← Quay lại trang sách

Người Đàn Bà Tháp Mười

Bữa cơm chiều, chị Bảy vừa buông đũa xuống thì tiếng pháo ở làng bên kia cánh đồng cũng vừa nổ. Đó là pháo của đồn Mỹ An bắn vào làng giải phóng. Tiếng pháo nổ xa. Những tiếng pháo đó chị nghe quen đến nỗi tưởng như đó là tiếng pháo chỉ có tác dụng báo giờ. Vậy là đã sáu giờ chiều rồi. Tháng sáu là tháng của mùa mưa và mùa cấy, có hôm trời rất mau tối. Bên ngoài, trời đã nhá nhem. Ngoài đường kinh, lác đác có một vài người qua, có tiếng cười, tiếng nói và tiếng gọi nhau í ới.

Đứa con gái lớn của chị - con Hai, mười hai tuổi, vừa nhai cơm vừa nói:

- Má đi đi! Con ăn rồi con dọn. Đã đến giờ đi cấy rồi.

Nhưng chị chưa muốn đi vội. Chị muốn nhìn bữa cơm của các con. Gần ba tháng nay, bọn giặc Mỹ định tát dân làng này ra vùng quận Mỹ An, ngày nào nó cũng bắn phá, bỏ bom đêm, bom dầu, nhiều nhất là trực thăng. Làng này cũng như bao nhiêu làng khác của Tháp Mười, nhà cửa đều nằm dọc theo hai bờ kinh. Mỗi một ngôi nhà một bến nước và một bến xuồng. Hai bên kinh sau những cụm vườn là cánh đồng, cánh đồng trải dài ra đến rặng cây mờ mờ bên kia làng.

Bọn trực thăng một bầy, khi ba chiếc, năm chiếc, quay cánh phành phạch bay từ đầu kinh đến cuối kinh, cứ con đường thẳng mà bắn, bắn những xuồng ghe đi lại trên kinh, bắn rải xuống nhà và bắn vào các cụm vườn. Nó vừa bắn vừa bắt loa kêu gọi, nó quay cả đĩa hát, nào nhạc mới, nhạc cổ có đủ, có khi nó quay cả những cái băng con nít khóc óe nữa. Nó làm đủ trò, nhưng chẳng ai bỏ làng đi. Để chống lại trực thăng, dân làng tạm bỏ con kinh, dời cả làng vào đồng sâu. Nhà cửa không ngay hàng thẳng lối nữa, nhà rải ra khắp cả cánh đồng. Bọn trực thăng muốn bắn thì phải bay ngoằn ngoèo như con rắn và phải đến tận từng nhà.

Chị Bảy cũng dời nhà. Chị mới ba mươi sáu tuổi, nhưng con lại đông, một đàn con sáu đứa, ba trai, ba gái. Đứa lớn mười hai tuổi, đứa nhỏ hai tuổi. Chồng chị là cán bộ tỉnh, năm khi mười họa mới về qua một lần. Mọi việc nhà: nuôi con, giữ con, đều do một tay của chị. Nhà chị được hơn một mẫu đất, không trâu, không bò. Ngày mùa chị phải đi cấy đi gặt cho những gia đình khác đổi lấy công trâu. Ngoài mùa lúa, mỗi năm khi nước lên, chị làm cả nghề cá nữa: giăng câu, đặt lờ, đặt lọp. Đêm chị thức để thăm lưới, hoặc đổ lọp, đổ lờ. Ngày chị làm cá đem muối, đem phơi, rang gạo, xay thính, làm mắm. Chẳng ngày nào chị rảnh tay. Những lúc rảnh chị lo tu bô hầm hố, chị móc đất đắp hầm cho thêm chắc, rồi vét hầm. Hầm hố của chị luôn luôn được ngụy trang kỹ và chẳng bao giờ có rắn. Qua bao nhiêu trận bom rồi, nhà chị có lần bị cháy, bị đổ, nhưng hầm hố của chị vẫn vững vàng. Một đàn con của chị sáu đứa, đứa nào cũng mập mạp, cũng xinh xắn. Ai thấy cũng khen. Chị chỉ có một khuyết điểm là việc họp xóm, họp ấp chị đi rất thất thường, hoặc xin vắng mặt, hoặc đi trễ, hoặc đang họp thì xin về.

