← Quay lại trang sách

Linh Đa

Đêm thứ bảy của một ngày qua cơn mưa, sau khi chạy rong ngoài đường phố, vì cần một nơi yên tĩnh để chuyện trò, chúng tôi vào một cái quán không có nữ chiêu đãi viên, một cái quán nhỏ bên đường dẫn vào những ngõ tắc và đang thưa khách. Cái bàn ngoài với năm bảy người khách không đủ gây ồn ào, những cái bàn dài đến tận trong thì trống rỗng. Chúng tôi ba người, chọn lấy cái bàn trong cùng, và tôi chọn lấy cái ghế ngồi ngó mong ra đường. Ấy cũng là thói quen của tôi, ở cái góc trong cùng ấy, tôi có thể nhìn bao quát cả cái quán và tiện thể dòm chừng chiếc xe Honda mới mua (dù đã khóa hết sức cẩn thận).

Nhưng sự yên tĩnh đến buồn tẻ của quán kéo dài không bao lâu, chúng tôi vừa cạn chai “33” thì có một chiếc xích lô đỗ lại trước cửa, và người bước xuống xe là một cô gái. Một cô gái ăn mặc đúng thời trang của Sài Gòn, và son phấn, với cái dáng đi uyển chuyển, cô bước vào quán. Cái không khí yên tĩnh đến buồn tẻ của quán lập tức bị thay đổi trước sự xuất hiện của cô. Bắt đầu là sự xôn xao của cái bàn bia ngoài cùng kia. Câu chuyện đang giòn giã của họ bỗng tắt ngang. Nhiều cái ghế bị kéo xoay lại, tất cả đều hướng về cô ta, có kẻ đứng hẳn lên, lối xối những tiếng chào; và một sự tình cờ đến kỳ lạ, cái băng nhạc nhẹ đang thâm trầm thì bỗng chuyển dậy với tiếng kèn clarinét ré lên - (tôi không hiểu là bản nhạc gì của nước nào). Như trong cảnh của cuốn phim nào đó, một dàn nhạc với tất cả nhạc sĩ của tấu lên để chào mừng cô công chúa bước lên cung.

Cô gái ấy, không kiêu hãnh cũng không khiêm nhường, cô không tỏ ra lạnh lùng trước vẻ xôn xao của những anh chàng tóc dài đến tận ót ở cái bàn ngoài, cũng không tỏ ra cợt nhả, cô khẽ nghiêng đầu cười đáp lễ, rồi ung dung bước hẳn vào. Qua cái vẻ chủ động của cô, tôi nghĩ cô là người chủ quán đi đâu mới về. Cô đang đi, như bị vấp phải một cái gì, hướng về cái bàn trong góc cùng của chúng tôi, cô khựng lại, không hiểu cô nhìn ai trong ba đứa chúng tôi mà đôi mắt mở tròn sững sờ. Rõ ràng cô đang xúc động, niềm xúc động của người chợt nhận ra một người thân. Cái nhìn sững sờ của cô khiến cho anh bạn trẻ của tôi - Hiệp, anh con trai ba mươi tuổi sống độc thân, đâm ra bối rối. Anh đưa ngón tay trỏ đỡ cái gọng kính cận lên cho vừa tầm mắt, anh nhìn cô gái, rồi nhìn sang hai đứa tôi, như muốn hỏi ai là người quen của cô.

Vẻ kinh ngạc đến sững sờ của cô gái lạ kia thoáng qua rất nhanh. Rõ là cô tự hiểu mình vừa nhìn lầm một người nào đó trong ba đứa tôi. Cô không bước tới nhưng cô nhìn lảng sang nơi khác, cô nhìn những chiếc ghế trống để tìm một chỗ ngồi. Trong lúc cô đang còn lưỡng lự tìm lấy cho mình một chỗ thì những anh chàng khách hàng ở cái bàn đầu đều đứng dậy, kéo sẵn một chiếc ghế và những bàn tay, cánh tay chìa ra - vẻ thân ái, vẻ trân trọng giả vờ, vẻ cợt nhả trêu đùa - mời cô đến. Và, cô bước đến. Cô kéo cái ghế ấy vào một góc cùng bàn với họ. Một cái vẫy tay, anh chạy bàn có hàng ria mép màu tơ chạy ra, vỏ chai trên bàn được dồn xuống một góc. Anh chạy bàn cũng trở nên chộn rộn, lăng xăng, chạy vào rồi chạy ra với mâm bia.

Hiệp - anh bạn trẻ của tôi có vẻ bực dọc vì người đẹp “của mình” đã bị kẻ khác phỗng tay trên. Anh không chịu nhường bước, anh gọi người chạy bàn đến, kêu thêm ba chai - chầu bia thứ hai, chứng tỏ anh chưa chịu rời khỏi quán.

Không để cho người chạy bàn phục vụ, anh tự rót bia lấy. - Bọt bia vung đầy tràn ra cốc, anh ngả người vào tường với tư thế nhìn ra cửa, để tiện dõi theo từng cử chỉ của cô gái. Rồi như phát hiện được điều mới lạ, anh quay lại hai đứa tôi, giọng thì thào:

- Con bé vừa quay lại nhìn bọn mình kìa.

Cái nhìn của cô gái lạ ấy nãy giờ như đốt cháy trái tim anh Yên - anh bạn đứng tuổi - vợ con đùm đề, anh có vẻ bình tĩnh hơn, những câu chuyện cuộc đời làm báo cái thời Mỹ ngụy, đang sôi nổi, anh không tiếp tục được nữa.

Còn tôi, tôi không phải là người không biết rung động trước vẻ đẹp của một người đàn bà. Tôi tỏ ra hững hờ vì tình cờ tôi đang gặp lại một kỷ niệm lớn hơn. Cái tiệm chụp hình ở phía bên kia đường kia, trong cái tủ trưng bày hình mẫu quảng cáo có tấm ảnh bán thân của thằng em tôi. Nó, tấm ảnh ghi lại hình ảnh của thằng con trai hai mươi hãy còn đó, nhưng nó thì đã chết rồi.

Từ nãy giờ, khi bất chợt gặp lại hình ảnh đó, tiếng đàn đại hồ cầm qua cái loa âm thanh nổi của quán này, tôi nghe như tiếng sóng vỗ về đêm của con sông quê hương.

Từ đó, tôi nhớ đến quê, nhớ đến hình ảnh nó. Mẹ tôi mất sớm - mất vì một cái hạch lao ở cổ, lúc nó vừa mới lên ba. Và ngày tôi ra đi - năm 1946 - suốt ba mươi năm trời tôi không hề gặp lại nó, dù là một lần. Tâm trí tôi, trái tim tôi, và lòng mong nhớ thằng em út, tôi chỉ còn giữ lại hình ảnh của một thằng nhỏ vừa mới lên sáu.

