Bông Cẩm Thạch
Khác với những cô gái trong đội giao liên thành phố, Mì đã hai mươi tuổi nhưng hãy còn thích đeo bông tai và lại đeo bông cẩm thạch. Người con gái muốn đeo bông cẩm thạch cho đẹp thì gương mặt phải đầy đặn và tóc phải bới gọn gàng. Còn gương mặt của cô là gương mặt thỏn. Mắt cô tròn và sâu, miệng nhỏ với đôi môi mỏng, mũi thẳng, người cô dong dải và tóc hãy còn kẹp. Mặt cẩm thạch hai bên dái tai của cô tròn nhỏ thôi, nhưng cứ thấy cộm lên và cái màu xanh của viên cẩm thạch không hợp với màu da bánh mật của cô. Đang ở cái tuổi ăn diện, chẳng ai nói, nhưng có người chê cô không biết làm đẹp. Chẳng khác nào một số người có hai hàm răng đều như bắp - đã đẹp rồi mà vẫn chưa chịu lại bịt thêm một chiếc răng vàng cho xấu đi mà tưởng là thêm duyên thêm dáng.
Nhưng cũng nhờ cái đôi bông cẩm thạch ấy mà anh em trong đơn vị và một số nhà báo không lầm lẫn cô với những cô gái khác. Trong trận đánh ở Vườn Lài hồi đầu xuân, Mì đạt được danh hiệu dũng sĩ. Khi một cánh quân địch dùng hơi độc chồm lên đánh vào góc phố cạnh bên cô, nghe tiếng súng của một chiến sĩ đang nổ giòn rồi bỗng tắt, cô đoán biết. Cô lấy khăn tẩm nước, bịt qua mũi, lao vào hơi độc, cầm lấy AK của đồng chí đã hy sinh, quét chết bảy tên, rồi dùng pháo dù đánh tan một đợt phản kích của mười hai tên thủy quân lục chiến - Sau đó, cô nương theo đám khói của ngôi nhà bị pháo bắn cháy, vượt qua tường dưới tầm súng của giặc. Không may, đám khói tan mỏng quá nhanh, cô bị thương vì một trái đạn M79 của địch từ trên lầu cao bắn xuống. Ban chỉ huy cho trở lại tuyến sau để về hậu phương, nhưng cô không muốn.
- Em bị thương phần mềm thôi. Không ai biết đường rành bằng em đâu, em đưa đơn vị đến tận nơi rồi em trở lại cũng không muộn.
Ba miểng đạn làm nát bắp vế cô, máu ướt đỏ cả băng, nhưng cô nói với giọng bình tĩnh, hai con mắt cô mở to:
- Các anh có thấy không, nếu nó chạm đến xương, dù cho em có nghiến răng thì nước mắt của em cũng chảy thôi. - Đôi mắt của cô cứ mở tròn cho mọi người nhìn thấy, đôi mắt đen màu hột nhãn như có một ngọn lửa đang cháy. Miểng đạn không chạm đến xương, nhưng Mì không thể đi nổi - Anh em phải khiêng Mì trên chiếc võng. Mì ngồi đong đưa trên võng, đưa tay chỉ đường cho đơn vị tiến quân...
Rồi, sự đời kể cũng lạ, sau đó, khi tiếp xúc với cô, hai cái mặt cẩm thạch hai bên tai cô không còn cộm lên trong con mắt của người ta nữa. Và trong con mắt của một số người, đôi bông cẩm thạch bỗng trở thành món trang sức rất hợp với gương mặt của cô. Nhờ có đôi bông cẩm thạch mà cô có một vẻ đẹp giản dị và vì giản dị nên cô mới đeo bông cẩm thạch. Rồi có người gọi cô là “Cẩm thạch” với giọng trìu mến. Chừng như cái tên mới đẹp hơn cái tên cũ, nhiều người như quên mất cái tên cũ của cô. Khi đôi bông cẩm thạch đã biến thành tên thì cô không đeo đôi bông ấy nữa. Thật ra, cô đeo bông cẩm thạch hay đeo bông tòn ten hay bông hột đá, hột “xaphia” hay không đeo bông, điều đó chẳng phải là điều ghê gớm đáng cho mọi người phải chú ý. Cô không đeo bông, người ta cũng không thấy trên gương mặt của cô bị thiếu hay bị mất một cái gì. Nhưng với cô thì lại khác. Cô đeo đôi bông ấy chẳng phải vì muốn làm đẹp mà không biết cách, hay vì muốn tỏ ra giản dị mà đeo đôi bông theo kiểu xưa và rẻ tiền ấy, hay vì đến lúc đã thấy không nên chưng diện gì thì đẹp hơn nên cô mới cất đi. Đôi bông ấy đối với cô không phải là món trang sức, đó là kỷ niệm sâu sắc và đau đớn của cô - Ngoài cô, không ai hiểu được. Cô định đeo đôi bông cẩm thạch ấy cho đến suốt đời, và “sống để bụng, chết mang theo”.
