cậy nhau, cởi mở được với nhau là mỗi người mỗi kho tàng kỷ niệm để có thể tâm tình và bàn luận. Đời lính, những ngả đường chiến tranh, các trận đánh đã trải từng...
Tầm tuổi với tôi nên hồi Mậu Thân các ông bạn “đối phương” của tôi đều đang đi học như tôi, tôi cấp ba họ thì Trung học Đệ nhị cấp. Nhưng các trận chiến năm 1970, 1971, rồi Mùa hè đỏ lửa 1972, rồi Tết hòa bình Quí Sửu, và nhất là 1975, thì cũng như tôi, sâu đậm từng ngày một trong lòng họ. Ngày 9 tháng Ba, ngày 10 tháng Ba năm 75 ấy tôi ở đấy, anh ở đâu? Ngày 26 tháng Ba, 29 tháng Ba... Ngày 29 tháng Tư, ngày 30 tháng Tư?
Rất nhiều điều để kể, để nghe, bàn luận, tranh luận với nhau, nhưng câu chuyện của chúng tôi, như là chính cuộc chiến, rốt rồi đều qui về ngày chót cùng, 30 tháng Tư. Do đâu mà có ngày hôm đó? Nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân gián tiếp thì nhiều, và cố nhiên là tôi với mấy anh ấy không đồng thuận được với nhau ở rất nhiều điểm. Nhưng nguyên nhân cụ thể và trực tiếp thì chúng tôi đều nhất trí: ấy là bởi trận Buôn Ma Thuột! Nói theo cách của họ: với thảm bại Buôn Ma Thuột cùng hậu quả của nó là cuộc đại di tản khỏi Cao nguyên Trung phần, quân đội và chế độ Việt Nam cộng hòa đã chết chắc, còn nốt cái tháng Tư sau đó chỉ là thời gian ngắc ngoải. Song, vì sao Buôn Ma Thuột? Vì sao Quân Giải phóng đại thắng, quân Sài Gòn thảm bại trận ấy? Tới đây thì tôi và mấy anh lại suy nghĩ có phần khác nhau. Các anh ấy đều cho rằng: do Nguyễn Văn Thiệu trên chóp bu cùng đám tướng lãnh chỉ huy Vùng Hai quá đỗi bất tài nên vào mùa khô 1975 đã dồn toàn tâm toàn lực phòng thủ Công Tum và Pleiku, khiến cho không những bị bất ngờ mà còn hoàn toàn bị áp đảo trước đòn tấn công Buôn Ma Thuột của Quân Giải phóng. Mấy anh ấy nói vậy không sai, có điều là quá nhấn mạnh vào nguyên nhân ấy và cho rằng chỉ bởi nguyên nhân ấy, thì lại không đúng. Tôi nghĩ vậy.
Thiệu bất tài? Có thể, song quyết định của ông ta không là độc tôn, bởi bên trên còn có Nhà Trắng, Lầu Năm góc, CIA, tòa Đại sứ... Vả chăng, nói Thiệu bất tài là ngày nay nhìn lại thấy thế, chứ trong thực cảnh chiến trường lúc bấy giờ thì những nhận định của ông ta là đúng bài bản. Chiến cuộc mùa khô 1975 sẽ mở màn ở Cánh Bắc hoặc Cánh Trung B3, bộ đội B3 sẽ tập trung đánh dứt điểm thị xã Công Tum hoặc Pleiku, ấy là điều đương nhiên không chỉ đối với ông Mỹ, ông Thiệu, mà thú thực là cả với chính tôi nữa, một anh lính B3 đã có kha khá năm tháng kinh nghiệm chiến trường.
Có lẽ chẳng riêng tôi, mà mọi anh bộ đội B3 lính thường như tôi và cả cán bộ nữa từ cấp tiểu đoàn trở xuống hồi ấy đều sẵn sàng tinh thần cho các trận chiến nảy lửa sẽ bùng lên trên Cánh Bắc. Mặt trận B3 từ thời khởi thủy cho tới cuối năm 1974 đã luôn là vậy: các chiến dịch trọng điểm, những đòn tấn công chủ yếu hầu hết diễn ra ở Công Tum và Gia Lai, còn Đắc Lắc - cánh Nam là hướng phụ. Cụ thể nhất là năm 1974, các trận đánh lớn do lực lượng chủ công của B3 là Sư 10 tiến hành đều diễn ra tại địa bàn Công Tum: Đắc Pét, Măng Đen, Măng Buk, Konplong, Con Rốc, Ngô Thanh, Trung Nghĩa... Sư đoàn chúng tôi liên tục tiến đánh các cứ điểm vòng ngoài và không ngừng mở đường áp sát thị xã.
