Vợ Chồng Ông Già Sa Thét
Đêm trong sóc (1) Ô Lâm, dưới chân núi Cô Tô, tiếng trống skôkia nôi phập phình. Trên một cái sân rộng giữa sóc, một số con trai con gái sóc đốt đuốc, vui chơi với bọn sĩ quan bọn lính ngụy. Con trai vỗ trống, con gái mời bọn sĩ quan uống rượu xaxô (2) và cùng với bọn chúng múa lâm thôn (3).
Trận càn nào cũng vậy, đêm bọn địch cũng đều đóng trong sóc, và để lương thực trong nhà dân. Ở lẫn trong dân, chúng không sợ du kích. Đêm, chúng uống rượu và đi phá con gái.
Trong gian nhà sàn rộng của ông Sa Thét, khi nghe tiếng trống skôkia giục giã, bọn sĩ quan nôn đến mức không kịp bước xuống thang. Bọn nó từ trên sàn nhảy xuống, kêu réo nhau chạy ra bãi chơi.
Khi bọn chúng đi rồi, ông già Sa Thét cầm con cúi rơm bước tới cầu thang thì bà Sa Thét thút thít khóc. Tiếng khóc của bà Sa Thét khiến ông dừng lại. Bà Sa Thét thấy chồng khựng lại, bà cố ém tiếng khóc. Bà sợ chồng nổi giận. Ông già Sa Thét vốn tính nóng nảy. Khi ông nổi giận, cả xóm, cả sóc đều nghe tiếng thét của ông, và sau cơn giận, ông thường bỏ nhà đi. Đó là những chuyện xảy ra lúc vợ chồng hãy còn trẻ. Lâu nay, bà chẳng bao giờ làm trái ý chồng. Thấy chồng quay lại, bà vội thổi ngọn đèn, không cho chồng thấy nước mắt của mình. Bà vừa nấc vừa nói giọng run run:
- Tôi có khóc đâu! Ông cứ đốt đi!
Ông già Sa Thét không nổi giận, nhìn vợ rồi lặng lẽ trong bóng tối, ông xót xa, ông lẩm bẩm nói, không phải nói với vợ, mà nói với mình: “Cái thằng giặc, mày ác quá”. Nó lấy cái sàn nhà ông làm nơi chứa gạo, hàng trăm bao. Những lần trước, đêm đêm, ông kêu con trai con gái đến lấy gạo của nó đưa đi. Lần này, trận đánh trên đồn đã kéo dài bảy ngày bảy đêm rồi. Ngày nào trực thăng của chúng cũng kéo thành dây đến chở xác, nhưng bọn giặc vẫn chưa rút. Ông thấy quân lính của nó cứ dồn tới, tốp này đi, tốp khác lại đến. Và gạo, mất một bao, nó đưa đến hai bao. Ông đoán biết chúng sẽ đánh lâu. Ông thấy cần phải đốt kho gạo của nó. Cái kho gạo lớn lại nằm ngay trong sàn nhà của ông. Nếu phải đi đầu trong các cuộc biểu tình hoặc cầm lựu đạn cùng với đội du kích để đánh giặc, chẳng bao giờ ông bàn bạc với vợ. Nhưng lần này, ông phải đốt cả cái ngôi nhà của mình. Chiều nay, nhìn trước nhìn sau không thấy ai, ông bảo với vợ:
- Này đây (4) phải bắt nó đói! Phải đốt gạo nó! Đốt luôn cái nhà thôi!
Ông vừa nói vừa xòe tay chém xuống theo từng tiếng nói. Bà Sa Thét nhìn vẻ mặt gân guốc của chồng đang sắc đanh lại bà không dám cãi, bà chỉ nói:
- Cho tôi mang đồ đi.
- Không được, nó biết!
Ông già Sa Thét lắc đầu và vẫn nói nhát gừng như vậy. Bà Sa Thét biết ý chồng và vốn quen chịu đựng, bà lặng lẽ gật đầu và thì thầm:
- Cho nó đói, phải thôi... - Bà nghĩ như vậy, nhưng đến khi ngôi nhà sắp cháy thì bà không dằn được tiếng khóc. Ông già Sa Thét thương vợ và khổ tâm.
Ông ngồi xuống cạnh bên vợ, ngồi lặng lẽ rồi rì rầm kể. Ông kể lại những ngôi nhà cũ, ngôi nhà bị giặc Pháp đốt cháy, ngôi nhà bị bom Mỹ đánh sập. Ông kể lại cảnh sống trong ấp chiến lược, ông kể lại chuyện thằng Prô con ông.
Trong giọng nói rì rầm buồn bã của chồng, hình ảnh của Prô như hiện lên trong đêm sương và đang từ xa đến với bà như một lần nó từ ngoài bót trỏ về. Bà hãy còn nhớ, đêm ấy, sương từ núi tràn xuống, sương mịt mù, nó đi trên con đường nhỏ lầy lội, nó đi lặng lẽ... Thằng Prô! Người nó dong dỏng cao như cha, có mái tóc quăn của mẹ, có đôi mắt sâu của cha, có cái mũi dọc dừa của mẹ. Nó là đứa con trai duy nhất của bà.