Mì nằm bệnh viện không quá hai tháng. Đang ở cái tuổi “ăn ngon ngủ kỹ”, được bệnh viện chăm sóc nuôi nấng, sức khỏe của cô được phục hồi rất nhanh. Cô đi lại bình thường và nước da lại đỏ hồng - Cô trở về kịp lúc đơn vị đang tiến quân. Đoán biết, lần này mình có thể gặp lại mẹ, nỗi đau đớn lại giày vò cô. Có đêm hành quân đến suốt sáng, lội qua bao nhiêu cánh đồng, người mỏi mệt đến rã rồi, ai cũng đói ngủ, vừa ngả lưng xuống đã ngủ mê man. Còn cô, cô cô nhắm nghiền hai mắt lại, nhưng cứ trăn trở. Rõ ràng là nỗi đau đớn này đã tàn phá thể xác của cô hơn cả vết thương - Người cô gầy rộc đi, trông cô có vẻ khắc khổ và nghiêm nghị hơn.
Rồi trong một đêm nhìn thấy những ngọn đèn của đường phố Sài Gòn, không chịu nổi nữa, Mì đã đánh thức Liển - một cô bạn cùng tuổi và đã từng sống chết với mình. Hai cô dẫn nhau ra cây rơm, lấy rơm trải ra, nằm dưới ánh pháo sáng của chiếc “đakôta” vừa buông xuông. Liển - một cô gái vốn đơn giản và vô tâm, cô nằm im, nhìn những pháo sáng đang bị gió thổi giạt đi, và thỉnh thoảng đưa cùi chỏ thúc vào hông bạn.
- Làm gì mà thở hoài như vậy. Nhớ ai nói tao nghe coi.
Mì cứ nằm lăn trở như vật vã rồi bật dậy, nghiêng tai tháo đôi bông cẩm thạch gởi cho bạn và kể lại. Đây chính là món quà của cha cô đã tặng cho mẹ cô trong ngày cưới. Cha cô không còn nữa. Cũng như một số người kháng chiến cũ ở làng, cha cô bị giặc bắt hồi năm 1956. Năm ấy, cô mới vừa tám tuổi. Lúc ấy, cô không hiểu sao bọn giặc lại không giết cha như những đồng chí khác. Đối với cha cô, chúng ác độc hơn. Bọn nó giết cha cô trong một đêm tối, nó cấm cả làng không ai được lấy xác. Nó neo cái xác dưới nước cho đến lúc nổi lên, rồi lấy một tàu dừa cắm vào xác làm buồm kéo ra giữa sông, cho cái xác trôi lên, trôi xuống. Trong một đêm, người làng bơi xuồng ra sông vớt xác bị tàu của chúng đuổi bắn, phải trở về. Suốt mấy ngày liền, ngày nào cô cũng ra bến nhìn theo cái tàu dừa quật quờ trên giữa dòng sông. Cho đến ngày cái xác của cha cô rã ra, mẹ cô và người làng mới vớt lấy cái tàu dừa đã khô héo đem về, chôn cất cái tàu dừa và đắp lên thành ngôi mộ. Dạo ấy, những hàng gòn trong làng đã đến mùa bông - Trái gòn khô nhăn nhúm và đến ngày nứt vỡ. Những đốm bông trắng lờ lờ bay lừng lững khắp cả làng...
Rồi một đêm sau đó không bao lâu, cô chợt thấy hai bên tai của mẹ mất đôi bông cẩm thạch, cô hỏi:
- Má ơi! Đôi bông của má đâu, má bán rồi sao?