Ngày cuối tháng Mười hai năm 74 tôi đi công tác ngang qua thị trấn Đắc Tô gặp dịp đoàn Văn công Tây Nguyên về đó biểu diễn. Buổi tối ấy, dưới chân núi Ngọc Tụ, khán giả, gồm cả dân cả bộ đội, đông phải tới vài trăm người. Tại đó tôi gặp mặt bạn hữu thuộc nhiều đơn vị “tụt tạt” tới coi văn công. Thôi thì đủ mặt quần hùng: bộ binh Sư 10, công binh đoàn 7, pháo binh đoàn 40, xe tăng đoàn 273, và thậm chí gặp cả mấy tay bạn cùng phố là lính Sư 320. Đắc Tô là vùng vừa mới được giải phóng, trong dân chắc chắn trà trộn không ít chỉ điểm của địch, nên hẳn rằng sau buổi biểu diễn ấy Phòng Nhì của Quân đoàn 2 ngụy sẽ lập tức nhận được tin mật báo về sự hiện diện đông đảo của bộ đội chủ lực B3 tại bắc Công Tum.
Khuya ấy, trên đường trở về trung đoàn, dưới ánh trăng mờ, chúng tôi nhìn thấy trên lộ 14 ngang qua vùng dân cư Tân Cảnh một đoàn dài xe kéo pháo 85 và 122 trùm kín ngụy trang chạy về phía Võ Định. Về ngả đó không để đánh vào thị xã Công Tum thì còn đánh vào đâu nữa chứ? Tôi nghĩ vậy. Và rõ ràng là cả ông Phạm Văn Phú tư lệnh Vùng Hai, ông tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, ông Lầu Năm Góc, ông CIA cũng đã chắc mẩm như vậy.
Là lính ở tiểu đội, tôi không thể biết được rằng những gì mình đã nhìn thấy chỉ là một hạt sương trong biển sương mù của thế trận nghi binh nhiều tầng nhiều lớp, kỹ lưỡng, tinh xảo mà Bộ tư lệnh B3 đã công phu tạo dựng để làm loạn trí và mù mắt quân địch. Tôi càng không thể nào biết được rằng, bấy giờ, khi trung đoàn chúng tôi cùng các đơn vị bạn trong Sư 10 đang kín đáo lộ diện trên vành đai bao vây thị xã Công Tum, thì Tư lệnh Vũ Lăng và Chính ủy Đặng Vũ Hiệp đã bí mật dẫn tham mưu và trinh sát của Mặt trận xuôi xuống rất xa Cánh Nam trực tiếp điều nghiên để lập phương án tác chiến tấn công Đức Lập và Buôn Ma Thuột.
Nhờ kế hoạch nghi binh tài tình của Bộ chỉ huy B3 mà bước vào mùa khô 1975 thực lực vốn rất mạnh của Quân đoàn 2 ngụy đã bị xáo trộn, phân tán, dàn mỏng, phơi bày tử huyệt. Nhưng mà để kế hoạch đó thành công, ngoài tài trí của các tướng lĩnh chỉ huy, còn phải trông cậy vào tâm và lực của từng mỗi một người chiến sĩ. Bây giờ đây ngẫm lại, tôi nghĩ, trong trận Buôn Ma Thuột, sức mạnh, bản lĩnh và ý chí của Quân giải phóng Tây Nguyên được thể hiện cụ thể và trước nhất chính là ở việc giữ được bí mật chiến trường cho đến ngay trước giờ N. Ba sư đoàn bộ binh với nhiều trung đoàn tăng pháo và vận tải phối thuộc, nghĩa là hàng chục ngàn bộ đội với vũ khí đủ loại, xe cộ, kho tàng, lán trại, hành quân hàng trăm cây số đường rừng từ Cánh Bắc xuống Cánh Nam B3 áp sát bờ sông Sê-rê-pốc cả tháng trời mà địch không hề hay biết. Một bí mật vài vạn người biết mà vẫn bí mật tuyệt đối, quả thực là một sự thần kỳ.