Một thằng nhỏ mồ côi mẹ kháu khỉnh, khôn ngoan. Một thằng nhỏ lùn lùn, thân hình liền lạc, và tròn tròn như hạt mít. Cả xóm đều khen một thằng nhỏ ngoan ngoãn dễ thương. Với nó, tôi chỉ còn giữ lại một hình ảnh cuối cùng. Ngày tôi ra đi, nóp mang lên vai, ôm nó vào lòng, tôi hủ hỉ:

- Lợi! Anh đi bộ đội em nhé! - Tôi nghĩ là nó sẽ ôm siết lấy cố tôi giữ lại, sẽ khóc òa lên. Nhưng không, hai cánh tay tròn múp míp của nó choàng lấy cổ tôi, nó hôn lên mái tóc tôi, nó bảo:

- Anh đi đi! - Và nó cười. Chính vì nó cười mà tôi không cầm được nước mắt.

Tôi và nó, có ngờ đâu, hai anh em không bao giờ gặp lại nữa!

Tôi theo bộ đội, vượt qua con sông Tiền, sông Hậu về miền Tây, suốt chín năm kháng chiến, tôi không có dịp trở lại làng. Rồi tập kết, tôi ra Bắc. Mùa xuân năm 1966, tôi vượt Trường Sơn trở về. Tôi được tin gia đình và biết được cuộc đời của nó. Sau ngày tôi đi, người chị kế của tôi (chị thứ tư) thay mẹ nuôi em. Nó theo chị đi ở nhiều nơi. Đến khi chị tôi đi lấy chồng, cha tôi gởi nó đi học nhiều nghề: thợ bạc, thợ mộc, thợ chụp hình, cuối cùng nó chọn lấy nghề in, nó trở thành công nhân kỹ thuật in màu vào loại giỏi. Tôi biết cái chỗ ở và nơi làm việc của nó ở Sài Gòn.

Gặp một người bạn quen - anh Tư Tân - chỉ huy đội Biệt động nội thành, tôi nhờ anh tìm nó, đưa giúp nó vào khu. Tôi gởi cho nó một tấm ảnh của tôi - chụp ở Hà Nội - để nó làm tin.

Không gặp mặt, nhưng hai anh em đã được tin nhau. Sau đó, không bao lâu, tôi nhận được thư của Tư Tân, báo cho tôi biết, nó không vào được. Nó là đứa em út, “giàu út ăn, khó út chịu”. Anh chị em tôi, ai cũng có gia đình, mỗi người có mỗi thân phận riêng, nó hãy còn độc thân, nó đi làm để nuôi cha tôi. Thế là tôi không gặp lại nó.

Cũng từ đó, tôi không nhận được tin nó, nhưng tôi yên tâm nó đã được sự giúp đỡ của Tư Tân. Đầu xuân năm 1972 tôi lại vượt Trường Sơn trở về Hà Nội.

Đứa con trai đầu lòng của tôi bắt đầu từ tuổi lên hai, càng ngày càng giông nó, cũng lùn lùn, cũng liền lạc, tròn tròn như hạt mít. Hàng ngày, hàng giờ, và hàng phút, ở cái tuổi lên ba ngày xưa, nó đến với tôi qua từng cử chỉ của đứa con tôi - tôi càng nhớ thương nó da diết.

Miền Nam được giải phóng, từ Hà Nội được trở về, tôi quyết tìm gặp mặt nó trong ngày đầu. Nhưng một tin sét đánh: nó chết rồi! Và cái chết của nó kỳ lạ và bí ẩn đến nỗi cả nhà tôi không sao hiểu được. Nhờ cái tài của anh thợ nhà in, nó toàn dùng giấy giả, nó không hề bị bắt lính. Thế mà khi nó chết, nó còn mặc nguyên bộ quần áo rằn ri trong nhà thương lính - Nó chết đã là một niềm đau đớn, lại chết trong màu áo của một thằng lính ngụy! Ba mươi năm! Ngày trở về, tôi chỉ còn gặp lại thằng em út qua những tấm ảnh! Và tôi chỉ còn nghe được những kỷ niệm về nó qua những câu chuyện của gia đình. Cha tôi kể, sau ngày tôi đi, cha tôi đưa nó tản cư vào Đồng Tháp. Một hôm, nó bị sốt, cha tôi bồng nó qua cây cầu khỉ. Nó chớp mắt nhìn cha rồi chu miệng hút gió, cha tôi hoảng sợ vì tưởng nó đang mê sảng, cha tôi hỏi:

- Con làm gì vậy con?

Năm ấy, nó lên bảy, nó đáp tỉnh khô:

- Con thấy cha buồn, con hút gió cho cha vui! - Nghe con nói, nước mắt của người cha trào ra, không ngăn nổi.

Chị tôi kể: Có một lần chị tôi cần đi đâu đó, không tiện dẫn em theo, chị tôi dỗ nó, cho nó mười đồng. Nó không bằng lòng, nhưng nó không nói. Chiều về, khi chị tôi hốt gạo nấu cơm thì chị thấy số tiền ấy nó để trong lu gạo:

- Nó trả lời chị bằng cái cách đó, em thấy nó có khôn không?

Đứa em gái thứ sáu của tôi kể về nó nhiều nhất. Nó là đứa em đẹp nhất nhà. Đẹp lại đào hoa. Chính đứa em thứ sáu cho tôi biết, ảnh của nó bây giờ cũng còn trưng bày trong các cửa tiệm chụp hình.

Từ ngày về Sài Gòn đến giờ, đây là lần thứ tư tôi bắt gặp được ảnh nó trong cửa hiệu. Ba tấm ảnh ở ba cửa hiệu khác, nhìn nó tôi không thích lắm. Ba tấm ảnh đó, nó chụp theo vẻ tài tử, nụ cười của nó có vẻ mơn trớn lả lơi, còn tấm ảnh này nó có vẻ chững chạc suy tư.

Ngồi trong quán này, nhìn nó, lòng tôi không còn có chỗ cho cái vẻ đẹp của cô gái kia, nên tôi hững hờ.

- Trời đất! - Hiệp, anh bạn trẻ vừa hớp một hớp bia, nghĩ gì, anh kêu - tất nhiên là kêu khẽ thôi - Tôi ở cái đất Sài Gòn này đã ba mươi năm, tôi chưa hề gặp một nhan sắc nào tuyệt trần đến như vậy!

Giọng anh lại sôi nổi trong hơi men, anh điểm tên tất cả các cô đào nổi tiếng ở đất Sài Gòn ngày cũ - đào chiếu bóng, cả đào cải lương - rồi đưa cái quả đấm đặt khẽ xuống bàn, khẳng định:

- Thua xa! Phải không anh Yên?

Yên - người bạn đứng tuổi của tôi gật đầu và tán thưởng “kỳ thì... ệt”.

Chầu bia thứ hai vừa cạn, Hiệp gọi thêm chầu thứ ba. Hiệp kéo tay anh chạy bàn cúi gầm xuống hỏi nhỏ:

- Cô ấy là ai vậy?

- Dạ, em chẳng biết.

- Cô ấy có thường tới đây không?

- Dạ, năm, bảy hôm cổ tới một lần.

- Cổ thường đi với ai?