- Đôi bông đó là quà cưới của cha con tặng cho má. Cha con chết rồi má đeo đôi bông đó để cho ai? Có nghèo đến phải cạp đất ăn má cũng không bán đâu.
Mẹ cô ngồi trên chiếc võng bố (1) đưa em, còn cô trải đệm dưới đất nằm nghe mẹ kể chuyện.
Cha cô nghèo, không đủ tiền sắm sửa vòng vàng như người khác. Cha cô nhờ người thợ bạc già ở xóm chọn cho món trang sức vừa đủ với số tiền dành dụm được trong mùa gặt mướn. Người thợ bạc già - cái kính viễn thị lúc nào cũng để trên sống mũi ấy, mở ra tất cả các hộp nho nhỏ bọc bằng nỉ đỏ, rồi cầm lấy một chiếc bông cẩm thạch đưa lên: “Gương mặt phúc hậu của cô ấy đeo đôi bông này hợp lắm mà lại có ý nghĩa nữa. Nếu có tiền thì cũng không nên mua bông hột xoàn làm gì, chẳng qua là khoe của, không có ý nghĩa gì. Còn đôi bông này giống như cái bông cúc vừa mới hé nở. Cái gì mà nó vừa mói hé nở thì nó đẹp hơn là nở rồi. Đeo cái bông này thì dù cho đến già, cái tình đời nó cũng cứ đẹp như lúc còn son trẻ vậy”. Thật ra thì cái hình dáng của chiếc bông cẩm thạch chẳng giống một thứ hoa nào mới nở, cha cô biết nhưng vẫn nghe và tin người thợ già. Từ cái kỷ niệm của đôi bông dẫn đến những kỷ niệm khác của người cha. Một hôm giặc bố, tàu chiến của giặc neo giữa dòng sông Cửu Long, bắn pháo vào làng. Tàu nhỏ chở quân chạy vào các con rạch. Hai mũi quân từ quận đánh thẳng theo đường lộ đá xuyên qua làng. Mì mới lọt lòng được mấy ngày, mẹ còn yếu. Dạo ấy nhằm tháng bảy. Nước vừa tràn đồng, nước lấp xấp, xuồng không đi được. Giữa cánh đồng, cha cô ngồi bó chân dưới nước, dụm hai cái đầu gối cho mẹ cô ngồi từ khuya cho đến tối. Nghe mẹ kể, Mì như thấy cái cảnh ấy đang diễn ra trước mắt mình. Mì thấy mình là một đứa nhỏ trên cánh tay của mẹ, mẹ đang ngồi trên hai đầu gối của cha và người của cha mỗi lúc mỗi lún sâu xuống bùn lầy, chung quanh là cánh đồng nước trải ra mênh mông.
“Ước gì mình có được một người chồng như vậy!” - Cô bạn thầm nghĩ.
- Cha mình như vậy, nhưng má của mình lại không xứng đáng. - Mì nói với giọng căm giận, từng tiếng phát ra một cách khó khăn, nghe the thé - May mà mình giống cha mình nhiều hơn, mình giống cha mình cái gương mặt, con mắt, cái mũi, mình chỉ giống bà có cái miệng thôi. Ngày mai mình có thể gặp, nhưng mình không nhận đâu. Liển đưa giùm đôi bông này cho má của mình, nhớ nói là mình gởi lại cho đứa em của mình, mình còn một đứa em gái, năm nay nó cũng lớn rồi.
- Sao vậy?
- Trời ơi! Vì sau này bà lấy một thằng chồng Việt gian. - Mì nói với giọng tức tối, nói như quát khiến cho cô bạn đang nằm phải ngồi dậy.
- Vậy à? - Cô bạn kêu lên với vẻ kinh ngạc và nghe tiếng khóc tấm tức của bạn. Trong ánh pháo sáng, cô nhìn thấy gương mặt của bạn đầm đìa nước mắt.
- Chuyện đã vậy thì khóc làm gì! - Cô nói để an ủi, rồi nói đay nghiến - Được rồi, mày để cho tao. Ngày mai, nếu tao tìm gặp bả, tao sẽ xòe bàn tay cho bả thấy đôi bông. Nếu bả đưa tay cầm lấy thì tao nắm lại, tao sẽ đưa tận tay cho em mày.