Trong những ngày ở ấp chiến lược, đêm nào nó cũng bị bắt đi tuần, đi gác. Rồi, một đêm nó không về nữa. Người ta xì xào nói với nhau: “Thằng Prô con của ông già Sa Thét đi lính cho Mỹ rồi”. Ông già Sa Thét giận tím cả người. Ông chạy ra bót kêu nó. Nó đứng lên chòi gác, súng lăm lăm, nó lắc đầu. Ông già Sa Thét giận điên lên. Ông quay trở về, lúc ấy bà đang ngồi giọt gạo (5). Bà chưa kịp hỏi, ông già Sa Thét bỗng chồm tới, chụp lấy cái chày ném đi, lấy chân hất ngã cái cối gạo. Gạo lẫn thóc vãi ra. Bà ngồi chết điếng. Ông trừng mắt nhìn bà, cái nhìn như muốn đốt cháy bà thành tro bụi. Và ông rít trong hai hàm răng.
- Đây! Thằng Prô con của ai? Nó có phải là con của tôi không?
Trời! Câu hỏi như một nhát dao đâm thẳng vào trái tim của bà. Bà rùng mình, và đau đến nỗi không khóc, không kêu lên được nữa. Bà rũ đầu xuống cối gạo, ngất đi một hồi lâu, rồi mới thổn thức. Sau đó, bà đi ra bót, gọi Prô. Tối hôm ấy, Prô trở về. Trong nhà treo một cây đèn chai, ánh sáng mờ xanh. Thấy thằng con mặc đồ lính bước vào nhà, ông già Sa Thét ngồi im, người hơi ngả về phía trước. Prô rụt rè ngồi lên giường. Bà tưởng chồng sẽ hét lên, sẽ chồm tới thằng con. Nhưng ông vẫn ngồi im, nhìn thằng con với đôi mắt nghiêm khắc lạnh lùng. Không khí im lặng căng thẳng, bà thấy nặng cả ngực. Bà nhìn con nói với giọng thì thầm:
- Prô! Con nói với àpúc (6) đi.
Prô cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi lâu, rồi mới ngước nhìn cha:
- Àpúc ạ! Nó có súng, nó bắt con, con đánh nó, nó bắn con, con chạy, nó bắn theo. Con giận nó lắm. Con cầm súng nó, rồi con bắn lại nó.
Ông già chớp mắt một cái, hỏi lại:
- Có thiệt như vậy không Prô?
Prô lại nhìn cha, cái nhìn bén và sắc. Ông già biết thằng con đang giận, ông xuống giọng hỏi lại:
- Có ai bảo mày không?
- Con có nói với cán bộ, cán bộ vô núi hỏi, cán bộ bảo được, cán bộ bảo phải bắn thằng “Amerike” (7).
- Cán bộ bảo à? Sao mày không nói với tao?
- Cán bộ bảo đừng nói với ai.
Cơn giận trong người ông nguôi đi, nhưng lòng tự ái của ông lại bị tổn thương, ông hỏi gằn từng tiếng:
- Sao mày nói với mađây (8), còn tao mày không nói?
- Àpúc giận, àpúc chửi, àpúc đánh, con chịu được. Mađây buồn con không chịu được đâu!
Tình yêu mẹ trong giọng nói của Prô tràn ngập tâm hồn ông. Ông ngồi lặng, và ngước nhìn ra đêm tối.
- Đây! - Ông lấy chai rượu rót ra ba chén, một chén cho Prô, một chén cho bà Sa Thét:
- Đây uống đi! Đừng buồn nữa, Prô, uống đi, rồi về bót mau đi cho nó tin.
Bà nhìn Prô bước ra đường. Đêm nhiều sương quá. Bà nhìn con không được lâu. Bà cầm cây đèn chai chạy theo, bà đưa con đến cửa bót. Ôi! Mỗi lần nhớ lại, bà đâu có ngờ đó là đêm cuối cùng của hai mẹ con. Đến cửa bót, Prô đứng lại nhìn mẹ:
- Mađây đừng khóc - Prô lập bập rồi vụt chạy vào bót. Bà cứ đứng nhìn theo rồi vội vã trở về. Bà phải khóc thôi, không khóc được với con, bà khóc trên lồng ngực ấm áp của chồng.
Sau đó, Prô chuyển qua bót Pan Trạo.
Một đêm cuối năm 1964, Prô mở cửa cho bộ đội chiếm lấy bót gác phía sau đồn. Từ đó, bộ đội tiến vào đồn chính. Sau khi diệt đồn, trên đường về căn cứ, Prô bị hy sinh vì một trái pháo của đồn Tri Tôn. Tiếng pháo như đang nổ vang trong tâm trí bà, tim bà nhói lên, và bà như tỉnh ra.
- Tà (9) ơi! - Giọng bà buồn rầu và nhỏ nhẹ - Tôi biết rồi. Tà đốt đi.
Bà từ từ đứng dậy. Ông già Sa Thét bước vào buồng ngủ quơ lấy một bộ quần áo, nắm lấy tay áo của vợ:
- Đây! Đây! Bận thêm đi. Tôi không cần.
