Bạn Hàng Xóm
Hòa là người hàng xóm đầu tiên đến thăm tôi lúc tôi vừa mới thức. Như để phân trần vì sao cô đến quá sớm, cô bảo:
- Sáng nay em lên quận họp. Em muốn đến thăm anh một cái, xem ba mươi năm, anh già hay trẻ. Thấy anh cũng không khác mấy. Thấy anh chút vậy được rồi, thôi em đi nghen!
- Ngồi chơi đã.
Hòa! Hồi tôi bỏ làng đi, cô mới bảy tám tuổi. Bây giờ cô đã xấp xỉ bốn mươi với một đàn con, tám đứa. Tôi nghiệm thấy với một người bạn trai, xa nhau hàng mấy chục năm, khi gặp lại nhau, vẫn còn thấy ngờ ngợ, từ cái ngờ ngợ ấy mà nhận ra nhau. Đối với một cô gái, - cũng xa nhau chừng ấy năm, khi gặp lại nhau, trông lạ hoắc như chẳng còn giữ lại một nét gì xưa cũ.
Tôi còn có thể nhận ra Hòa không phải chính ở cô mà vì những nét quen thuộc của anh cô - thằng Cứng bạn của tôi - Cô có đôi mắt với cái miệng thằng Cứng, mắt lồi và môi trề.
Tôi bảo cô ngồi chơi, cô vẫn quay lưng đi.
- Em vội quá. Họp về em sẽ lại anh.
- Bác có khỏe không cô?
Vì cô đang vội - như cô nói, tôi nghĩ là cô vừa đi vừa trả lời, nhưng nghe tôi hỏi đến ông già thì cô quay lại:
- Dạ, cũng khỏe.
Rồi, cô không đi nữa. Cô đứng lại, nhìn tôi, nửa muốn đi nửa muốn không.
- Ông già em, khổ quá! - Cô kêu “khổ quá” nhưng mặt lại tươi tắn.
- Đất sanh cỏ, già sanh tật anh ạ! Để em nói cho anh nghe.
Chừng như quên mất việc phải đi hội nghị, cô kéo ghế ngồi xuống.
- Người ta thường hay lấy rượu để làm nư. Ông già em cũng vậy. Nhưng cái kiểu làm nư của ông, thiệt khác người. Ai đời! Anh biết đó, nhà em là tiệm thuốc bắc ở giữa chợ, lại sát tường sát vách với thằng cảnh sát. Vậy mà, mỗi lần uống rượu là ổng giật tấm hình thằng Thiệu xuống, ổng đặt nó xuống nền nhà, rồi ổng rút cây roi mây dài, ổng quất xuống mặt nó chan chát. Ổng vừa quất, vừa chưởi, vì nó mà anh Cứng của em mất. Ổng làm cho em sợ điếng vậy!
Lúc đó, chắc cô sợ điếng thật, nhưng bây giờ, kể lại thì mặt cô rạng rỡ tự hào. Cô kể chuyện ông già chưa dứt, nghĩ gì cô ngước mắt nhìn tôi, cười, chặc lưỡi một cái:
- Ba mươi năm mà trông anh không khác mấy. Hồi anh gặp anh Cứng em, ảnh có già lắm không anh?
- Cũng như anh.
- Trời! Nếu bây giờ, thình lình mà ảnh về thì ba em chắc lên mây!
Cô lại cười, và cười mà hai con mắt đỏ hoe.
- Cầm roi, ổng quất xuống mặt thằng Thiệu nghe tron trót vậy. Cũng may, chờ đến nửa đêm, cửa đóng then gài rồi, ngủ không được, ổng mới lấy rượu ra, ổng uống, rồi ổng đánh. Hễ em năn nỉ, em giật cây roi thì ổng lại làm già.
Đôi mắt cô lại xa xôi, nhìn ra khoảng không hồi lâu:
- Chắc anh còn nhớ, ba em hồi trước đâu có rượu chè gì!