Trong cơn bứt rứt, chẳng biết làm gì, Mì mở tóc ra bới, nhưng không phải bới, Mì buộc cái đuôi tóc lại thành một cái gút, cầm lấy cái gút, kéo trì xuống - như muốn bứt cho đứt cái mái tóc của mình.
Mái tóc căng thẳng, Mì ngồi im nhìn theo những chiếc pháo sáng đang lụn dần - Ánh pháo sáng chập chờn trên cánh đồng như thật, như hư...
Mờ sáng hôm sau, đơn vị chuyển lên con đường nhựa, qua một khu phố nghèo ở ngoại ô dẫn vào nội thành - Bao giờ cũng vậy, hễ mỗi lần chiến sĩ bước chân trên đường phố, từng giây, từng phút, lòng của chiến sĩ luôn luôn bị xúc động, khi thì vì một bàn tay thò ra cửa sổ vẫy chào, hay vì một tiếng kêu trầm trồ, một lời hỏi thăm, hoặc một cái nhìn thương yêu của người mẹ... Có người muốn mời anh em chiến sĩ một điếu thuốc ngon, có người đứng sát bên lề đường, đưa tay vỗ lên vai từng anh Giải phóng quân, có người sung sướng quá đến phải kêu lên, có người sụt sịt khóc.
Trong số người đứng hai bên đường nhìn bộ đội hành quân, có một người đàn bà khoảng ba mươi tuổi đứng phía sau, bỗng đưa tay vẹt người chung quanh bươn bả bước ra, rồi vụt chạy theo:
- H...ạ...anh! C...o...on!
- H...ạ...anh! C...o...on!
Người ta tưởng sẽ có một chiến sĩ nào đó dừng lại, hai mẹ con sẽ ôm chầm lấy nhau. Nhưng chẳng có ai. Người đàn bà vẫn đuổi theo và vẫn kêu:
- H...ạ...anh! C...o...on!
Tiếng kêu vang dài theo cánh quân. Cả đơn vị liền nói truyền cho nhau:
- Ai tên Hạnh đứng lại có bà má! - Người mẹ cứ đuổi theo, cứ kêu, nhưng chẳng có ai dừng lại.
Nghe tiếng kêu thảm thiết quá, anh chánh trị viên trẻ phải tách ra khỏi hàng, dừng lại để tìm lời an ủi.
- Thím ơi! Chắc là anh ấy ở cánh quân khác.
Người đàn bà cứ nhón gót, ngước mắt nhìn mải miết theo cánh quân, vẻ đau khổ và lắc đầu:
- Không phải, con tôi là con gái, giống lắm.
- Trong đơn vị của cháu có ba bốn cô gái thôi, nhưng không có ai tên Hạnh - Chắc là người giống người.
- Chắc là như vậy! - Người đàn bà thầm nói lại, rồi như chẳng để ý đến anh chỉ huy quân giải phóng, quên cả lời từ giã, chị quay lại, lủi thủi đi.
Trời sáng rõ. Chiếc máy bay trinh sát L.19 rè rè từ xa bay tới. Cánh quân liền ém vào hai bên khu phố, tản ra chiếm lấy vị trí chiến đấu.
Vừa đến một bờ ruộng, Mì ôm mặt cô nén tiếng khóc nhưng mái tóc cứ rung lên. Chừng như thấy mình đã trừng phạt người mẹ như vậy đã đủ rồi, không thể làm gì cho mẹ phải khổ thêm, Mì bảo cô bạn đưa trả lại đôi bông. Nhưng Mì không kịp đeo vào tai. Muốn đeo cái đôi bông ấy phải mở ra, đeo vào rồi phải vặn lại, vừa tỉ mỉ, vừa lâu. Chiếc máy bay trinh sát đã bay xa, đơn vị lại lên đường. Mì chỉ kịp gói đôi bông vào chiếc khăn trắng, để vào túi, lấy kim băng gài lại rồi ôm súng nhập lẫn vào cánh quân đang nối theo lao qua con đường lớn.
Còn Liển, cô ở lại với đại đội giữ lấy khu phố vừa giải phóng.