Giữa tháng Một năm 1975, đơn vị chúng tôi được lệnh rời các điểm chốt bên bờ Đắc Bờ Là, hành quân về vùng hậu cứ Chư Mom Ray. Cấp trên phổ biến là tại đó chúng tôi sẽ đón trước Tết Nguyên đán Ất Mão (giống như hồi xưa lính Tây Sơn của vua Quang Trung để kịp hành quân ra giải phóng Thăng Long đã tổ chức ăn Tết Kỷ Dậu trước khi Tết đến). Nhưng vừa về tới điểm tập kết D29 thì tôi với hơn hai chục anh em, hỗn hợp trinh sát và vệ binh, được lệnh lên xe Zil hành quân tiếp. Xe nhằm hướng Nam chạy dọc đường tuyến 559 suốt ba đêm (ngày náu xe vào rừng) cho tới điểm cuối là ngã ba Thằn Lằn bên bờ Đắc Đam. Tại đó chúng tôi được bổ sung vào Đoàn công tác T93 của Mặt trận (quân số của đoàn bằng chừng hai đại đội) và vào ngay nhiệm vụ. Nhiệm vụ là “bảo vệ bí mật chiến dịch”. Tuy nhiên, chống biệt kích thám báo là trách nhiệm của các đoàn khác, còn với đoàn công tác 93 thì “đối tượng” chủ yếu lại là... lính mình. Tương tự Kiểm soát Quân nhân thời nay, chúng tôi phân tán thành từng tốp hai người một tuần tra các bờ suối, các ngả đường mòn trong khắp vùng rừng rộng lớn trải từ bờ tây sông Sê-rê-pốc qua đường đông Trường Sơn đến tận phía tây Đắc Rệt. Nhiệm vụ của chúng tôi là phòng chống, ngăn chặn mọi biểu hiện vi phạm kỷ luật bảo mật chiến trường dù là nhỏ nhất có thể nảy sinh ra trong vùng ém quân.
Ấy là một nhiệm vụ cực kỳ cam go, mà như ngày nay thường nói là “nhiệm vụ bất khả thi”. Bộ đội hàng vạn người thuộc hàng trăm đơn vị khác nhau từ Cánh Bắc B3 tiến vào, đóng rải ra trong một miền rộng cả trăm cây số vuông gồm đủ loại địa hình phức tạp xen kẽ nhau: rừng rậm, rừng cây bụi, rừng thưa, rừng khộp, núi cao, đồi, gò, khe lũng, trảng trống... Bộ đội ngụy trang cho lán trại, hầm hào, bếp núc, lối đi lại, đường dây hữu tuyến... mà thiếu tinh tế để sơ hở dù chỉ một tàu lá một vệt cỏ thôi là L19 phát hiện ra ngay lập tức. Mà quân ta đâu phải chỉ có bộ binh gọn nhẹ, còn có xe tăng, pháo phòng không và pháo đất các loại, xe đạn, xe xăng, xe chở quân, xe công trình của công binh... Với bộ binh Sư 10 và Sư 320 thì chúng tôi không phải lo, anh em đã quá thành thạo chiến trường Tây Nguyên, lão luyện công tác ngụy trang và ém quân, lính cũ theo sát kèm cặp lính mới trong từng tổ tam tam. Nhưng chúng tôi rất “ngại” các ông pháo cao xạ. Hầu hết các đơn vị hỏa lực phòng không hùng mạnh này đều vào B3 từ sau Hiệp định Paris 1973, đối thủ của họ chỉ còn là Không lực Sài Gòn, bởi vậy chúng tôi sợ là họ sẽ dễ khinh địch, coi nhẹ khả năng thám sát của L19 và sức mạnh cường kích của khu trục A37. Họ lại không ém quân theo tiểu đội, trung đội như bộ binh mà theo từng cụm pháo đội nhiều khẩu, bếp núc “đại táo”, ăn to nói lớn cả trăm người, rồi phơi phóng, rồi đèn đóm, rồi đi lại. Thêm nữa, không ăn Tết trước như bộ binh, nhiều đơn vị binh khí kỹ thuật vào tới vùng ém quân trong Cánh Nam rồi mới tổ chức đón xuân, họ đốn lá dong, ngả heo, gói và nấu bánh chưng, họ giã thịt gói giò, họ nấu rượu sắn, họ mở radio đón giao thừa v.v... Thật là đủ thứ mối nguy có thể dẫn tới làm lộ bí mật.