- Nhà tôi con đông, tôi đi muộn.

- Nhà tôi con đông, dứt đi không được!

- Nhà tôi con đông, cho tôi xin về trước.

Thấy chị lúc nào cũng viện lý do là con đông, có người hỏi đùa:

- Lúc thì con đông, lúc thì đông con, vậy thì đẻ làm gì cho dữ vậy?

Chị vui tính và cũng hay nói trây, chị nói trả lại:

- Con tôi nó nằm ở trong bụng hàng đàn đây nè. Mỗi lần nhà tôi về, từ trong bụng tôi, nó “dạ” rân lên, nghe mà phát mệt!

Thấy chị đông con, chồng lại đi công tác xa, bà con trong xóm ai cũng thương chị, không ai nỡ khắt khe với chị. Phần chị, như để bù lại khuyết điểm đó, mọi nghị quyết của các cuộc họp, chị đều làm tròn.

Chị càng đẻ càng nở nang và ngày càng đẹp ra. Người ta tưởng chị là gái một con.

Từ ngày dời nhà ra khỏi khu vườn, đã vất vả, chị càng vất vả hơn và mỗi ngày mỗi gầy đi. Trực thăng ngày nào củng bắn đôi ba đêm, bọn phản lực lại ồ đến bỏ bom trộm. Chị không dám để con ở một nhà. Ngôi nhà lớn ở bờ kinh, chị dỡ đi và cất ra thành hai cái nhỏ. Hai cái cách nhau khoảng hai tầm đất. Mỗi nhà có ba loại hầm. Một cái hầm ngay tại nhà, vách nhà là vách đất, để chống bom bỏ trộm ban đêm, một cái hầm chống trực thăng và một cái hầm chống bom của phản lực và khu trục. Hai ngôi nhà, sáu cái hầm. Một tay chị làm không xuể, chị phải nhờ bà con trong xóm mỗi người giúp cho một tay. Bà con trong xóm ai cũng phải lo đào hầm, nên không giúp được chị nhiều lắm. Bà con chỉ đào giúp, còn phần đắp đất chung quanh và nắp hầm là phần của chị. Máy bay bắn hàng ngày, việc đào hầm không thể chần chờ được. Chị huy động cả ba đứa con lớn cùng làm với chị, từ đứa thứ hai đến đứa thứ tư, chị làm cả ban đêm. Phải mất đến nửa tháng, chị mới đắp xong sáu cái hầm.

Hai ngôi nhà, sáu cái hầm, sáu đứa con, chị chia ra làm hai. Ba đứa lớn ở cùng một nhà do đứa thứ hai coi sóc. Ba đứa nhỏ thì ở với chị. Đêm chị không dám ngủ say. Có thể nói chị vừa ngủ vừa lắng nghe tiếng máy bay. Hễ có tiếng máy bay là chị tốc dậy, gọi các con chạy ra hầm.

Thấy chị vất vả, có lần anh Bảy muốn xin về xã công tác để cùng chị nuôi giữ con, nhưng chị không muốn.

Chị nói:

- Nếu mình làm nuôi được sáu đứa con như em thì cứ về, em sẽ đi thoát ly cho...

Nghe chị Bảy bảo vậy, anh Bảy đành rút ý kiến.

Những lúc bị bom, bị trực thăng, chị thường nghĩ, nếu có anh Bảy ở nhà, chắc chị đỡ vất vả hơn, chị đỡ lo đỡ sợ hơn. Vừa ôm đứa con nhỏ hai tuổi, chị vừa mong anh Bảy, chị tưởng như anh Bảy đang vượt qua bom đạn mà trở về với chị, với con. Trong tưởng tượng của chị, hễ có mặt anh Bảy là bọn giặc sẽ rút đi và mọi việc sẽ trở lại yên lành. Chị vừa nghĩ vừa định bụng, khi máy bay rút đi, bước ra khỏi hầm, chị sẽ viết thư gọi anh Bảy về ngay. Nhưng sau khi máy bay rút đi, đàn con chị chui ra khỏi hầm, chạy đến quấn theo chị cười nói thì những ý nghĩ ấy biến tan đi không để lại một dấu vết gì, như chị chẳng bao giờ nghĩ đến vậy. Rồi chị lại vui với con, lại bắt tay vào việc, nấu cơm, vá quần áo, đào đất tu sửa hầm hố.