Trong lúc đó, người đàn bà đau khổ ấy đang lầm lũi trở về. Vào đến nhà, chị cứ đứng yên trước cửa. Chị tiếc đứa con nhỏ của chị về bên nội chưa lên, nếu có nó, chắc là nó sẽ đuổi kịp. Chồng chị lại đi vắng. Đứng yên một lúc lâu, chị bước vội vào nhà, mở tủ, đem những ổ bánh mì đã chuẩn bị sẵn cho Giải phóng quân, chị xếp bánh vào hai cái thúng, lấy khăn phủ lên, rồi cất gánh, ra đường, đi về phía tiếng súng đang nổ - Nhưng chị không thể đến tận chỗ của trận đánh. Tuyến cuối cùng sau trận đánh của Giải phóng quân giữ chị lại. Trận đánh đang xảy ra trên ngã ba đường lớn, cách tuyến cuối cùng khoảng năm trăm thước đường chim bay. Nơi có những tầng lầu cao màu xanh, màu xám, màu sữa, và những mái ngói đỏ như chen lấn nhau, lô nhô cái thấp cái cao. Chị gặp ban chỉ huy.
Người chánh trị viên trẻ hai mươi tuổi có mái tóc hớt cao lúc nãy ra tiếp chị trước nhà của tên đại úy vừa bỏ chạy.
Chị đặt gánh xuống thềm gạch, kéo khăn lau mặt:
- Xin báo với các đồng chí đây là bánh của cơ sở tiếp tế cho các đồng chí.
Chị vừa nói vừa lom khom lấy bánh trao cho anh em chiến sĩ đang đứng chung quanh. Nhìn người nữ cán bộ cơ sở, anh chính trị viên bỗng chợt nhớ như mình đã có gặp ở đâu rồi. Anh gợi chuyện:
- Lúc nãy thím thấy cô nào giống con của thím?
- Hồi nãy tôi thấy ba cô, trong đó có cô mặc đồ bà ba đen, tóc kẹp, vác súng AK, cô đó giống con nhỏ nhà tôi lắm.
- Cô ấy không phải tên Hạnh, cô ấy tên Mì.
- Sao? - Đang xếp bánh, chị liền ngẩng lên hỏi lại - Cô đó tên Mì à? Đúng là nó rồi! - Chị vừa kêu to vừa đập mạnh cái bánh vào vành thúng - Nó lấy tên của cha nó!
Chị đứng dậy, nhìn qua khu phố đang có những bựng khói xanh mờ đang tỏa lan trên những mái ngói, đang có tràng súng nổ dữ dội rồi hạ giọng:
- Tôi biết - là người mẹ thì không thể nào nhìn lầm con của mình được.
Lúc ấy, Liển đang đứng trước một tấm kiếng trước mặt tủ chải lại mái tóc, nghe có tiếng người, Liển vội chạy ra. Thấy người đàn bà ấy, Liển nép lại bên cửa. Mì có đôi môi nhỏ xinh xinh giống như người đàn bà này. Liển nhìn theo từng cử chỉ của người đàn bà với đôi mắt dò xét. Người đàn bà có vẻ phúc hậu với vẻ mặt đầy đặn và vẫn còn giữ nguyên vẻ một người đàn bà ở nông thôn. Tóc bới gọn, mái tóc chải lán, áo bà ba trắng, quần dài đen ống rộng - Người đàn bà như vậy mà sao lại... Liển nghĩ thầm. Trong lúc đó, người mẹ trẻ quay nhìn anh chánh trị viên nói với giọng cầu khẩn:
- Đồng chí! Làm sao cho tôi gặp được nó, tôi chỉ cần nói với nó một câu thôi. Nó hiểu lầm tôi, nó giận tôi đã sáu năm nay rồi - Số là như vầy...
Khi kể chuyện tâm sự, người ta thường kể vào giờ đêm, hoặc kể trong lúc yên vắng, còn chị, chị kể lại chuyện đau khổ của mình trong lúc tiếng súng đang nổ, kể với những người đang ôm súng chờ lệnh chiến đấu, chị cũng không kể với giọng thầm thì, chị nói to, chuyện trào ra từ cái lồng ngực thở phập phồng, chị nói với giọng xúc động khiến cho các chiến sĩ phải chăm chú lắng nghe.