- Dạ, cũng như đêm nay, một mình, cũng ngồi ở cái ghế trong góc đó.

- Tôi nhờ anh một chuyện. Anh lấy thêm một chai, mang sang bàn cô ấy, bảo với cô ấy là bàn bên chúng tôi mời cô một chai xã giao. Sau khi rót cho cô ấy xong, anh mang cả hai chai của cô sang qua đây, tôi trả. Anh nghe chưa?

Anh chạy bàn trù trừ, tỏ ra khó xử, nhưng anh bạn trẻ của tôi đã lanh tay móc ra tấm giấy một đồng nhét vào túi anh.

- Dạ, được! Để em lo - Anh ta ngả người chào, vụt bước vào trong.

Sợ xảy ra va chạm giữa khách hàng vì một cô gái, nên tâm trí tôi dứt ra khỏi hình ảnh của đứa em.

- Đừng làm vậy Hiệp! - Tôi bảo.

- Anh cứ để em! - Tôi biết, khi mà Hiệp xưng em với vẻ khiêm nhường, ấy là lúc bất cần của anh.

Quán bia thường hay xảy ra những rắc rối như vậy, nghe đã thấy phiền, huống chi là trong cuộc, tôi muốn tránh. Tôi muốn gọi anh chạy bàn lại bảo đừng, nhưng không kịp nữa. Anh ta đã mang chai bia đến với cô gái ấy rồi. Anh kề miệng nói vào tai cô gái ấy điều gì đó, và chai bia cũng đã rót vào cốc của cô ta. Trung thành với lời dặn của Hiệp, anh mang cả hai cái vỏ chai của cô đặt lên bàn chúng tôi. Và nguy hiểm hơn, cô xoay hẳn người về phía chúng tôi. Anh bạn trẻ của tôi liền cầm cốc đưa lên khỏi trán. Phía bên kia, tê nhị hơn, cái cốc trên tay cô cũng khẽ nhấc lên và một cái chớp mắt thay cho lời mời.

Anh bạn trẻ của tôi sướng ra mặt. Cốc bia đầy trong tay anh giựt xuống còn phân nửa, với vẻ chiến thắng hả hê, anh quay sang hai đứa tôi:

- Sở dĩ tôi dám mời cô là vì tự nãy giờ tôi đế ý thấy cô cứ nhìn qua cái bàn của chúng mình, kỳ hơn, là cứ nhìn ngay anh Năm.

- Đúng! Mình cũng đế ý thấy như vậy. - Yên - anh bạn đứng tuổi xác nhận.

Tự nhiên tôi giẫy lên:

- Tôi có gì mà người ta nhìn? - Tôi cười và chột dạ. Mãi đến lúc ấy tôi mới đế ý đến cô gái lạ kia. Trong khi đó, khách cùng bàn của cô như vừa phát giác ra một điều lạ. Hai cái vỏ chai của cô gái bị mất và cô thì hướng về một cái bàn khác, người khác. Họ vẫn ngồi đó, không nhúc nhích - như thừ ra vậy - và tất cả đều im lặng. Còn cô, cô ngồi đó, với chiếc áo hồng, với mái tóc, với khuôn mặt rực rỡ của cô, trong ánh đèn mờ ảo của quán, cô như một đóa hoa nở về đêm.

Tiếng kèn clarinét lựa vào lúc ấy lại ré lên, run rẩy.

Chuyện gì sẽ xảy ra sau sự im lặng nặng nề đến như nghẹt thở của cái bàn ngoài kia? Tôi lo ngại. Còn Hiệp, anh bạn trẻ của tôi thì ngả lưng vào tường, nghếch cái cặp kính cận nhìn về họ cười đắc thắng.

Bất thình lình, cả cái bàn ấy, họ bật đứng dậy. Họ gọi tính tiền. Biết là họ rút lui. Anh bạn Hiệp nhìn lại hai đứa tôi, nhướng mày, mủm mỉm cười.

Bàn bên ấy, sau khi trả tiền xong, một anh người to lớn đẫy đà rút một tấm giấy đỏ mười đồng, bước tới, cầm lấy cái vạt áo của cô kéo ra, cuộn tròn tấm giấy mười đồng đút vào ngực cô. Tôi nổi nóng vì cái cử chỉ trịch thượng của kẻ ỷ đồng tiền.

Họ ra xe. Sự bực bội của họ như đổ dồn vào tiếng máy. Năm chiếc xe Honda của họ cùng nổ máy rụ lên, rú dài xa mất...

Trong quán nước chỉ còn có ba đứa tôi với cô gái. Không cần phải nói, ai cũng biết là anh bạn trẻ của tôi sẽ tìm cách mời cô gái đến ngồi cùng bàn. Nhưng không đợi anh phải mời, cô tự đến với cái bàn của chúng tôi.

Người tỏ ra niềm nở với cô tưởng là Hiệp, nhưng không, người niềm nở với cô lại là Yên, người bạn đứng tuổi. Yên, anh bạn cao lêu nghêu của tôi vừa ngả người cúi xuống như một diễn viên vừa đưa tay kéo chiếc ghế.

- Hân hạnh được mời cô.

- Cám ơn ba anh.

Yên ngồi ở đầu bàn, Hiệp ngồi dựa vào tường, cô gái lạ ngồi giữa, phía bên này bàn, một mình tôi, và tôi ngồi đối diện với cô.

Hiệp gọi thêm chầu bia thứ tư, anh chạy bàn kể cũng điệu đời, anh lau bàn, dẹp hết cốc cũ, đưa ra bốn cái cốc mới, ý muốn nói: Đây chính chầu bia mở đầu.

Chầu bia mới được dọn ra, anh bạn Yên của tôi nãy giờ như lặng đi thì bây giờ anh lại nổi lên, với cái vẻ lịch thiệp của người đứng tuổi và trải đời, anh nâng cốc:

- Xin mừng cuộc tao ngộ kỳ lạ của chúng ta!

Anh chàng Hiệp không nói gì, anh tỏ niềm vui sướng của mình bằng cách nâng cốc lên khỏi đầu và cạn hết một hơi.

- Chúng tôi muốn được biết quý danh của cô.

Người hỏi cũng là anh bạn Yên của tôi.

- Tên em là Linh Đa!

- Linh Đa? - Anh bạn Hiệp lặp lại qua vẻ xúc động.

Linh Đa! Một cái tên nghe lạ tai - Linh và Đa, cả hai đều là tiếng Việt, nhưng hai tiếng ấy ghép lại thành tên thì nghe như tên của một cô gái nước ngoài nào đó, tận đâu đâu. Và cũng kỳ lạ thay, cái tên Linh Đa (lạ tai ấy) lại phù hợp với con người của cô. Bây giờ tôi mới nhìn rõ được cô gái tên Linh Đa ấy. Cô không đến nỗi tuyệt trần như sự trầm trồ của anh bạn, nhưng phải công nhận cô là một cô gái đẹp không phải ở đâu cũng tìm thấy. Cô khoảng hai mươi lăm tuổi, vẻ đẹp của cô không phải là vẻ đẹp tươi mát hay phơi phới của một cô gái chưa hiểu đời. Vẻ đẹp của cô, vẻ đẹp của người từng trải: kín đáo mà quyến rũ, vẻ đẹp thuần hậu gần gũi của Việt Nam, nhưng lại phảng phất vẻ xa lạ qua cách trang sức của cô. Đôi mắt đen nhưng ánh xanh qua lớp sơn màu trên khóe mắt, mũi dọc dừa, với đôi môi ướt mọng xinh xinh. Cô đeo sợi dây chuyền vàng, mặt sợi dây chuyền giấu sâu dưới làn áo.