Phải, hồi trước, hồi tôi còn ở làng, tôi biết, chẳng những không rượu chè, bác còn là một con người đáng cho hàng xóm kính nể. Ông thầy thuốc bắc có tiếng với một lớp học chữ Nho, nề nếp và nghi lễ. Ngay cái áo ông mặc thường ngày cũng có vẻ nghi lễ hơn người. Áo bà ba có cái cổ đứng, trông lúc nào ông cũng trang nghiêm.
- Từ ngày nghe anh Cứng em mất, ổng mới uống rượu, - Hòa tiếp, - suốt hai ba năm trời, đêm nào ổng cũng uống. Bây giờ đâm ra nghiện ngập be bét. Trước ngày giải phóng, đêm ổng mới uống, mới đánh thằng Thiệu. Bây giờ thì lu bù, ngày đêm gì ổng cũng uống. Hễ uống thì ổng kéo tấm hình thằng Thiệu ra ổng đánh mà hễ muốn đánh thằng Thiệu thì ổng uống. Mấy đứa nhỏ cứ xúm trước cửa dòm vô, coi như coi hát Sơn Đông. Lâu lâu không có chuyện gì vui, mấy đứa đi ngang qua cửa, nó kêu: “Ông Tám ơi, đánh thằng Thiệu nữa đi, ông Tám”. Con nít ở chợ bây giờ, coi ổng như là một trò cười! Em khổ quá!
Vẻ mặt của Hòa lần này khổ thật. Cô nhìn xa rồi thở dài:
- Đêm qua, ba tôi nghe nói anh về. Ba tôi nhắc, hồi đó ở trong làng, anh với anh Cứng học giỏi nhất. Nhắc tới rồi ổng đem rượu ra, ổng đánh thằng Thiệu. Con nít ở chợ lại chạy tới, thiệt lùm xùm.
Nãy giờ nghe cô nói, tôi mới cười - Thằng Cứng anh của cô đâu có phải là đứa học trò giỏi! Ngược lại, thằng Cứng là đứa học trò tối dạ, học dở nổi tiếng. Học dở lại dơ dáy. Mũi thò lò, quần áo lúc nào cũng vấy mực. Nước da của nó lại sàm sạm, cả cái vẻ mặt của nó cũng cũ, cũ mèm. Nó học không đến nỗi đội sổ, nhưng không bao giờ vượt lên đến mức trung bình. Lớp học có bốn mươi lăm đứa thì nó vào hạng bốn mươi. Từ bốn mươi đến bốn mươi lăm nó cứ xục xịch như vậy cho đến ngày rời khỏi trường. Chung quanh chuyện học dở của nó lại có một chuyện thành trò cười, từ đó thành một giai thoại. Hồi đó, mỗi lần cho điểm thì cô lật sổ ra, gọi tên từng đứa. Đứa nào được cô gọi đến thì đứa đó phải đứng thẳng lên, vừa hô tên vừa hô điểm cho cô ghi vào sổ. Và hô điểm thì phải hô bằng tiếng Tây. Ví dụ, cô kêu:
- An!
Lập tức trò An phải đứng dậy và hô lớn:
- An “nớp” (9).
Cô gọi:
- Bình!
Lập tức trò Bình phải đứng dậy và hô lớn:
- Bình “xít” (6).
Lần đó cô gọi đến nó:
- Cứng!
Từ dưới bàn chót, nó bật đứng phắt dậy, nó có hai điểm mà nó không biết mắc cỡ, nó dõng dạc hô lớn:
- Cứng! “Đơ” (2). - Tiếng “đơ” nó lại kéo dài mới chết!
Cả lớp cười rộ lên, cô thì đỏ mặt tía tai, còn nó, mặt nó cứ tỉnh bơ.
Thằng Cứng, “Cứng đơ” biến thành danh.
