Người khai mở đường cho văn học
Sự phát triển mạnh mẽ và trưởng thành nhanh chóng một cách kỳ lạ của văn xuôi nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói riêng trong vòng tám mươi năm qua là do nhiều tác động, trong đó có những tác động của sự hợp lưu văn hóa. Mà trong văn học thì sự hợp lưu ấy được thể hiện cụ thể nhất ở việc dịch văn học nước ngoài và học hỏi ở văn học nước ngoài.
Văn hóa và văn học Trung Hoa thì khỏi bàn, bởi đã có ảnh hưởng lên văn học Việt từ cả ngàn năm nay rồi. Nhưng tôi nghĩ riêng về văn xuôi, truyện ngắn với tiểu thuyết thì phải nói trước nhất tới ảnh hưởng của văn học Pháp, rồi văn học Nga, Nga Xô viết, và nữa là văn học Anh, Mỹ, Mỹ Latinh...
Có thể nói các nhà văn Việt Nam thế kỷ XX có may mắn lớn là được làm nhà văn của một dân tộc văn hiến, và không chỉ thế, còn là một dân tộc đôn hậu, một dân tộc cởi mở, rộng lòng, ham thích học hỏi, yêu chuộng cái mới, và tuyệt đối không bài ngoại trong văn hóa. Bản thân sự thành công đáng kinh ngạc của chữ Quốc ngữ đã là minh chứng rất hiển nhiên cho những đức tính văn hóa ấy.
Tiểu thuyết Việt Nam hình thành và phát triển ở chặng trước năm 1945 đương nhiên là nhận ảnh hưởng của các nhà văn lớn nước Pháp thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Tiểu thuyết của chúng ta thoát rất nhanh khỏi lối văn biền ngẫu, chương hồi, câu chữ sớm trở nên trong sáng gần gũi với đời thường, cấu trúc hiện đại, hài hòa, chuẩn mực, nội dung sống động tinh thần hiện thực và nhân đạo được như những năm 30-40 một phần đáng kể nhờ các nhà văn và độc giả thời đó rất am hiểu văn học Pháp.
Song, có lẽ việc dịch văn học Pháp không phát triển lắm trong thời kỳ này. Có lẽ vì hồi đó hầu hết các nhà văn và độc giả văn học đều đọc trực tiếp nguyên bản tiếng Pháp của các tác phẩm. Còn văn học các nước khác thì họ đọc qua bản dịch tiếng Pháp. Vai trò của dịch giả đối với văn xuôi Việt Nam hồi đó chưa đáng kể.
Nhưng họ đã trở nên cực kỳ quan trọng ngay sau đó thôi. Ở miền Bắc là từ năm 1954.
Không có các dịch giả, không có sự phát triển của văn học dịch thì nền văn học của chúng ta, nhất là văn xuôi và nhất là tiểu thuyết, không thể có được tầm vóc như trong mười năm hòa bình, như trong kháng chiến chống Mỹ, như thời Đổi Mới, như ngày hôm nay.
Có thể có những nhà văn nào đó không cần đọc nhiều, không cần đọc Tây đọc Tàu gì hết mà vẫn viết hay được không chừng, song là một độc giả văn học đích thực, đích thực am hiểu và yêu văn học thì không thể chỉ đọc có mỗi văn học Việt Nam. Mà ở thời chúng tôi, lứa học trò sau năm 1954, không có nhiều người đủ khả năng đọc văn học nước ngoài từ nguyên bản.
Nhưng ngay từ trước chiến tranh, chúng tôi vẫn được đọc có thể nói là là đầy đủ những tiểu thuyết không thể không đọc nhất của thế giới: Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử, Hồng lâu mộng... Hiệp sĩ Đông Kisốt, Bà Bôvary, Tấn trò đời, Những người khốn khổ... Hiệp sĩ Aivanho, Thời gian khổ, Hội chợ phù hoa... Chiến tranh và Hòa bình, Thằng ngốc, Năm đêm trắng, Anh em nhà Karamazop, Sông Đông êm đềm, Hai chị em...
Không nhiều lắm, nhưng là những tác phẩm cần đọc nhất, và may thay đều được dịch hoàn hảo, dịch rất hay. Chúng tôi thật sự may mắn là những độc giả mà khi còn ở tuổi thiếu niên đã được đọc những tiểu thuyết lớn của thế giới được dịch bởi những dịch giả tài năng và uyên bác. Chẳng hạn, bốn tập Chiến tranh và Hòa bình. Văn hào L. Tônxtôi hiển nhiên là vĩ đại, nhưng ông chỉ có thể trở nên vĩ đại đối với độc giả Việt Nam nhờ nhóm dịch giả Chiến tranh và Hòa bình. Trong nhóm những dịch giả tài năng ấy giờ chỉ còn lại giáo sư Cao Xuân Hạo. Ông có phải nhà văn không? Tôi không biết, song tôi tự hỏi rằng liệu trong giới nhà văn có vị nào thực sự làm được việc lớn hơn, quan trọng hơn ông và các dịch giả thời kỳ đó đối với sự phát triển của văn học nước nhà?
Chính trong mười năm giữa hai cuộc chiến (1954 - 1964) đã ra đời một thế hệ độc giả tuy không biết ngoại ngữ nhưng yêu và am hiểu văn học có thể nói là hơn hẳn mọi thời. Và nhờ có thế hệ độc giả ấy mà trong kháng chiến chống Mỹ đã ra đời một thế hệ vàng các nhà văn. Có thể đặt câu hỏi rằng nếu không có các dịch giả tài năng thời đó thì Nguyễn Minh Châu, Đỗ Chu, Ma Văn Kháng... có mau chóng vượt trội được lên như thế hay không?
Kể từ Đổi Mới, người đọc trẻ và các nhà văn trẻ do có sinh ngữ nên ít cậy vào dịch giả hơn. Nhưng, vẫn có những dịch giả mà nếu không có họ thì nền tiểu thuyết Việt Nam đã không có nổi những bước chuyển quan trọng.
Như dịch giả Nguyễn Trung Đức với Trăm năm cô đơn. Cuốn tiểu thuyết kỳ diệu này chắc chắn đã phải làm thay đổi văn chương toàn cầu, nhưng có lẽ không đâu vì nó mà thay đổi sâu sắc như ở Việt Nam. Chẳng dám lạm bàn về tài năng của tác giả, nhưng tôi dám nói, Trăm năm cô đơn bản tiếng Việt là một kỳ tích của dịch thuật, một thành công sáng ngời của tiếng Việt trong việc thể hiện một nền văn hóa khác.
Không quan trọng bằng Trăm năm cô đơn, nhưng các tiểu thuyết của M. Kundera cũng hết sức có ý nghĩa đối với tiểu thuyết Việt Nam thời hậu Đổi Mới. Mà đó cũng là nhờ đã được dịch bởi những dịch giả có tầm cỡ văn hóa và năng lực ngôn ngữ tuyệt vời. Sau này có thể khác, nhưng đến nay, nhà văn và độc giả ở lứa tuổi chúng tôi vẫn hàm ơn các dịch giả. Cố nhiên không phải là bất kỳ dịch giả nào.
Văn Nghệ Trẻ số' 49, 2005, ký tên Bảo Ninh