Tôi để ý thấy Linh Đa hay nhìn tôi, nhìn thoáng qua nhưng rất sâu. Cái nhìn ấy có lúc như sững sờ, như kinh ngạc, như muốn tìm một nét quen thuộc nào đó trong tôi.

Cái nhìn khiến cho tôi xao xuyến.

- Linh Đa à? - Anh bạn Hiệp của tôi vừa như lặp lại vừa như gọi và anh kéo chiếc ghế xích lại gần, anh ngả người gần lại Linh Đa. Linh Đa né người, đưa hai tay chận lấy hai vai của anh - chận mà không sờ đụng.

- Xin anh ngồi lại chỗ cũ. - Giọng cô thỏ thẻ van xin - Em sang đây là muốn nói với các anh, xin anh đừng làm vậy!

Trước thái độ lịch thiệp và nhỏ nhẹ ấy, anh bạn tôi chỉ biết cười trừ. Cô trở lại ghế, và lại nhìn xoáy vào tôi, tôi thấy ái ngại và bồn chồn.

- Anh cho phép em được hỏi anh?

- Là bạn bè xin cô cứ tự nhiên. - Người trả lời không phải tôi mà Hiệp.

- Anh có phải là người ở Hà Nội mới về không?

Nghe cô đoán đúng, hai bạn tôi khoái chí đến mức không kìm được. Anh bạn Hiệp vừa vỗ đùi đánh bốp một cái vừa ngã người vào tường cười ngất. Còn Yên thì ngoản ngoẻn, kêu lên:

- Giỏi thật!

Lúc ấy hai bạn tôi như đứng về phía Linh Đa mà nói với tôi: “Anh xem người Sài Gòn chúng tôi tinh mắt chưa nào?”.

- Sao Linh Đa biết? - Tôi hỏi để bắt chuyện - Anh bạn Hiệp tôi trả lời thay cho Linh Đa “của anh”.

- Có gì đâu cha! Cái mái tóc ngắn của anh này, cái cổ áo của anh, rồi lại cái quần thùng thình của anh nữa, chỉ cần thấy thoáng anh ở ngoài đường, cũng biết anh là người Hà Nội rồi, có phải không Linh Đa? - Anh hỏi với vẻ tâng bốc, nịnh đầm.

Linh Đa cười, nụ cười hiền và quyến rũ:

- Không chỉ ở quần áo, nếu anh có ăn mặc như người Sài Gòn, y như hai anh, em cũng có thể nhận ra ngay.

- Thấy con gái Sài Gòn của chúng tôi chưa anh Năm? - Anh bạn Yên, cười ngoản ngoẻn và nhìn Linh Đa có vẻ khen ngợi.

- Gương mặt của anh đúng là gương mặt anh cán bộ, không trộn vào đâu được, phải không Linh Đa?

Tôi có cảm giác, cùng một lúc cô nhìn cả hai người ngồi bên cô:

- Biết nói với mấy anh thế nào bây giờ? - Cô lại nhìn xoáy vào tôi tò mò:

- Thưa anh, anh là người ở tỉnh nào?

- Tôi ở Long Xuyên.

- Long Xuyên! - Cô lặp lại và vẻ mặt của cô như tái đi rồi ửng đỏ, và cô thở dài.

Cô nhìn xuống, lặng im. Nghĩ gì, cô bật đứng dậy, bước vào quầy hàng như cô chủ, cô hỏi xin một tấm giấy (giấy tính tiền) mượn cây bút ghi nhanh mấy dòng gì đó, rồi bước lại ghế. Cô quay nhìn hai anh bạn Sài Gòn của tôi dò hỏi:

- Xin hai anh cho phép, hai anh cho em được gởi lại anh Năm tấm giấy nhỏ này.

Cô ngừng lại, ngực phập phồng:

- Xin anh Năm cho em một điều, và hai anh một điều, thưa có được không vậy?

- Là bạn bè cô cứ tự nhiên m.a... à! - Anh bạn Hiệp của tôi lại cợt nhả:

- Nếu được ba anh cho phép, xin anh Năm giữ lấy tờ giấy nhỏ này, về đến nhà hãy xem. Còn hai anh, thì xin hai anh đừng tò mò hỏi anh Năm. Em mong ước được như vậy, xin hai anh đừng giận em nhé!

- Cô thì dù có giết tôi, tôi cũng vui lòng - Anh bạn Hiệp trêu đùa.

Tôi không thể đoán hiểu nổi tâm trạng của Linh Đa khi cô trao cái tờ giấy nhỏ ấy cho tôi, cô nhìn tôi, như trao một cái gì đó quyết định cho cả một vận mệnh của cô, lồng ngực của cô căng lên phập phồng, môi run run và cả cái hơi thở của cô nữa, cô thở hồi hộp nặng nề.

- Cầm lấy đi anh Năm, lá thơ của người đẹp mà - Anh bạn Hiệp giục tôi.

Anh bạn Yên thì chặc lưỡi ngước đầu nháy mắt bảo tôi. Tôi có cảm tưởng như hai anh bạn của tôi đang hùa theo Linh Đa bày ra một trò đùa.

Thấy tôi đang lạ lùng và cười cười, Hiệp chộp lấy tờ giấy trên tay Linh Đa nhét vào túi tôi.

Linh Đa nhìn sang hai người cười và lại nhìn xoáy vào tôi, cái nhìn khiến tôi bồn chồn.

Xong một trò đùa, cả bốn người lại im lặng.

Cái âm thanh trầm của cây đại hồ cầm của một bản nhạc nào đó nổi lên, lan ra như một làn khói đục đang la đà dưới nền nhà.

Linh Đa thở dài, bất thình lình cô đứng dậy.

- Xin ba anh cho em về, khuya rồi.

- Ủa - Anh bạn Hiệp ngước cặp kính cận lên nhìn, ngạc nhiên - bia hãy còn đầy kia mà, chúng tôi sẽ đưa Linh Đa đến tận nhà.

Linh Đa nhũn nhặn:

- Cảm ơn ba anh! Cốc bia này xin anh uống cho em, em đang say.