Nhưng “đối tượng” khiến anh em đoàn 93 chúng tôi lo ngại nhất vẫn là các ông lính đi công tác lẻ, chẳng ai nhắc ai, chẳng ai kèm cặp ai, một mình một súng xuyên rừng. Vùng rừng tây Sê-rê-pốc mặc dù giữa mùa khô vẫn còn nhiều dòng suối không bị cạn. Đắc Dam, Cà Xị, Khe Thông, Đắc Rệt... đầy nghẹt cá. Và dọc hai bên suối thì tụ lại rất nhiều thú: hươu, hoẵng, chồn, thỏ... Thật là hấp dẫn vô cùng. Mà lính B3 nhà ta thì tới thời kỳ đó, mùa khô 75, tuy không còn nỗi khổ bị đói gạo đói muối như xưa nhưng vẫn rất thiếu chất tươi. Bởi vậy khi chỉ có một mình giữa rừng với cá, thú, chim bày ra ngay trước mắt như thế, người ta dễ bị cám dỗ làm liều, liệng nửa lạng thủ pháo hoặc nã vài phát AK kiếm vội lấy một chầu ca cóng ngon lành bổ béo.
Thủ trưởng Thước, cán bộ Phòng tham mưu B3 trực tiếp chỉ huy đoàn T93, vẫn ngày ngày đe chúng tôi rằng nếu để địch phát hiện một dấu vết dù nhỏ nhất, mờ mỏng nhất về sự hiện diện của chủ lực B3 tại địa bàn gần Buôn Ma Thuột và Đức Lập, thì trước nhất là ông rồi đến chúng tôi sẽ phải ra tòa án binh, sẽ “mất đầu” cả nút. Cho nên lính tráng các đơn vị được nghỉ ngơi dưỡng sức trước khi vào trận, còn chúng tôi thì không. Không Tết nhất gì hết, chỉ gạo rang với lương khô, các tổ tuần tra tỏa ra, sục sạo, rà soát mọi cánh rừng, triền đồi, khe suối, ngày đêm kiểm tra bám sát các điểm ém quân của từng tiểu đội, khẩu đội, của từng chiếc xe, nhắc nhở đôn đốc công tác bảo mật. Căng hết sức lực, dồn hết tâm trí, tuy nhiên, thật lòng chúng tôi không thể tin là có thể hoàn thành nhiệm vụ. Bởi nỗi trong hàng vạn người lính chỉ cần một người vô ý thức, lơ là củi lửa đèn đóm, ẩu tả nổ súng kiếm ăn, bừa bãi tắm táp phơi phóng ở khúc bờ suối trống trải, là bao nhiêu công sức nghi binh, ém quân, dàn trận, cài thế của toàn quân sẽ bại lộ hết.
Ấy thế nhưng, chúng tôi lo hão. Đã không có một sự cố nào xảy ra hết. Suốt cả tháng Hai, qua hết tuần đầu tháng Ba năm 1975, tới sát giờ nổ súng, tuyệt nhiên không một người lính nào sơ sảy làm lộ bí mật chiến trường. Ý thức kỷ luật, tính tự giác cao vạn người như một của bộ đội ta đã chiến thắng tai mắt tình báo và các phương tiện kỹ thuật trinh sát dò tìm của địch. Những toán viễn thám của Sư đoàn 23 và của các tiểu khu Đắc Lắc, Quảng Đức, nhất là những chiếc trực thăng Utiti cùng những chiếc L19 hàng giờ bay sát sạt mái rừng đã chẳng nhận ra một chút xíu gì biểu hiện bất thường.
Sau này, một số ông tướng tá chỉ huy Vùng Hai viết hồi ký bảo rằng họ thừa biết việc Quân Giải phóng sắp tấn công Buôn Ma Thuột, nhưng vì ông Phú, ông Thiệu dốt, không chịu nghe họ, nên thảm bại. Tôi không tin. Trong số mấy ông bạn cựu binh Sài Gòn của tôi có anh Kham (một chủ vườn hoa cây cảnh nổi tiếng ở Gò Vấp hiện giờ) vốn là thiếu úy phi công lái trinh sát cơ L19 ở tiểu khu Đắc Lắc. Kham kể với tôi rằng anh chính là người đã tiến hành phi vụ tuần thám cuối cùng vào buổi chiều ngày 9 tháng Ba dọc bờ suối Đắc Đam, phi cơ là sát ngọn cây, nhìn rõ từng hộc đá dưới suối, nhưng anh chẳng nhận thấy gì ngoài sự hoang vu. (tôi thì đã nhìn thấy anh, rất rõ, cái đầu phi công lồ lộ ra trong buồng lái của chiếc L19 bay cực thấp dọc Đắc Đam buổi chiều hôm trước giờ nổ súng)
■
Nhờ chiến lược nghi binh tài tình và ém quân giữ bí mật thành công, bộ đội B3 đã khiến địch bị bất ngờ không những về hướng, về mục tiêu, về thời điểm, về uy lực của đòn tấn công mà cả bị bất ngờ về cách đánh. Nhờ giữ được tuyệt đối bí mật nên quân ta đã áp sát rồi nổ súng nện thẳng đòn trời giáng vào trung tâm chỉ huy của địch ở vòng trong, chứ không đánh dần từ vòng ngoài vào vòng trong. Sau một ngày rưỡi tấn công quân ta đã đánh dứt điểm xong hai đầu não của địch là Bộ Tư lệnh Sư đoàn 23 và Tiểu khu Đắc Lắc. Đại tá tỉnh trưởng Nguyễn Trọng Luật tháo chạy khỏi hầm chỉ huy lủi vào rừng cà phê, bị lính C3 của E24 do chính trị viên Ngô Huy Chuyên chỉ huy tóm sống ngay vào buổi chiều ngày 11 tháng Ba. Trong suốt cuộc kháng chiến cho đến lúc ấy, chưa từng có một thắng lợi nào đạt được nhanh và trọn vẹn đến như vậy.