Từ ngày dời nhà, buổi cơm chiều chị mới cho các con ăn chung. Cơm sáng, cơm trưa, sợ trực thăng Mỹ đến bất ngờ, chị chia ra hai mâm, mỗi mâm ba đứa. Cơm xong, đứa con lớn dọn một mâm, chị dọn một mâm. Hai nhà cách nhau hai tầm (1) đất, mà sao chị vẫn thấy cứ nhớ con.

Ngồi bên này một lúc chị lại sang nhà bên kia. Mấy đứa con của chị cũng vậy, đứa này đòi qua nhà kia, đứa kia đòi qua nhà nọ. Chị muốn phân tán mỏng, nhưng cuối cùng mấy thằng nhỏ cứ chạy qua chạy lại luôn và đứa nào cũng thích chạy theo chị, thích ở một nhà với chị.

Hễ nhà bên này quá bốn đứa, chị lại bồng đứa nhỏ đi qua nhà bên kia, mấy đứa nhỏ lại ùa chạy theo chị, chị quay lại quát nó. Nghe chị hét, thấy chị quơ cây dọa đánh, nó liền quay trở lại. Yên yên một chút, nhìn lại chị thấy cả sáu đứa đang luẩn quẩn bên chị. Chị lại hét lên, chị vừa giận vừa tức cười vừa xót xa.

Bữa cơm chiều là bữa cơm chung cho cả nhà, đã thành như một thói quen. Hình như đứa nào cũng mong đến cơm chiều, và cả chị cũng thế. Mấy thằng con trai ở nhà bên kia nghe tiếng chiên xào và nhìn khói bếp, nó đứng thập thò ở cửa, hỏi vọng qua:

- Cơm dọn xong chưa má?

- Má ơi, cơm chín chưa, con chạy qua nghen?

- Con chạy qua trước nghen má.

Cơm chiều xong chị gọi, là cả ba đứa nhà bên kia cũng vừa ào đến. Chúng chờ xong bữa cơm, nhưng chẳng đứa nào chịu ngồi ăn, mấy đứa lớn cứ bu lại hai đứa nhỏ, chúng nựng chúng hôn, chúng bồng, chúng nói đả đớt với nhau. Chơi đùa với nhau đã rồi, chúng mới chịu ăn.

Buổi cơm chiều nay có canh chua, cá rô và cá trê kho khô, bọn nhỏ ăn rất ngon. Đứa chan, đứa gắp, đứa húp xì xụp. Nhìn các con ăn ngon lành, chị không muốn đi. Chị thắp một ngọn đèn nhỏ để gần mâm, đủ soi rõ mâm cơm cho các con và nhìn ngắm từng đứa. Sáu đứa mặt đứa nào cũng tròn đầy xinh xắn như của mẹ và đứa nào cũng giống đôi mắt sâu và hơi buồn của cha. Sáu đứa hao hao giống nhau, nhưng mỗi đứa có mỗi tính riêng. Con lớn tính điềm đạm, mới mười hai tuổi mà nói năng như người lớn, nó ăn từ tốn, biết nhường phần ngon cho em, thằng thứ ba mười tuổi, thằng liếng khỉ nhất nhà, thích làm giàn thun bắn chim, nó chan húp lia lịa. Đứa con gái thứ tư, tám tuổi, người mảnh nhảnh, mắt sáng, môi mỏng, miệng nói tía lia, nó gắp từng miếng cá nhỏ, ăn nhỏ nhẻ như mèo. Thằng năm, sáu tuổi, đầu nhiều ghẻ, cạo trọc tròn như bông gáo, thằng ít nói mà cộc, nó ăn chậm chạp nhưng đã gắp cá thì gắp nguyên con, đứa con gái thứ sáu, bốn tuổi, thì hiền như chị. Nó vừa mói tập cầm đũa, nó và cơm bằng đũa, nhưng ăn cá thì bốc bằng tay. Còn thằng thứ bảy hai tuổi thì nằm trên vế chị, vừa nằm vừa nhai.

Thật đầm ấm!