Bà Sa Thét vội vã mặc thêm bộ quần áo rồi vội vã bước ra cầu thang.
- Đừng để nó biết! Đốt mau đi!
Xuống cầu thang, bà vụt chạy ra chỗ có tiếng trống skôkia.
Ông già Sa Thét đứng lặng, nhìn theo vợ cho đến khuất, rồi ngước lên nhìn trần nhà và lẩm bẩm trong hai hàm răng:
- Thằng Mỹ! Mày ác quá!
*
Bãi chơi chỉ còn vài tiếng trống thưa thớt. Giữa sân, người múa chỉ còn có một đôi. Các tay trống ngơi nghỉ, nhưng trống vẫn đeo trước ngực, họ ngồi dụm lại cười nói và cùng uống rượu nhẹ. Còn cô gái vừa rót rượu vừa mời bọn sĩ quan vừa đưa mắt tìm ông già Sa Thét.
Ông già Sa Thét, hông đeo một bầu rượu, bước ngả, bước nghiêng, đúng là một ông già say. Khi ông bước ra sân, tất cả các thứ trống đều nổi lên: “Phập phầm phình, phập phầm phình, phập phầm phình...”. Tiếng trống chen nhau, mỗi lúc một dồn dập, như cuốn như trào lên. Những anh con trai lực lưỡng vừa vỗ trống vừa nghiêng ngả, vừa đánh lưỡi ré lên. Rồi tất cả cùng vỗ tay, với tất cả các thứ giọng trầm, cao, già trẻ đều cất lên:
“- Sarikakeo ơi, si ầy coong coong” ầy “sarâydăng”.(10)
“- Sarikakeo ơi, si ầy coong coong” ầy “sarâydăng.”
“- Si phờ le đom boong brồ chét khơnia lên sarâydăng.”
“- Si phờ le đom boong brồ chét khơnia lên sarâydăng.”
Các cô con gái bước ra sân, uốn tay mời chào. Bọn sĩ quan dang tay như những con gà trống lượn theo.
Một đôi, hai đôi, ba đôi, rồi năm đôi, bảy đôi, mười đôi.
Ông già Sa Thét, ông già rồi, lại say, không ai múa với ông. Ông, một mình ông, ông cũng múa. Hễ có một tên sĩ quan lượn sát vào cô gái nào thì ông lượn chen và chẻ họ ra. Tiếng trống lại rộ to lên. Người đứng xem vỗ tay to hơn, cười và hét cũng lớn hơn.
- “Dơ... Ré... ré... phập phầm phình, phập phầm phình, phập phầm phình...”.
Bọn sĩ quan ngụy người Khơme lâu lắm rồi, chúng không hưởng được một đêm vui như thế này. Người Khơme nào cũng vậy khi nghe tiếng trống skôkia thì không thể nào ngồi yên. Tiếng trống như kêu như giục. Bọn nó, tay xòe ra, vừa chờn vờn theo cô gái, vừa ré, vừa hét. Còn các cô gái tay đưa lên trước ngực như giữ lấy lồng ngực mình, hai cánh tay mềm dịu và như dài ra, hai bàn tay vo tròn, như đang cầm một cái quả, đảo lên đảo xuống, chờn vờn như một ngọn lửa đang cháy.
Bọn sĩ quan và bọn lính ngụy người Kinh không biết nhảy, không biết múa, nhưng tay của chúng nó bỗng thấy ngứa, chúng nó nhịp chân, chúng nó lắc vai. Tiếng trống và hơi men như xô đẩy chúng nó, chúng nó cũng hét lên: “Dơri! Ré! Dơ!” Và nó kéo nhau vô sân, chen vào đám múa, đứng trước các cô gái, nhảy loi choi.
Bên ngoài, người xem lại cười la to hơn, vỗ tay to hơn và tiếng trống lại dồn dập thúc giục hơn. Người trong sân múa, cuốn lấy như một dòng nước xoáy, họ đang nhảy múa, la hét một cách cuồng nhiệt, thì bất thần một tiếng nổ, rồi một tiếng nổ, liên tiếp những tiếng nổ. Người ta thét lên:
- Du kích!
Tất cả tiếng trống đều tắt. Người ta chạy túa ra.
Nhà ông già Sa Thét cháy. Ngọn lửa ấy không thể nào dập tắt được. Ngọn lửa cuồn cuộn, bùng lan ra mỗi lúc một to, từng cuộn rừng rực cuốn theo, ngọn lửa như muốn với lên cao hơn.
Tân Châu, tháng 6-1967
Chú thích:
(1) Thôn, làng (tiếng Khơme).
(2) Loại rượu của người Khơme.
(3) Một điệu múa phổ biến của người Khơme.
(4) Mẹ nó (tiếng gọi vợ).
(5) Giã gạo kiểu thô sơ bằng chiếc chày như người ta giã cua, giã giò.
(6) Cha.
(7) Mỹ.
(8) Mẹ.
(9) Ông (tiếng gọi chồng).
(10) - Con chim sáo ơi, mày ăn cái gì đó? - Sáo ăn trái nhãn lồng, sáo hãy cùng tao vui chơi.