Theo sử sách chính thức ghi nhận thì Buôn Ma Thuột được giải phóng vào đúng 11 giờ trưa ngày 11 tháng Ba năm 1975, song vào ngay những ngày ấy đối với anh em bộ đội chúng tôi cấp lính thường ở đơn vị thì sự kiện lịch sử đó và thời điểm cụ thể của nó không phải là đã hiển hiện ra một cách tức khắc, rõ ràng và chắc chắn trăm phần như vậy. Hồi ấy, phải non một tuần sau buổi trưa ngày 11 tức là vào đêm ngày 16, Trung đoàn Plâyme (E66) của Sư 10 mới dứt điểm xong Căn cứ 53 và sân bay Hòa Bình. Xong được cứ điểm khó đánh nhất này thì mới có thể coi là đã xong được Buôn Ma Thuột. Hoặc thậm chí có thể là phải tính thời điểm giải phóng muộn hơn thế nữa, là vào hai ngày 17 và 18 tháng Ba, khi đạo quân địch đổ bộ xuống tái chiếm thị xã bị bộ đội Sư đoàn 10 đập tan tại khu vực Phước An - Nông Trại. Chỉ đến khi đó, khi quân ta đã tận diệt và xóa sổ vĩnh viễn Sư đoàn 23 thì Buôn Ma Thuột mới thực là đã được giải phóng. Tuy nhiên, hồi ấy, ngay cả khi đã giải quyết hết Sư đoàn 23 rồi, anh em chúng tôi cũng chẳng thể cầm chắc được điều gì. Ở cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, người chiến sĩ chỉ trực diện với nhiệm vụ mà mình và đơn vị mình được giao. Biết là đơn vị mình, đơn vị bạn đang thắng, đang tiếp tục trên đà tấn công thắng lợi, nhưng mức độ và qui mô của thắng lợi trên toàn cục chiến dịch như thế nào lính thường khó lòng hình dung. Vả lại ngay trước mắt mình, xung quanh mình chiến trận càng lúc càng ác liệt không hề thuyên giảm. Địch không những ngoan cố tử thủ mà còn không ngừng tiến hành phản kích. Nhiệm vụ của tiểu đội, trung đội, đại đội mình vẫn đầy cam go, căng thẳng, quyết liệt và diễn biến không lường trước được qua từng giờ từng phút, từng bờ tường góc phố. Tóm lại là cho tới khi đã giải quyết xong Phước An bắt đầu truy kích địch trên đường 21, anh em chúng tôi lính ở đại đội vẫn chưa thể tin chắc là Buôn Ma Thuột đã vĩnh viễn về tay quân ta. Thế nhưng, tôi nhớ là vào khoảng ngày 19 tháng Ba, khi chuẩn bị tấn công Chư Cúc, chúng tôi được liên lạc tiểu đoàn chuyển xuống cho một thông báo, rất vắn tắt, song đã tạo nên một sự gần như là đột biến trong nhận thức của chúng tôi. Ấy là: Toàn bộ Quân đoàn 2 đã rút khỏi cả Công Tum lẫn Pleiku và đang bị sư đoàn 320 truy đuổi tiêu diệt trên đường tháo chạy xuống đồng bằng! Mặc dù không bộc lộ ra một cách ầm ĩ, ồn ào nhưng mừng vui phấn khởi trong lòng chúng tôi trước cái tin ấy có thể nói là vô bờ. Cho đến khi ấy chúng tôi mới thực sự nhận thức một cách sâu sắc và thấm thía hiệu quả lớn lao vĩ đại của đòn giáng Buôn Ma Thuột. Một đòn giáng bất ngờ và ghê hồn, một đòn chết tươi không thể đỡ táng thẳng vào tung thâm sống còn địch. Quân Sài Gòn đã bể trận và sẽ thực sự bắt đầu quị xuống từ đây. Chẳng phải tham mưu thao lược tầm cỡ gì, chỉ là những anh lính thường ở tổ tam tam mà chúng tôi cũng nhận ra được điều đó ngay lập tức khi hay tin địch rùng rùng xô nhau tháo chạy khỏi Cánh Bắc cao nguyên.