... Sau khi nhà tôi bị bọn nó giết chết, tôi bồng bế hai chị em nó lên cái đất Sài Gòn này, chen vào cái chỗ đông người để lánh mặt. Tôi sống bằng nghề bán bánh lọt. Buổi trưa hôm đó, cũng trên con đường ngoài ngoại ô này, tôi đang múc bánh bán cho một bà khách nghèo ở bên đường. Có một chiếc xe con cóc chạy qua, tự nhiên xe thắng lết bánh dừng lại sát bên đường. Năm đó, mỗi lần thấy cái loại xe ấy bỗng nhiên mà dừng lại gần mình, ngại lắm các đồng chí. Nghe tiếng giày đi lại gần, liếc mắt thấy anh tài xế, tôi kéo khăn che mặt. Người tài xế đứng bên thúng bánh, biểu:
- Cho tôi hai tô.
- Mấy thầy mà cũng ăn bánh lọt nữa à! - Người khách hàng nghèo hỏi.
- Thầy Ba muốn ăn, tôi cũng húp bậy một tô cho trơn cái cần cổ, cho thêm một gáo nước dừa nữa chị, tính thêm bao nhiêu tôi trả.
Khi người tài xế bưng hai tô bánh lọt đem lại xe, hỏi bà khách hàng, tôi biết người ngồi trên xe là thư ký riêng của tên quận trưởng. Bà khách hàng trả tiền đi xa rồi thì người thầy ký ấy mang tô lại. Như có linh tính báo trước, cái linh tính của người đàn bà kỳ lạ lắm các đồng chí! Tôi cảm thấy có điều gì khác thường, tôi không dám cho người thầy ký ấy thấy mặt. Người ấy thò tay xuống, đưa cho tôi tờ giấy hai chục, tôi chú ý nhìn cái bàn tay - Cái bàn tay không phải là bàn tay chai sạm của người nghèo, cũng không phải là bàn tay kẻ giết người. Cái bàn tay mềm mại của người cầm viết. Tôi cúi mặt móc tiền ra trả lại thì tôi nghe tiếng gọi khẽ.
- Chị Sáu!
Cái khăn tôi đang đội qua đầu như có ai kéo rơi xuống. Khi tôi nhìn lên thì tôi sửng sốt. Hóa ra người ấy là đồng chí. Hồi kháng chiến, anh là cán bộ Liên Việt của quận - tôi thường gặp anh trong các cuộc họp. Chẳng hiểu sao lúc đó tôi không thấy anh là kẻ thù, mặc dù anh đang làm việc trong tổ chức của giặc. Anh nhìn tôi với đôi mắt - khó nói quá - vừa mừng vừa ngạc nhiên, vừa ứa nước mắt - Rồi sau đó, tôi biết anh được cơ sở đưa vào tổ chức của địch. Tên quận trưởng là người bà con bên ngoại của anh. Nhờ anh mà tôi móc nối được cơ sở và lại bắt đầu hoạt động. Sau đó, tôi xây dựng lại gia đình với anh ấy. Chuyện đó dài dòng lắm, tôi không nhắc lại làm gì. Tôi muốn nói đến con tôi.
Câu chuyện của người đàn bà thường bị đứt quãng khi có những tiếng súng lớn dội lại, hoặc những loạt súng nổ dồn dập hoặc gay gắt. Rồi sau đó, như chẳng có gì xảy ra, người đàn bà lại tiếp:
- Một hôm ngồi làm bộ bắt chí cho nó, tôi tìm lời vỗ về: “Con không thương má sao, nhà có mấy má con”... Nó tưởng tôi không hiểu được ý của nó. Đang ngồi, nó bỗng vụt đứng dậy, hét lên: “Người đó là Việt gian!’ - Nó trợn mắt nhìn tôi, mặt tái xanh, môi tím ngắt. Trong con mắt giận dữ của nó tôi thấy lại con mắt của cha nó, tôi cúi xuống, nói như than: “Con ơi! Lớn lên rồi con sẽ hiểu”. Nó bỏ đi, vừa đi vừa khóc, nhìn nó tôi thương đến đứt ruột đứt gan. Sau đó, nó chống ra mặt. Tới bữa cơm, nó bưng chén ngồi trong một góc, lần nào rửa chén nó cũng chừa cái chén của anh ấy. Có lần, anh ấy bồng đứa em của nó, chờ anh ấy đi, nó kéo em vào nhà tắm, nó xối nước, nó kỳ cọ đến con nhỏ phải kêu khóc, nó nói xỉa nói xói tôi: “Tao phải kỳ cho mầy đau để mầy chừa”. Chúng tôi sống hạnh phúc mà khổ tâm. Chúng tôi bàn với nhau định nói thiệt với nó, nhưng nói làm sao được, nó còn nhỏ quá, sợ nó vui miệng, “tai vách mạch rừng” mà, ở cái đất Sài Gòn nầy năm đó, biết tin ai các đồng chí - Mà cũng chưa chắc gì nó chịu nghe, không khéo nó lại cho mình là sợ mà nói dối. Tôi định rời về tỉnh nhà, vào vùng kháng chiến, rồi nói thiệt cho nó - Nhưng cũng như anh ấy tôi không thể bỏ cơ sở. Tôi chờ nó lớn lên một vài tuổi nữa.