Phải nói thật lòng, hồi đó, tuy là bạn cùng xóm, nhưng tôi không thích nó. Tôi không thích nó không phải vì nó học dở, dơ dáy hay lù khù. Tôi không thích vì thấy nó không ưa tôi. Lúc nào nó cũng nhìn tôi với cặp mắt lườm lườm, xa lánh và hiềm thù. Trong các trò chơi, nó tìm đủ mọi cách để đứng vào phía đối lập với tôi. Nhất là đá banh, lần nào chia đội, tôi để ý thấy, không khi nào nó chịu ở một đội với tôi. Học dở, đá banh cũng dở, chỉ được cái đá giò, và trận nào nó cũng cặp theo tôi. Nhưng tôi lanh hơn nó. Nó đá giò, tôi tránh, tôi thúc cùi chỏ, nó chỉ biết “hự” lên một tiếng, lấy mắt dòm. Tại sao nó không ưa tôi, tôi không hiểu, chỉ biết nó không ưa thì tôi không thích. Được cái, tôi không ỷ thế học giỏi hay lanh lợi mà ăn hiếp nó.
Học hết cấp một trường làng, chúng tôi lên quận thi, tôi đậu số hai còn nó thì rớt.
Tôi rời trường làng, lên trường quận. Nó thi rớt, nó cũng rời trường làng, cũng lên quận, nhưng hai quận khác nhau. Tôi học trường quận Chợ Mới, nó học trường quận Cao Lãnh - là quê ngoại của nó. Nó thi rớt nhưng chẳng hiểu thế nào nó cũng được lên lớp như ai!
Một hôm, tôi từ nhà trường về nhà vào ngày chủ nhật. Tôi gặp ông Tám ngồi chơi với cha tôi ngoài thảo bạc - Ông ngồi vẻ tề chỉnh, áo bà ba cổ đứng, hai bàn tay để lên vế - như ngồi chụp hình, đang câu chuyện với cha tôi, bỗng ông quay sang tôi, ông hỏi:
- Năm!
- Dạ!
- Tháng này cháu đứng hạng mấy?
Tôi lễ phép đáp:
- Dạ, tháng này cháu đứng hạng ba!
Bà con trong làng, nghe tôi học đến hạng ba ai cũng tỏ lời khen, còn ông, ông “ừ” một tiếng trong cuống họng, nhìn tôi lom lom chừng như không muốn tin tôi, tôi phát bực. Ông lại “ừ” lên một tiếng:
- Kỳ này thằng Cứng đứng hạng mười lăm toàn trường! - Tự nhiên mặt ông đỏ rần, như ngượng cho cái hạng mười lăm của thằng Cứng rồi ông lại đằng hắng:
- Nhưng mà! Cái hạng nhứt ở trường Chợ Mới của cháu không thể bằng cái hạng mười lăm của trường Cao Lãnh! - Nói xong, ông nhìn sang cha tôi, dõng dạc như một nhà hùng biện:
- Trường Cao Lãnh là trường nổi tiếng từ trước đến giờ đó, chú Hai!
Cha tôi nhếch mép cười. Còn tôi, nghe ông nói cái hạng nhứt của trường tôi không bằng cái hạng mười lăm của thằng Cứng, tôi phát ngẩn ngơ - Hạng nhứt còn thua hạng mười lăm mà tôi thì mới đứng có hạng ba, vậy là tôi thua thằng Cứng đứt đuôi rồi, còn gì! Thua ai thì tôi còn có thể tin, chớ thua thằng Cứng thì tôi không hiểu nổi!
Ai mà chẳng thương con. Nhưng mỗi người bộc lộ tình thương yêu của mình mỗi cách khác nhau. Kiểu binh con (thằng Cứng của ông) thật khó nghe.
Từ đó, tôi ghét ông. Ghét ra mặt. Trả thù theo lối trẻ con, gặp ông tôi không cúi đầu chào.
Năm 1946, tôi rời trường, theo bộ đội đi kháng chiến. Nghe đâu thằng Cứng cũng theo bộ đội. Nghe là nghe vậy, chớ tôi không để tâm và quên nó dễ dàng.