Ngoài kinh có tiếng gọi vọng vào:

- Cô Bảy ơi! Đi chưa?

Đó là tiếng gọi của cô Lành. - Chị Bảy quay mặt ra cửa nói với ra:

- Chờ tao một chút! Vô đây chơi - Chị đưa tay đỡ lấy đầu thằng con nhỏ, vừa nựng cằm thằng con, vừa để nhẹ nó xuống đệm:

- Con ở nhà, má đi cấy. Ở nhà ngủ với chị Hai nghen con.

Lành, cô du kích bước vào nhà. Đó là cô gái mười tám tuổi, người mập mạp khỏe mạnh, vai mang cây CKC, khăn rằn quấn choàng qua mặt, tay cầm mọc cấy (2), lưng thắt băng đạn, bình toong và một nắm cơm gói trong ni lông xanh. Lành là cháu chồng của chị. Thấy Lành, mấy đứa nhỏ nhao lên, buông đũa chạy ùa vào người cô. Đứa nhanh chân nhất là thằng Ba, nó reo lên:

- Chị Lành có súng! - Nó lao tới, hai tay ôm lấy báng súng, kéo trì xuống.

- Cho em xem.

Đứa thứ hai rầy em:

- Ba! Mầy làm gì kéo chị dữ vậy hả? Mầy lấy súng làm gì!

Thằng Ba như không nghe thấy tiếng rầy la của chị, nó cứ kéo lấy cây súng, khiến cô nữ du kích Lành phải rùn người xuống, mặt nhăn nhó:

- Đau vai chị. Buông ra! Súng thiệt chớ súng cây sao mà đòi. Chị lên đạn rồi, dang ra.

Những đứa nhỏ đều giạt ra, còn thằng Ba thì cứ đeo dính cây súng.

Chị Bảy đang lom khom quấn dây thun túm quần để chống đỉa, quay lại nạt lớn:

- Ba! - Và chị trừng mắt nhìn nó. Thằng Ba không trì níu cây súng nữa, nhưng cũng chưa chịu lui ra. Nó nhìn Lành, nhìn qua mấy đứa em, rồi nhìn mẹ và hỏi:

- Sao má không lãnh súng má?

Chị Bảy đưa mắt lườm con, rồi nạt lớn:

- Mầy biết gì mà hỏi! Về nhà bên kia. Đi! Đi!

Thằng bé không hiểu sao mẹ nó lại nổi giận, nó ngồi im và muốn khóc.

Câu hỏi vô tình của con làm cho chị nhớ đến chuyện lãnh súng, chị thấy ngượng với Lành và khổ tâm. Trong tháng nay, để chống lại trực thăng, nhà nào cũng lãnh súng. Những gia đình đông người và nhiều trai tráng thì lãnh đến hai, hoặc ba cây. Cả làng, nhà nào cũng có súng. Chỉ có gia đình chị là không có. Ủy ban có hỏi chị, chị cứ phân vân. Nếu chị còn son giá thì khỏi phải nói, chị đã nhận súng ngay từ đầu rồi. Chị còn một đàn con, một đàn con nhỏ, sáu đứa. Mỗi lần nghe trực thăng bay tới, chị phải lo điều sáu đứa con vào hầm, chỉ có việc đó thôi chị cũng thấy rối lắm rồi. Điều chúng nó vào hầm xong, chị phải ngồi chung với hai đứa con nhỏ. Có chị ôm, chúng mới ngồi yên. Còn thì giờ đâu mà chiến đấu. Những đứa con của chị, lúc nào nó cũng quấn theo chân chị, chẳng lẽ chị kéo cả một đàn con đi đánh với trực thăng? Và những lúc gay go, chị cũng chẳng muốn rời con. Lãnh súng mà không chiến đấu thì lãnh làm gì? Lãnh súng cho ra vẻ và làm oai với hàng xóm chăng? Chị đã qua cái tuổi đó rồi. Nếu chị dỗ được con nằm im trong hầm rồi trườn ra bắn lại thì có khác gì chỉ điểm cho nó. Nó sẽ kéo lại từng bầy, từng lũ, nó sẽ quần, sẽ bắn, hầm hố của con chị sẽ nát tan ra thôi. Mỗi lúc nhắc đến chuyện lãnh súng là mỗi lần chị nghĩ như vậy. Ý nghĩ ấy cứ quẩn quanh trong đầu chị, dần dần như một cái bóng đen. Thôi! Thà nằm yên vậy mà hơn. Chị tự an ủi như vậy, nhưng lòng cứ bứt rứt không yên. Cái chuyện lãnh súng của chị đã thành một đề mục sôi nổi trong các cuộc họp. Cuộc họp nào cũng chia làm hai phe: Một phe muốn cho chị lãnh súng, một phe vì thấy chị con đông lại muốn miễn cho chị. Còn chị, chị cứ phân vân. Tự ý nghĩ riêng của chị, chị chưa muốn lãnh, nhưng nếu bà con nhất trí bảo chị nên lãnh thì chị sẽ không từ chối. Nhiều lần chị mong bà con bắt chị phải lãnh để chị lãnh cho rồi. Nhưng chuyện lãnh súng chiến đấu là chuyện tự giác, chẳng ai muốn ép chị. Cuối cùng chị vẫn phân vân. Chị muốn lờ cái chuyện ấy đi. Hôm nay tình cờ nghe con nhắc đến, bỗng nhiên chị nổi giận.