Linh Đa cầm cốc bia khẽ chạm vào cốc của anh bạn Hiệp và đặt xuống mặt anh, và khẽ cúi chào cả ba đứa tôi. Cô quay ra, bước đi. Cô đi bất ngờ, vội vàng khiến cho hai anh bạn tôi như bị hẫng. Cô bỏ đi không một chút lưu luyến. Lạ lùng là hai anh bạn tôi lại hết sức tự nhiên, như không có điều gì đã gây ra sự tranh chấp giữa hai bên, đã gây ra sự xôn xao ít nhiều trong mỗi người. Có lẽ hai anh đã gặp những cô gái như vậy là sự thường. Hai anh không nhắc không hỏi gì cái giấy của Linh Đa gởi lại cho tôi. Như một trò đùa đã qua, không cần phải nhắc lại.

Còn tôi, tôi nhìn theo Linh Đa, cái dáng đi nhẹ nhàng và tha thướt của cô, cái giấy nhỏ trong túi áo như động đậy bên trái tim tôi.

Và bức ảnh của thằng em út tôi trong tủ kính bên kia đường, trong tư thế ngồi nghiêng, mắt nhìn theo chiều con đường Linh Đa ra đi, nó như đang dõi theo từng bước của Linh Đa trong đêm vắng. *

Tờ giấy nhỏ ấy, Linh Đa viết:

“Em ở đường... số nhà 20/32, 68B. Mong anh đến chơi. Em có thể nhìn lầm, anh tha thứ, đừng nghĩ xấu gì em, tội nghiệp”.

Chỉ có ở cái đất Sài Gòn này mới có thể xảy ra một cuộc gặp gỡ kỳ lạ đến như vậy! Tôi muốn xem như một trò đùa - trò đùa trong một cái quán bia, và muốn để nó ra ngoài ý nghĩ. Thế nhưng, hình ảnh của cô gái có cái tên nghe lạ tai là Linh Đa ấy, cùng với những cử chỉ và cái nhìn của cô đối với tôi, tôi thấy không yên. Càng muốn gạt đi, càng phải nghĩ tới, nghĩ với nhiều giả thuyết sai đúng trái ngược nhau. Cuối cùng, tôi quyết định tìm đến số nhà theo như trong giấy cô đã ghi.

Vẫn có sự dè dặt tối thiểu, tôi đi với một người bạn thân, một người bạn đã từng sống chết có nhau. Anh bạn tôi dừng xe lại ở đầu đường, tôi đi bộ vào ngõ. Số nhà với ba con sô hai lần “suyệt” như vậy, chứng tỏ là một ngôi nhà trong một cái ngách rất sâu. Dừng lại đầu đường, tôi theo một cái ngõ dài với những ngôi nhà nhỏ hơn, lại rẽ vào tay phải theo một hẻm hẹp hơn, một cái hẻm dài lồi lõm nhiều ổ gà với hai dãy nhà tôn; đến số 32, tôi lại rẽ vào tay trái, theo một cái hẻm dài như một cái đường mương, bùn đất lầy lội, nhà chen khít nhau, cái lồi cái lõm như đang xô lấn nhau tìm cuộc sống.

Đi tìm một cô gái trong cái hẻm này, tôi thấy ngượng. Tôi tưởng như những người hai bên đường đang nhìn mình với cặp mắt tò mò, dò hỏi, tôi muốn tháo trở ra, nhưng lại sợ người trong nhà sẽ nghi ngờ. Tôi cố hết sức tự nhiên, tôi cắm cúi đi như một người đã quen đường, thỉnh thoảng mới liếc nhìn xem số nhà. Số nhà hai bên hẻm có cả số mới và số cũ, thật rắc rối và tôi đã nhìn thấy con số 68B - con số của cái lầu gỗ lợp tôn thấp và bé nhỏ như chuồng chim. Một cái cầu thang từ cái cửa xanh cũ kỹ thòng xuống tận ra hẻm; một tờ giấy trắng với hàng chữ dán dài theo thành cầu: “Cầu thang cũ, xin nhẹ chân”.

Tôi đứng dưới cầu thang, nghe ngóng, ngại ngùng. Tôi phập phồng và rụt rè. Tôi muốn quay lộn ra, nhưng phía sau tôi có tiếng xe xích lô đang chạy tới. Để cho người đi xích lô thấy mình tự nhiên, tôi bước thẳng lên như người nhà. Cái cầu thang ọp ẹp, và ruỗng mục bắt tôi phải nhẹ chân! Tôi bước từng bước một. Chân tôi run hay cái cầu thang ọp ẹp này đang rung lên dưới sức nặng của tôi, chẳng biết nữa! Vừa ló lên bậc cửa, bất ngờ lại đến với tôi. Trên sàn nhà, một thằng nhỏ ba tuổi trần truồng da dẻ trắng toát, tóc vàng, trố hai con mắt xanh lè nhìn tôi.

Thấy nó, tôi giật mình và như bị ai nhát, tôi vội quay xuống, tôi không đủ bình tĩnh bước xuống từng bậc cầu nữa, từ trên giữa cầu thang, tôi phóng xuống mặt đường, vội vã với những bước dài, như chạy trốn.

Ra đến đầu ngõ, tôi thở hổn hển và xuất cả mồ hôi trán.

- Đi! Về tôi sẽ nói! - Tôi leo lên xe Honda, giục bạn nổ máy...

Đứa bé con lai ấy cứ ám ảnh tôi. Là một đứa bé vô tội đáng thương cần phải được chăm sóc và nuôi nấng trở nên người - Tôi nghĩ vậy, nhưng sự xuất hiện bất ngờ của nó lúc đó gợi lại cho tôi hình ảnh của kẻ thù, những thằng lính Mỹ. Kẻ bỏ chạy hãy còn để lại dấu vết của nó trong đời sống của chúng ta, còn để lại cái quá khứ tội lỗi của chúng trong hình hài của những đứa bé trong sáng ngây thơ. Nhìn những đứa bé ấy, ta yêu thương nhưng day dứt, xốn xang.

Đứa bé lai trong căn nhà ấy là con của Linh Đa chăng? Tim tôi bị nhói đau. Như không chịu nổi cái nhói đau ấy, một lần nữa, tôi lại gạt câu chuyện Linh Đa ra khỏi tâm trí tôi. Nhưng càng muốn gạt ra, nó càng đến, đến nhiều hơn, chẳng khác gì như ta đọc tiểu thuyết, vì chịu đựng không nổi cảnh ngộ éo le của một nhân vật nào đó, ta xếp nó lại, nhưng chính nó là sự hấp dẫn, cuốn ta đến trang cuối cùng.

Độ nửa tháng sau, Yên và Hiệp lại đến tôi chơi, hai anh kể, hai anh có gặp lại Linh Đa ở cái quán đó. Linh Đa nhắn với tôi, muốn gặp tôi ở cái chỗ mà Linh Đa đã hẹn.

Tôi lại đến cái ngõ hẻm ấy. Vì sao tôi không muốn tránh đi cho đỡ rắc rối mà lại đến? Có lẽ vì một linh cảm nào đó xui tôi, một linh cảm không thể nào giải thích nổi.

Lần này, tôi mang theo một gói kẹo của một người bạn Hà Nội gởi cho, tôi định bụng sẽ làm quà cho đứa bé lai ấy. Bước lên cầu thang, tay cầm gói kẹo, tưởng tượng đến sự vui mừng của nó, tôi thấy sung sướng.