Tuy nhiên, như nhiều sử gia và nhà quân sự của Mỹ vẫn cho rằng việc Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh tháo chạy khỏi Tây Nguyên là điên rồ mất trí, cũng là “oan” cho ông ta. Chịu một đòn thình lình và khủng khiếp như đòn Buôn Ma Thuột, gan mật vỡ tung ra rồi, thử hỏi còn có thể hành động thế nào khác? Co cụm phòng thủ thì còn đâu quân để giữ đồng bằng nam Trung Bộ. Không còn Tuy Hòa - Nha Trang lẽ đương nhiên là đi đời cả Vùng Một và Vùng Hai chiến thuật. Chưa nói rằng, từ Buôn Ma Thuột xe tăng và bộ binh Quân giải phóng sẽ dễ dàng từ cao nguyên Di Linh theo lộ 20 trực chỉ Sài Gòn - Gia Định. Cho nên trong đại cảnh rối loạn, bê bối đáng sợ như vậy, Thiệu ra lệnh cho Quân đoàn 2 co về đồng bằng là đúng bài bản nhà binh, tất nhiên chỉ đúng với điều kiện là rút lui được êm xuôi. Nhưng êm xuôi sao được. Vận nước, lòng dân, sức mạnh và ý chí Quân Giải phóng không cho phép như vậy.
Khi địch vỡ trận ở Buôn Ma Thuột, bắt đầu rút chạy khỏi Tây Nguyên theo lộ 7 và lộ 21, nếu họ co cụm lại được ở Tuy Hòa và đèo Phượng Hoàng, ngày Toàn thắng có lẽ không phải 30-4 mà phải lùi xa hơn. Nhưng địch không thể co cụm nổi, bởi bị quân ta, với ý chí tột đỉnh vượt lên trên hẳn sức lực bình sinh của mỗi người, truy đuổi và chặn đánh trên từng thước đường. Ngày nay, nhìn trong các thước phim và tranh ảnh, cảnh quân đội Sài Gòn, hàng tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn trang bị vũ khí tận răng phải quăng súng, cởi áo, tháo giày cuống cuồng bỏ chạy trên các trục lộ, người ta hỏi là vì đâu?
Vì rằng, truy đuổi địch là những chiến sĩ xe tăng và bộ binh Giải phóng sức lực đã cùng kiệt, không ngủ đã cả vài tuần rồi, mắt sưng đỏ, cổ khô cháy khát, bàn chân phồng rộp, dừng chân nghỉ một lát thôi là ngã dụi, nhưng kiên quyết không buông cho quân địch được một giây phút lại sức và lại hồn. Như trong cuộc truy rượt trên đường 21 xuống Ninh Hòa, chỉ huy các đại đội luôn luôn một lời động viên: Cố lên anh em, cố lên một chốc nữa thôi, một chốc nữa! Những chốc lát nữa ấy liên miên kéo dài, gộp lại thành tháng Ba chiến thắng.
Ngày 31-3-1975, sau khi đập tan Lữ dù 3, bộ đội Sư 10 tiến lên đỉnh đèo Phượng Hoàng. Chiến dịch Tây Nguyên đã kết thúc thắng lợi. Cả ngàn quân muốn ngủ rục xuống ngay. Nhưng trước mắt kia là đồng lúa và nữa là biển xanh mênh mông bát ngát. Đến bây giờ trong tâm trí tôi vẫn còn văng vẳng hiệu triệu của tướng Đặng Vũ Hiệp chính ủy Mặt trận: Anh em cố lên, đánh một lần này cho xong, rửa thù cho anh em và đồng bào mình đã ngã xuống từ năm 1946 đến nay!
Văn Nghệ Quân Đội, số' Tết Ất Mùi 2015