Thằng Ba ngồi im, mấy đứa nhỏ nhìn nhau lơ láo.

Quấn dây thun bó quần xong, chị lấy khăn quấn qua mặt, lấy ni lông choàng qua vai, cầm lấy mọc cấy cùng với Lành bước ra.

Bước ra sân, xa ngôi nhà nhỏ ấm áp với mùi cơm mùi canh, mùi cá, cái không khí trong lành bên ngoài không mùi không vị đối với chị thật lạt lẽo, và chị thấy lạnh, thấy hối hận sao mình nổi giận với con. Chị quay lại, bước trở vào nhà, nhìn qua đàn con, rồi nhỏ giọng bảo:

- Con Hai ngủ với con Sáu, thằng Bảy. Còn thằng Ba thì dẫn con Tư với thằng Năm về bên nhà. Mấy con có chơi thì chơi, nhớ đừng đốt đèn. Má đi cấy, sáng mới về.

Trời đã mờ tối. Ra đến đường kinh, Lành đi trước, chị đi sau. Chị đi chậm từng bước, vừa đi vừa nhìn lại ngôi nhà, nhìn hai căn hầm nổi của con. Bỗng nhiên chị thấy không yên tâm. Chị dừng lại, muốn quay trở lại nhà, dặn dò thêm một vài điều, nhưng chẳng biết phải dặn gì thêm. Chị thở dài, rồi bước nhanh chạy theo Lành.

*

Trời mờ sáng. Chiều hôm qua, cánh đồng hãy còn là một dải đất trống, nước lấp xấp, màu nước đục ngầu, sau một đêm cấy, mạ xanh um. Dù cấy đêm, không đèn, cũng không trăng, mạ vẫn ngay hàng thẳng lối.

Xa xa có tiếng phản lực gầm rít. Trời hãy còn sương, nhìn kỹ lắm mới thấy được máy bay. Ba chiếc nhỏ như bàn tay đang đảo, đang quần trên một rặng cây lờ mờ bên kia cánh đồng. Rồi tiếng bom bi nổ, tiếng bom nổ hàng dây rầm rầm như tiếng trống. Nhìn về phía tiếng nổ, người ta thấy khói trắng đùn lên cuồn cuộn.

Những người đi cấy lần lượt kéo nhau về. Đối với tiếng gầm rít của phản lực Mỹ và tiếng bom xa đó, họ xem đó là chuyện bình thường, ngày nào mà họ không nghe, không thấy, đã quen rồi. Người nào cũng thản nhiên, tay cầm mọc cấy, vai mang súng, họ thong thả bước trên các bờ mẫu dẫn vào các xóm. Những đứa trẻ con vừa đi vừa chọc ghẹo nhau. Những người lớn tuổi thì hỏi nhau chuyện dời nhà, chuyện hầm hố.