Tôi bước lên sàn nhà. Đứa bé lai hôm ấy, tôi không nhìn thấy. Và Linh Đa đang ngồi đọc sách. Hẹn tôi đến, nhưng khi tôi đến thì cô giật mình. Cô bối rối khi tìm cho tôi một chỗ ngồi. Sàn gỗ được lau sạch, cô vẫn trải thêm chiếc chiếu.

- Nhà em không có gì, xin anh đừng chê.

Chiếc chiếu tã không sạch bằng cái sàn gỗ, nhưng dù sao cũng là cái để tỏ ra trân trọng đối với khách. Lầu cao nhưng mái lại thấp, đồ đạc chẳng có gì nên trông cũng rộng rãi. Ngôi nhà không xứng với vẻ đẹp lộng lẫy của cô hôm ấy và cả hôm nay. Và tôi đã hiểu thế nào là ngôi nhà ổ chuột của đất Sài Gòn, rác rưởi đường mương nước cống xông lên nồng nặc.

- Linh Đa ở đây với ai? - Tôi hỏi để làm quen cho những câu chuyện về sau.

- Dạ, nhà của một đứa bạn, em tạm trú với thằng con.

- Cháu đâu rồi?

- Em mới nhờ một đứa nhỏ bồng nó đi chơi...

Hôm nay, - buổi trưa này, ngồi trong nhà, không gắn mi giả, trông cô thật hơn, đẹp hơn và cũng gần gũi hơn cái đêm ở quán nước.

Cô mời tôi đến đây để làm gì? Tôi muốn hỏi, nhưng chưa biết sởi ra từ đâu. Những câu hỏi làm quen đã qua rồi. Tôi im lặng ngó mong và chờ đợi. Còn cô - cô đang mở đầu câu chuyện qua vẻ ái ngại và hồi hộp. Không muốn kéo dài cái không khí ái ngại của hai người, tôi lại hỏi:

- Em ở đây lâu chưa?

Tôi không ngờ, chính cái câu hỏi bâng quơ ấy lại đưa cô vào chuyện.

- Ở đây thì em mới ở, nhưng cái đất Sài Gòn này thì em ở lâu rồi, đã nếm trải đủ thứ mùi đời - Em chưa phải già, vậy mà nhiều khi em nghĩ là sao mình sống dai đến như vậy. Em có phải là gốc ở đây đâu. Em là người gốc ở Mỹ Tho, người nhà quê, bây giờ nhìn em, anh có tưởng được như vậy không? Một cuộc đời son phấn - Cô thở dài, vẻ chán chường.

- Sao em lại lên đây?

- Một điều không ai muốn. Em nhớ năm đó là năm sáu mươi lăm, em mới mười lăm. Nhằm mùa lúa, cả nhà em ra đồng sớm, cũng do cái số, mọi hôm, em phải ở nhà lo cơm nước, với giữ hai đứa em. Nhưng sáng hôm đó, ba em gọi em đi, phải thêm một tay gặt cho kịp mùa - Hai đứa em của em ngủ trong hầm núp, hầm nhà em chắc lắm - Một cái hầm nổi, anh biết cái hầm nổi ở Tháp Mười không?

- Em cứ nói đi.

- Cái hầm nổi không phải đào xuống đất mà đắp lên cao, làm vách, làm nắp, cái hầm của em ở ngay giữa nhà - Vách dày cỡ một sải tay nè nè, vách hầm bằng cây dừa rồi trát đất xung quanh. Dừa nó xốp, giữ được miểng bom, nắp hầm cũng vậy, cũng dày lắm, trên lót một bộ ngựa gõ. Ban ngày ngồi chơi trên bộ ngựa, tối thì rúc vô hầm. Trong hầm giăng một cái mùng đủ chứa cả sáu người, ba má với bốn chị em. Sáng hôm đó, em với ba má và đứa em trai em, gọi nhau ra đồng. Em nhớ là nhà em và cả xóm đi giăng giăng theo bờ mẫu. Có lẽ nhờ sương xuống lù mù nên trời được yên tĩnh. Chớ ở Tháp Mười, lúc nào mà không nghe tiếng máy bay, anh! Không phản lực thì cũng đầm già, không đầm già cũng trực thăng. Những buổi sớm dậy nấu cơm nhìn ra đồng em thường thấy những bầy trực thăng Mỹ vừa chớp đèn - tắt cháy tắt cháy - như một bầy đom đóm, quần đảo để dọn bãi đổ quân. Nghe hoài rồi cũng thành quen. Nhưng sáng hôm đó, yên tĩnh quá em đâm lo. Ba em đi trước, ngó ngoáy lại sau:

- Bữa nay sao yên lặng quá vậy hả?

Ba em vừa nói thì trên trời như có sấm chớp - Một cái lóe sáng - Những trái bom từ trên cao rít xuống nghe lạnh từ ót xuống tới lưng.

- Chết rồi, bom trộm!

Ba em vừa hét, chưa kịp nằm xuống thì tiếng nổ nghe “ùng ục”. Đất dưới chân em như đổ sụp, người em lắc qua như đứng trên võng vậy.

Một bựng khói dài theo kinh cuộn lên, đen sì. Cả xóm quay chạy trở vô. Bom nổ rồi mói nghe tiếng phản lực ào ào rít qua đầu.

Anh ơi! Mới đó mà không ai nhìn ra cái nhà của mình nữa. Một chùm bom trộm rơi ngay xóm. Nhà em là cái hố bom đìa. Cái hầm của nhà em chắc vậy nhưng không chịu nổi trái bom đìa. Hai đứa em nhỏ của em bị vùi sâu dưới hố rồi, không tìm được một nắm xương. Sân nhà em bên bờ kinh, bờ kinh bị sụp vỡ, em thấy nước kinh tràn vô đầy hố, bọt nước trào lên như bọt máu. Ba em không biết nghĩ gì nữa, cứ để cả quần áo nhào xuống lặn hụp như điên. Ba em cứ đưa hai tay cào quấu lấy bờ hố bom. Má em thì kêu trời kể lể:

- Các con ơi! Má muốn thấy mặt, muốn chôn con, tìm đâu ra con mà chôn mà cất các con hở các con...

Từ đó, số phận của cô, một cô gái nông thôn ở một làng kháng chiến, bị thay đổi từ quả bom trộm của một tên Mỹ nào đó bay trên trời cao ném xuống, quả bom giết chết hai đứa em của cô.

Qua lời kể của Linh Đa, khiến tôi nhớ lại những con kinh dài xuyên qua cánh đồng, những con kinh bị bom đạn Mỹ tàn phá đến xác xơ, một cái vạt tràm lấp thấp cũng bị bom napan Mỹ đốt trụi, bờ kinh lở lói hố bom và những bãi cỏ hoang trên những nền nhà trụi cháy.