Mãi đến đầu năm 1954, tình cờ tôi nghe nói cơ quan nó cùng ở trên một con kinh với tôi. Lại nghe nói nó vừa đón bà già vô thăm. Bà già mang vô không biết bao nhiêu quà bánh, có cả thuốc bổ nữa. Đặc biệt có cái thơ của ông già. Thơ của ông có một đoạn độc đáo, độc đáo đến nỗi thằng bạn báo tin cho tôi vừa cười vừa đọc thuộc lòng. Thơ ông già dặn nó phải biết giữ ba không. Ba không - mà người kháng chiến đều hiểu là ba điều giữ bí mật: không biết, không nghe, không thấy. Còn cái ba không của ông già nó dạy lại khác. Thơ ổng dạy: “Con phải biết giữ ba không: không ngồi lâu, không đứng lâu, không nằm lâu, cái gì lâu cũng đều sinh ra bệnh tật...” Đúng là cái kiểu thương con của ông!
Tôi đến nó, buổi chiều gió mát, nó đang mở tiệc đãi bạn bè. Gặp tôi, nó mừng đến hét lên, nó sung sướng thật sự và ra mặt, nó ôm tôi, nó kéo tôi ngồi gần bên nó, nó giới thiệu với bạn bè:
- Thằng bạn học tôi hồi nhỏ - Nó giới thiệu thân ái mà trân trọng và xúc động, nó ôm cổ tôi, kéo mặt tôi sát vào mặt nó - Tao nhớ mày quá Năm. Gặp ai tao cũng hỏi thăm mày!
Đúng là tôi có nghe nó hỏi thăm tôi. Xúc động và vui miệng, nó vỗ vai tôi, nói với bạn bè:
- Hồi nhỏ ở nhà, tại nó mà tôi bị đòn muốn chết. Nó học giỏi còn tôi thì học dở. Tới kỳ xếp hạng, biết tôi đứng dưới nó là ông già tôi ổng rút roi ổng quất tôi. Rồi ổng vặn đồng hồ, bắt tôi thức từ bốn giờ để học. Ông bắt tôi phải học cho hơn nó. Mà tôi thì làm sao theo nó nổi, khổ sở hết sức. Có một lần ổng đánh tôi, đau quá, tôi mới mếu máo: “Kỳ này tôi học hơn thằng cồ” - Ổng dừng roi ổng hỏi: “Thằng cồ đứng hạng mấy?”. “Dạ thằng cồ học hạng chót!”. Cái roi của ổng cũng quất tôi nghe một cái trót.
Cả bọn chúng tôi đều bật cười. Thấy vậy nó càng vui.
- Lần nó thi đậu, tôi thì rớt, ổng nhốt tôi vô nhà tắm, ổng đánh tôi một trận bán sống bán chết, năm sáu ngày đít vẫn còn lằn roi. Má tôi can: “Ông ơi! Ông! Sao ông không lựa thằng nào khác bắt con nó thi thố, sao ông cứ nhè thằng Năm mà bắt nó thi thố hoài vậy, hở ông!”. Ba tôi trừng mắt - “Bắt nó thi thố thì bắt với đứa giỏi, lựa cái đứa không ra gì thì bắt nó thi thố cái nỗi gì?”. Tội nghiệp ông già, ông muốn cho tôi tiến bộ!
Nó cười, hai con mắt ươn ướt. Tôi và bạn bè ngồi im. Chuyện đang vui bỗng lắng xuống.
Bây giờ, tôi mới hiểu, thương nó quá!
Tập kết ra miền Bắc, tôi lại gặp nó. Từ Hải Phòng, nó về Hà Nội tìm thăm tôi. Khác hơn hồi còn bé, nó lanh lợi, bặt thiệp - Nó làm nghề vô tuyên điện, đang chỉ huy một giàn vô tuyến điện của đoàn tàu ra khơi. Nó từng làm việc với chuyên viên nước ngoài.
Nó với tôi, chỉ học đến lớp nhứt, tức lớp bốn cấp I bây giờ. Ra trường chỉ biết một vài tiếng Tây. Vậy mà bây giờ, đọc sách kỹ thuật, nó đọc toàn tiếng Pháp. Nó không nói được tiếng Pháp, cũng chưa đọc nổi tiểu thuyết, nhưng nó đọc được tất cả sách về ngành nghề của nó. Nó tự học và đọc một cách thiết thực. Và theo tôi được biết, theo bậc lương công nhân, bậc cao nhất là bậc bảy. Năm ấy toàn miền Bắc chỉ có ba người được bậc bảy, mà nó là một trong ba người, hơn trăm đồng mỗi tháng. Tôi không muốn đánh giá người, hiểu người qua bậc lương, nhưng ở nó, nó đạt đến đỉnh cao bằng sức lao động và sự cống hiến, thật xứng đáng - Tôi thầm khen nó.