Riêng chị Bảy, chị lại sốt ruột. Chị không sợ tiếng rít của phản lực Mỹ, cũng không sợ tiếng bom nổ xa đó, nhưng tiếng rít của phản lực và tiếng bom khiến cho chị lại lo cho các con. Một ngày đi vắng không bằng một đêm đi xa. Xa con một đêm, không ngủ với con, lòng chị cứ day dứt không yên. Vắng mẹ, không biết con nó ngủ ngon không? Đang đêm, trời tối không biết con có giựt mình thức giấc đòi mẹ và khóc không? Xa hơi ấm của mẹ, chẳng biết các con có lạnh không? Và chuyện gì xảy ra cho các con của chị trong đêm chị đi vắng? Chị nóng lòng muốn gặp lại các con, muốn biết tất cả những gì xảy ra đối với các con. Tiếng rít của phản lực Mỹ và tiếng bom như đốt cháy trong lòng chị, thôi thúc chị. Chị chen người này, người nọ, đi vượt lên. Chị muốn đi nhanh nhưng cứ vấp, cứ trượt chân. Chị muốn đi nhanh nhưng không muốn đi một mình. Chị kéo Lành cùng vượt lên.

Chị và Lành vừa bước vào rặng cây trâm bầu dẫn vào khu vườn bên bờ kinh thì trời vừa đâm mây ngang, và từ xa có tiếng cánh quạt phành phạch của trực thăng. Tiếng trực thăng từ hướng Vĩnh Long bay tới. Mọi người đều biết chắc bọn trực thăng đó sẽ đến bắn làng mình. Họ liền tản ra chạy về các công sự. Số người còn nhởn nhơ ngoài đồng thì xuống các công sự, các hố cá nhân đào dài dọc theo các bờ mẫu và rải rác trên cánh đồng.

Lành kéo chị xuống một cái hầm dài dọc theo hàng trâm bầu. Lành lên đạn, ôm chặt súng, đưa mắt tìm máy bay. Còn chị Bảy, chị không có súng, nhưng chị không ngồi sụp xuống, chị đứng lom khom, ngước nhìn về hai ngôi nhà của mình.

Bầy trực thăng bay tới, ba chiếc, loại HU1A, loại đầu to, mình dài giống như cái gáo múc nước, người ta gọi đó là trực thăng cán gáo. Nó bắn rất dai, nó tuôn đạn xuống ò ò nghe đến hụt hơi mà chẳng chịu dứt. Như người ta thường nói nó bắn dai như trâu đái.

Ba chiếc bay tới, một chiếc trên cao, hai chiếc dưới thấp, nó đập cánh rầm rầm rộ rộ, rà qua rà lại trên cánh đồng. Nó bắt đầu bắn, bắn xuống từng nhà, bắn rải xuống cánh đồng.

Súng từ phía dưới đất, từ các cụm vườn, các lùm cây, các bờ mẫu và khắp nơi trên cánh đồng liền bắn trả lại. Tiếng súng của dân làng nổ đều và giòn như muối rang.

Trời đã sáng rõ. Người ta không nhìn thấy đường đạn, nhưng biết chắc đường đạn đang vây lấy trực thăng. Nó bay đến đâu, súng nổ dài theo đến đó, súng nổ từng tiếng đều và chắc. Bị lưới lửa của dân làng vây chặt, bọn trực thăng vừa bắn trả lại vừa bay niểng niểng lên cao và cố bay vượt ra tầm đạn.

Sáng nay, những người đi cấy chưa kịp vượt ra khỏi cánh đồng, người và súng không chia đều ra cả làng.

Vượt qua khỏi tầm đạn tập trung, đến những chỗ súng nổ thưa thớt, bọn trực thăng liền sà xuống bắn dữ dội.

Chị Bảy thấy ba chiếc trực thăng đang quần bắn vùng cây gáo, xóm nhà của chị. Ba chiếc nó thay phiên nhau rà sát và mỗi lúc một siết chặt.

Nghĩ đến con, lòng chị nóng như lửa cháy mà mặt chị thì tái lại. Môi chị tím bầm, hai tay chị nắm chặt và run lên. Chẳng biết cách nào, chị hét lên:

- Lành, bắn nó!

Lành lên đạn, bắn liền hai phát, nhưng xa quá. Bọn trực thăng vẫn quần đảo, bắn vào xóm chị như chỗ không người.

Chị quay qua, quay lại, nhìn ra xung quanh, đưa hai tay lên và gào hét:

- Bắn nó! Bắn nó, bà con ơi!