- Buổi sáng hôm đó, sương chưa tan, một bầy trực thăng lại ầm ĩ bay tới. (Chuyện ấy đối với Linh Đa đã xa rồi, cô kể như kể một chuyện của một thời nào đó - Như cái thời trong kiếp trước của cô, thật xa, nhưng với tôi thì lại gần gũi vô cùng, như xảy ra trước mắt tôi).

Trực thăng một bầy, trời đất như sôi sục vì tiếng bay vì tiếng súng của bọn chúng. Chúng bắn rốc két xuống từng nhà, chúng rải đạn chiến vào khu vườn, chúng bắt loa kêu dân phải xuống xuồng bơi ra chợ Mỹ An - Vùng của bọn chúng đang chiếm đóng.

- Người ta không kịp lấy gì nữa - Linh Đa kể tiếp, một cái nồi cũng không kịp lấy, chỉ còn kịp lo thân sống, người nào lanh chân chạy ra khỏi vòng vây của nó, chui ẩn trong sậy đế giữa đồng thì thoát khỏi, người còn lại thì chỉ kịp nhảy xuống xuồng, kẻ bơi người chống. Người ta bơi người ta chống, còn bọn nó thì quần đảo, bắn thúc sau đít. Có người phải nhảy xuống, đẩy xuồng để chạy trước lằn đạn. Em cũng phải nhảy xuống, đẩy xuồng cho ba má. Em lội dưới nước mà như khô như cháy vì lửa hai bên bờ thổi táp qua lòng kinh...

Gia đình cô không dừng chân lại trên mảnh đất giữa rào kẽm gai của chợ Mỹ An, vì trái bom trộm giết chết hai đứa em, gia đình cô trốn chạy xa hơn - Gia đình cô kéo nhau lên tận đất Sài Gòn. Cái gì sẽ chờ đón cô ở cái đất nhiều nhà, nhiều khuôn mặt, nhiều quần nhiều áo, nhiều ánh đèn, nhiều xe, nhiều bụi này? Cô không thể nào lường trước được. Nhờ một người bà con ở xa giúp đỡ, gia đình cô dựng lên một mái nhà, nói đúng ra là một cái chòi trên khoảnh đất nhỏ ở Cầu Tre. Ba cô mướn một chiếc xích lô đi đưa khách, mẹ cô trồng một hàng trúc, lấy cành trúc uốn thành cần câu bán cho người nhiều tiền thích đi câu để giải trí, thằng em trai kế cô lo giúp chuyện lẩn quẩn trong nhà, còn cô, cô đi bán rau và bán trái cây ở các rạp hát.

Một ngày mưa to, mưa lầy lội trên các con đường đất đỏ xóm Cầu Tre, có một người con trai đi chiếc xe Honda, ghé vào nhà cô đụt nhờ. Trời đất rung ruổi thế nào, anh con trai đó không ghé đụt ở những nhà cao cửa rộng mà tạt qua nhà cô?

Hễ có một cơn mưa, nhà có cái gì gọi là quý thì được gom lại một chỗ, tấm ni lông phủ lên, còn cả nhà thì mỗi người một góc, đứng ru rú tránh mưa. Anh con trai đụt nhờ ấy cũng ru rú, và anh tiếp tay với ba cô chèn từng lỗ dột.

Tạnh mưa, anh ấy đi là một người qua đường. Bỗng một đêm, đang bán cóc trong rạp hát, cô bắt gặp anh con trai ấy ngồi ghế hạng nhất, thật sang trọng. Tự nhiên cô mắc cỡ, cô không dám bưng cái rổ cóc qua mặt người con trai đó, cũng không dám bưng cái rổ cóc đi len qua các hàng ghế sau lưng, cô sợ anh ta quay mặt nhìn lại. Thế là cô ôm cái rổ cóc vào lòng, ngồi thu lu trong một góc, xem hát.

Nhưng cô không tránh khỏi cặp mắt của người con trai sang trọng ngồi ở ghê hạng nhất đó. Vãn hát, người con trai ấy bắt gặp cô ở ngoài cửa, như một người anh đùa với cô em gái nhỏ, anh nắm lấy cái rổ cóc của cô:

- Nhớ cái bữa anh đụt mưa không?

- Dạ, quên - Cô trả lời nhưng làm sao quên được.

- Cóc chua hay cóc ngọt đây?

- Dạ, vừa chua vừa ngọt.

- Còn bao nhiêu, để anh mua hết cho.

Tưởng anh nói đùa, không ngờ anh cầm nguyên cái rổ cóc của cô, phân phát hết cho bạn bè và anh trả tiền mà không cần cô thối lại anh nữa. Cái anh đẹp trai mà sang trọng ấy tử tế quá! Cô thầm cám ớn anh trên đường về.

Rồi, không mấy hôm sau, vào một buổi chiều, anh ghé qua nhà cô, nhắc lại cái hôm đụt mưa, và làm quen với ba má cô, và nhận mình là người cùng xóm, nhà của người dì anh - một ngôi nhà hai tầng - ở cách đó không xa, thỉnh thoảng từ Sài Gòn anh hay về chơi. Rồi anh hứa sẽ tìm cho cô một công việc làm, vừa nhàn vừa có tiền lương, có thể đủ sống, khỏi phải đi buôn gánh bán bưng.

Nghe Linh Đa kể, tôi nghĩ là cô gặp phải một thằng “ma cô” để từ đó, cuộc đời cô kéo dài mãi cho đến nay.

Nhưng không, - như cô nói - cuộc đời cô hãy còn may mắn. Ở đất Sài Gòn người tốt không phải ít nhưng lại không dễ tìm, cái tuổi mười lăm mười sáu của cô, cô chưa phải là người tinh đời, nhưng linh cảm của cô cho biết, cô gặp một người tốt, một người đáng tin cậy.

Nhờ anh ấy mà cô được cái nghề đóng sách, cô đóng sách cho một nhà in quen của anh ấy. Cái nghề không thể làm giàu, nhưng sống được và lương thiện, hợp với con người của cô.

Đôi ba hôm, anh ấy lại đến thăm cô. Rồi tiện đường về chơi nhà của người dì, cô được ngồi trên chiếc Honda của anh về nhà - Anh ấy còn mang cho gia đình mấy tấm tôn lạnh để làm nhà. Nhờ những tấm tôn của anh mà nhà đỡ nóng, khỏi dột và trở nên ấm áp...

Một năm sau, và một năm sau nữa, năm cô lên mười bảy, vào một đêm rằm, sau một vài chén rượu, ba cô bắt ghế ra sân nhìn trăng, gọi cô ra, bảo:

- Nè, tao gả mày cho cái chú trai đó nghe con.

Nghe nói, cô giãy lên:

- Ai người ta thương con mà tía gả!

- Sao mày biết người ta không thương, nó nhờ bà dì nó đến nói chuyện với tao rồi.

- Không! Con không lấy chồng đầu.