Có lần nó viết thư rủ tôi về Hải Phòng chơi hè. Tôi về chơi với nó được nửa tháng. Trước khi về, theo thói quen và cũng là nguyên tắc, tôi đến quản lý thanh toán tiền cơm. Nghe vậy, nó bắt quản lý (cấp dưới của nó) mang tiền trả lại cho tôi và nó “sạt” tôi một trận.
- Mầy quên cái tánh chất Nam Bộ rồi hả? Lần sau mà còn như vậy, mày đừng có xuống tao nữa!
Thấy nó giận, tôi chẳng biết nói sao:
- Mầy! - Tôi chỉ biết chống chế có một tiếng “mầy”!
Rồi năm 1964, nó về Nam. Hai năm sau, tôi cũng về Nam. Cũng một chiến trường, nhưng không gặp lại nhau. Sau trận càn Jônsơn City (1967) từ chiến trường Tháp Mười trở về R, tôi nghe tin nó hy sinh.
Nhớ nó, ngẫm lại, thật lòng mà nói, qua những lần gặp gỡ, qua sự chăm sóc của nó, tôi thấy nó thương nó quý tôi hơn tôi thương quý nó.
Tôi lội rừng tìm cơ quan nó để hỏi xem đúng vậy hay tin đồn. Một nhân viên trong cơ quan nó kể lại với tôi. Nó là giám đốc xưởng. Trận càn ấy, một mũi của quân Mỹ dùi thẳng vô xưởng. Nó bị thương vì một mảnh pháo xuyên qua bụng. Sau khi băng bó cho nó xong, anh em định đưa nó đi, thì nó chồm dậy, nó lấy danh nghĩa là giám đốc nó ra lệnh, tất cả phải mang lựu đạn lại cho nó. Một mình, nó ở lại chặn giặc, còn tất cả phải bảo vệ máy móc đưa đi.
- Lịnh! Không bàn cãi!
Nó ngồi bên đống lựu đạn, một trái cầm sẵn trong tay, mắt nhìn về phía tiếng súng, nó hạ lệnh cuối cùng.
Năm 1965, nó gặp lại vợ một lần. Và trước lúc hy sinh, nó chưa được nhìn thấy mặt con.
Cứng! Người bạn cũ của tôi đã hy sinh! Bây giờ cô em gái của bạn đang ngồi trước mặt tôi.
- Tôi định sáng mai sẽ đi thăm bác.
- Dà! Thế nào anh cũng lại nhà em nghen anh. Nhưng mà khoan đã, anh đến nhằm lúc ông già em đang uống rượu thì khổ lắm. Thấy anh về, ổng tủi mà! Chừng nào ổng tỉnh táo, em sẽ chạy lại em mời anh. Thôi! Tới giờ rồi, em đi nghen anh!
Không phải mới đây, mà từ lâu, tôi đã hiểu, hiểu ông, tấm lòng của một người cha.
Tôi định bụng - ba mươi năm mới trở về làng, trong hai ngày phép, tôi để dành nhiều thời giờ sẽ đến thăm ông. Tôi sẽ kể lại sự trưởng thành của bạn tôi - thằng Cứng, con ông, sẽ kể lại tài năng và sự cống hiến của nó đối với Tổ quốc, sẽ kể lại tỉ mỉ về trận đánh oanh liệt của con ông, cùng lòng thương tiếc bạn bè đồng chí đối với đứa con yêu quý của ông. Và cuối cùng, cách nào đó, tôi sẽ nói, không phải khách sáo, cũng không phải an ủi lúc ông đang đau khổ, mà nói để ông tin vào tấm lòng chân thật của tôi rằng: “Bác Tám ơi! Thằng Cứng nó hơn cháu nhiều, nhiều lắm!”.
Ngày 28-1-1976