- Chú ấy không tìm cách vỗ về làm cho cô ấy thông cảm mình sao thím? - Một chiến sĩ hỏi với giọng bồn chồn.
- Nhà tôi biết là không dỗ được nó. Với lại, - nó ghét nó thù nhà tôi như vậy là phải. Tôi muốn gia đình được đầm ấm, nhưng lại sợ nó quên cái mối thù của cha nó.
- Chà! - Một chiến sĩ tắc lưỡi - Khổ thiệt! Rồi sao nữa thím?
- Rồi, không ngờ - Giọng của người mẹ trầm xuống - trong một đêm nó bỏ nhà trốn đi. Cách đây hơn năm, nhà tôi được gọi vào chiến khu. Nhà tôi hỏi thăm nó khắp nơi mà chẳng biết nó đâu. Nhà tôi cũng đang đánh vào nội thành. Bây giờ, ở đây không có ai, tôi mới nói thiệt với các đồng chí. Sau khi nó đi, soạn lại đồ đạc tôi chỉ thấy mất có đôi bông cẩm thạch. Đôi bông tôi để trong cái hộp nhỏ, có bọc nỉ đỏ, tôi cất trong tủ. Đó là quà cưới của cha nó tặng cho tôi. Lấy đôi bông đó đi, tôi hiểu được ý nó muốn nói, tôi không xứng đáng để giữ cái kỷ niệm của cha nó.
- Hèn gì! Cô ấy cứ thích đeo bông, ai mà biết được!
- Sao? - Chị như giật mình quay về hướng anh chiến sĩ vừa nói hỏi lại - Đồng chí thấy cô gái tên Mì có đeo bông cẩm thạch à? Vậy là đúng con tôi rồi!
Chị lại nhìn người chánh trị viên trẻ với vẻ cầu khẩn:
- Đồng chí làm sao cho tôi được gặp lại nó, nói với nó một câu, để nó hiểu, đi đánh giặc mà giận mẹ thì lòng đâu có yên.
Một chiến sĩ nói chen vào:
- Đúng đó, phải nói cho cô ấy biết để cô trút căm thù vào bọn giặc chớ!
Tự nãy giờ, anh chánh trị viên vừa lắng tai nghe tiếng súng của trận đánh, vừa để tâm vào câu chuyện kể lể với giọng xúc động và vội vàng của người mẹ.
Anh thường nghe người thành phố kể chuyện vậy. Có những bà mẹ đã kể khổ với anh trong một căn hầm chống phi pháo, có người vừa mang khăn gói vừa đi theo bộ đội vừa lau nước mắt vừa nói. Hầu như mỗi người đều có mỗi chuyện riêng, từ lâu, cô đè nén để chờ quân giải phóng về. Nhìn người mẹ cứ đăm đăm nhìn sâu vào một cụm khói bên kia trận đánh, anh thấy không thể để cho người mẹ phải chờ đợi, phải đau khổ thêm một giây phút nào nữa.
- Thím ơi! - Anh nói với giọng trìu mến của một người thân - Súng đang nổ, thím không nên đi, một chút nữa trinh sát trở về, hoặc cháu sẽ phái trinh sát đến mặt trận, cháu sẽ báo cáo và xin ban chỉ huy cho cô ấy lại đây gặp thím. Thím đi nếu có bề gì... - Là người đã từng chiến đấu, anh luôn luôn lo lắng đến những chuyện không may có thể xảy ra, nhưng anh không nói được những lời cuối cùng.