Chị cầm mọc cấy đánh phập xuống bờ công sự và nức nở:

- Trời! Chết hết con tôi rồi! - Chị như mất hết bình tĩnh, chị lột khăn ném đi, đưa tay vò đầu bứt tóc, rồi bất thình lình chị quay lại Lành, giật lấy cây súng, nhảy lên công sự, vụt chạy về nhà. Chị không chạy len lỏi qua các hàng cây như những người khác, chị chạy băng qua giữa đồng, chạy tét cả nước. Chị vừa chạy vừa bắn, chị bắn không cần ngắm súng, chị cứ hướng về phía trực thăng mà nổ. Bắn một phát chị lại hét lên:

- Bắn nó! Bắn nó! Bà con ơi!

Chị vừa hét, vừa chạy băng thẳng về. Nghe tiếng kêu cứu của chị, và thấy chị đâm liều như vậy, dân làng không thể bỏ chị.

Dân làng: nam, nữ, rồi tất cả lần lượt rời công sự, mỗi người một đường ồ ạt xông tới, chạy thẳng đến xóm nhà của chị. Và súng lại nổ lên rầm rộ.

Bọn trực thăng Mỹ bị tấn công bất ngờ, nó liền dựng lên và bay thẳng. Đang đà tấn công, dân làng đuổi theo. Tiếng thét xung phong vang dậy cả khu vườn. Chị Bảy như bị dòng người cuốn trôi và như quên cả đàn con, chị cũng cầm súng đuổi theo trực thăng.

Khi bọn trực thăng bay xa, cái tiếng quạt “phành phạch” tắt hẳn, bầu trời trở lại yên lành, và khi mọi người lần lượt trở về, chị mới sực nhớ đến các con. Chị lại sốt ruột, lại nóng lòng. Chị quên trả cây súng cho Lành, chị mang cả súng băng qua đồng chạy về.

Vừa bước lên con đường nhỏ dẫn đến sân giữa hai ngôi nhà, chị đã lên tiếng kêu:

- Con Hai, thằng Ba, con Tư, thằng Năm, con Sáu, thằng Bảy. Mấy con đâu? Mấy con đâu?

Sáu đứa nhỏ trong hai căn hầm lên tiếng và chạy ùa ra. Con Hai bồng thằng Bảy chạy ra trước.

Chị vừa bước đến sân thì sáu đứa con cũng chạy ập đến. Chị đưa tay bồng thằng nhỏ. Còn những đứa khác, đứa ôm chân, đứa ôm tay, đứa nắm vạt áo mẹ. Và đứa nào cũng muốn nói với mẹ. Đàn con quay theo chị rối rít như chim. Chị một tay bồng thằng con nhỏ, một tay chị dang ra muốn ôm tất cả các con vào lòng mình. Nhìn các con, chẳng hiểu sao nước mắt chị cứ tuôn xuống.

Thằng Ba, thằng liếng khỉ nhất nhà, nó không biết mẹ nó đang xúc động, thấy cây súng đeo trên vai mẹ, nó nhảy tưng tưng và reo lên:

- A! A! Cây súng của má! Cây súng của má hả má?

Nó không ôm mẹ như những đứa khác, nó ôm chầm lấy cây súng và kéo xuống.

Ngay trong ngày hôm đó, chị nhờ Lành đào giúp cho chị một công sự nữa. Công sự cách xa mấy căn hầm của các con khoảng năm tầm đất. Công sự nằm lẫn trong cụm đế già. Đó là công sự riêng của chị. “Thời bây giờ đánh với Mỹ người mẹ muốn nuôi con cũng phải có súng!”. Chị nghĩ như vậy. Từ đó, cũng như bao nhiêu người khác trong làng, chị chẳng bao giờ rời tay súng.

Và mỗi lần nghe tiếng máy bay, sau khi điều các con vào hầm, chị mang súng chạy ra công sự của mình lên đạn và chờ nó đến.

Tháp Mười, 16-12-1966.

Chú thích:

(1) Đơn vị đo ở nông thôn Nam Bộ, có thứ tầm 3 mét, có thứ tầm 3 mét 5.

(2) Cây cọc để cấy ruộng đất cứng.