Một anh chiến sĩ khoảng hơn hai mươi tuổi, người mập mạp, tóc mịn như tơ, vì mải nghe chuyện tay cầm chiếc bánh mới bẻ ra như quên cả ăn, cũng đang bực bội vì phải ở lại tuyến sau và từ lâu cũng muốn làm quen với cô gái dũng sĩ - Anh sốt sắng bước tới:
- Báo cáo thủ trưởng! Hay là như vầy. Thủ trưởng cho tôi gánh hai thúng bánh này cho anh em, tôi sẽ lên thẳng ban chỉ huy, rồi chính tôi sẽ điệu cô ấy quay trở lại.
Được sự đồng ý của thủ trưởng, anh liền quàng súng qua vai, kê vai vào đòn gánh. Nhưng anh vừa cất gánh thì bị bàn tay của Liển giữ chặt lại:
- Báo cáo thủ trưởng! Nếu đơn vị đang tiến quân thì tôi mới thay thế cho Mì, thủ trưởng cho tôi đi!
Anh chiến sĩ để gánh xuống, nổi quạu nhưng chẳng biết làm gì, quay lại hỏi:
- Ơ kìa, sao cô lại khóc?
Liển đang giàn giụa nước mắt, nhưng không đáp. Liển hối hận vì đã có một ý định xốc nổi với người mẹ. Và chưa có lúc nào, Liển lo sợ cho Mì như lúc này. Nếu nó chưa gặp lại mẹ, chưa kịp hiểu gì mà phải hy sinh thì... Nghe tiếng súng nổ, ruột gan cô cứ thắt lại. Cô cất gánh vội vã bước nhanh.
Liển dáng thâm thấp, gánh hai cái thúng bánh sà xuống mặt đường, vừa đi vừa chạy, vừa tránh, vừa lách qua những chiếc xe đang ngược lại trên đường.
Rồi sau đó, trận đánh kéo ngọn lửa mỗi lúc mỗi lan ra. Một đàn trực thăng như một bầy nòng nọc chúi đầu, bơi luồn trong khói. Dưới tầm đạn hỏa tiễn của trực thăng, nhiều ngôi nhà bị sụp đổ, khu phố bốc lên nhiều đám cháy lớn.
Trong một công sự được làm vội vàng - một đống gạch vụn chạy dài theo một đường mương nước, cạnh bên một ngôi nhà đang cháy, lửa đang bốc cao ngọn và phát ra những tiếng nổ lớn như tiếng pháo, ba anh chiến sĩ trán lấm tấm mồ hôi, mặt đỏ bừng, bụi ngói rắc đỏ trên mái tóc, bám đầy quần áo, ba anh đang ghìm súng kìm chế một ổ súng của bọn giặc ở bên kia đường bỗng chợt thấy một người đàn bà, chẳng biết từ đâu đến, trong một cụm khói đặc lao qua. Một anh hét to:
- Nằm xuống! - Một anh giương súng bắn phủ đầu ổ đại liên của giặc, một anh xô ra kéo người đàn bà. Người đàn bà xoài người bò vào công sự, rồi như chẳng nghĩ đến những viên đạn vừa rà sát qua đầu mình, kéo khăn lau mặt, thở hổn hển:
- Mấy chú mấy em chưa có bánh hả. Còn một cái đây!
Người đàn bà vừa nói vừa bẻ chiếc bánh ra làm ba khúc, đưa cho từng chiến sĩ. Ba anh chiến sĩ đoán biết người đàn bà này là cán bộ của cơ sở, nhưng không giống những người mà họ thường gặp trên phố. Người đàn bà đang nhìn họ ăn với đôi mắt yêu thương này gợi cho họ nhớ những chị, những dì, những cô, những thím mà họ thường gặp gỡ trên những làng đã đi qua. Người đàn bà phúc hậu tóc bối gọn, hai bên tai có đeo đôi bông cẩm thạch, giống y như đôi bông của cô nữ giao liên.
10-1968
Chú thích:
(1) Võng đan bằng đay.