- Tổ cha mày, người ta tử tế như vậy, mầy còn đòi gì nữa. Hay mầy thích mấy cái trò lố lăng của con gái ở đây? - Ba cô nổi nóng, cô không giận mà tức cười - Cái gì mà cô chờ đợi, cái ấy đang đến với cô đêm ấy, dưới ánh trăng. Anh ấy đã tỏ tình hợp với ý cô, thầm yêu và nhờ người lớn đến ngỏ lời với cha mẹ. Anh ấy đến vào cái tuổi dậy thì của cô. Là mối tình đầu, mối tình trong sáng thiêng liêng mà ai cũng đã qua - Mối tình trong mơ tưởng đầy hạnh phúc, mối tình không có chỗ cho khổ đau...

Linh Đa ngừng kể, và lại nhìn xoáy vào đôi mắt của tôi. Cô lại thỏ dài, cô đưa tay mở lấy cái khóa của sợi dây chuyền, cầm mặt dây chuyền đưa ra trước mắt tôi.

- Anh có quen người nào giống như người này không anh?

Mặt dây chuyền cô giấu sâu dưới làn áo không phải là mặt hột xoàn, mà là một tấm hình lồng trong kính, là một tấm ảnh nhỏ nhưng trông rõ mặt người. Khi nghe cô kể người con trai ấy có bà dì với ngôi nhà hai tầng ở Cầu Tre và câu chuyện của cô mà cô muốn kể với tôi, cái màn bí mật của cuộc gặp gỡ bất ngờ và cuộc đời cô đã hé mở ra trước mắt tôi, tôi đã đoán hiểu được phần nào. Nhưng khi nhìn tấm ảnh của đứa con trai thay cho mặt dây chuyền luôn luôn nằm trên lồng ngực của cô, tôi vẫn không khỏi bàng hoàng kinh ngạc. Mái tóc hơi dợn sóng, vầng trái nhỏ hơi dô xinh xắn mà ngang bướng, mũi thẳng, đôi môi mím chặt nghiêm nghị mà duyên dáng, đôi mắt sâu tròn đang nhìn ai đó tận đâu đâu, chính là thằng em út của tôi, chính tấm ảnh được trưng bày trong cửa hiệu đối diện với quán nước, tấm ảnh ấy được thu nhỏ lại, vẻ suy tư.

- Em nhớ có một lần anh út của em khoe với em tấm hình của anh chụp từ Hà Nội gởi về, anh bảo anh đang ở trong mật khu... Ngày Sài Gòn giải phóng, em đi tìm anh, nhưng biết anh ở đâu mà tìm. Đến lúc không còn nghĩ đến chuyện gặp anh, thì em lại gặp anh ở cái quán nước, đêm đó. Thấy anh, em nhận ra ngay.

Tôi tưởng khi Linh Đa kể đến người yêu, người yêu mà lúc nào cũng đeo nặng bên tim, cô sẽ khóc. Nhưng cô không khóc, có lẽ vì tôi đòi hỏi tình yêu của cô đối với em tôi nhiều quá, nên tôi cảm thấy bực bội lẫn xót xa. Và cô kể lại mối tình đầu của cô. Mối tình luôn luôn phập phồng và ngượng ngùng qua lời nói của một người từng trải đến chán chường.

Cô nhớ, đêm ấy, vào một đêm sắp sửa giao thừa năm một ngàn chín trăm sáu mươi tám. Hai người trên một chiếc Honda chạy rong khắp cả ngã đường. Người yêu của cô đưa cô về nhà riêng, một cái phòng nhỏ xinh đẹp nhiều hoa đầy rượu với một cái giường nệm êm. Đêm xuân trong ánh đèn mờ, trong tiếng nhạc êm đềm. Người con trai muốn đến với cô, nhưng cô muốn dành cái đẹp nhất của người con gái trong đêm cưới. Cô từ chối với lời hứa hẹn ngọt ngào.

- Em có ngờ đâu, đó là đêm cuối cùng của hai đứa em - Cô bật khóc, khóc nức nở.

Nước mắt cô đổ xuống như một cơn mưa của trời Sài Gòn. Trời đang nắng, một cơn mưa bỗng ụp xuống, ào ào rồi đột ngột tạnh hẳn đi, trời lại quang đãng.

Linh Đa lấy khăn lau nước mắt, nước mắt đã rửa sạch son phấn của cô, vẻ mặt thật với làn da mịn màng của cô sáng hẳn lên, và cũng gần gũi với tôi hơn.

- Ảnh chết, cuộc đời của em như hết! Hết một quãng đời. Những ngày Mậu Thân đó, xóm Cầu Tre bị bắn phá, ba em bị một trái bom nổ gần, hộc máu, phải chở đi nhà thương. Còn nhà em thì bị một chùm pháo của Bình Chánh chụp xuống, tan hoang. Đời em không còn gì nữa, hết!

- Tên cha mẹ đặt cho em là Đa, Nguyễn Thị Đa. Nhưng sau đó thì em không còn là con Đa nữa, - Đau khổ đến chai lạnh, cô ngồi đó đôi mắt vừa giàn giụa đó đã ráo hoảnh, vẻ lạ lùng và bằng lời văn của tiểu thuyết cũ, cô kể lại đời mình như kể lại cuộc đời của một ai đó mà cô rất thuộc.

Tiền! Tiền để chạy thuốc cho cha, tiền để dựng lại ngôi nhà. Cái gương trước mắt cô là một cô hàng xóm. Cô ấy có ra gì so với cô. Bằng cuộc đời son phấn của nó, nó đã tậu một cái nhà lầu, sân nhà là vườn hoa.

Không phải từng bước, bước đến hố, mà đổ sụp xuống, cô đổ trọn cả cuộc đời con gái của mình.

Ngày đầu bước vào “Sờ nách ba” dành cho lính Mỹ, người ta cười cái tên Đa nôm na của cô. Người chủ liền đặt cho cô một cái tên mới, thêm một tiếng Linh, Linh Đa. Cũng là Đa đó, nhưng Linh Đa đã khác với con Đa ngày xưa rồi! Trong tiếng nhạc âm u, dưới ánh đèn mờ, Linh Đa xuất hiện như một “bà chúa” đánh dạt hết cả bạn bè. Bọn Mỹ đua nhau mời cô uống, cô uống đến cạn túi của lính Mỹ, cô uống mà chẳng bao giờ say.

Một hôm, bà chủ “Sờ nách ba” rủ rỉ với cô:

- Má coi rồi, ở đây không có đứa nào bằng con. Con không nên phí. Đã phá thì phải phá cho đáng, nghe con. Để má lo!

Cô đến với một tên chủ hiệu buôn ở Chợ Lớn đang cần một cô gái trong trắng để xả xui. Cô có nghĩ đến vong linh của người yêu nhưng - như cô nói, đồng tiền khiến cô choáng váng.

Tiền mà cô thu được, cô đếm đến cóng cả mấy ngón tay. Cô đã có đủ những gì cô ao ước ban đầu: tiền thuốc cho cha và ngôi nhà. Nhưng cô không dừng lại, không quay về - như một người đánh bạc, ai cũng nghĩ nếu trận này mình thắng, mình sẽ lấy đó làm vốn và sẽ không bao giờ trở lại nữa. Nhưng trong đời có mấy ai có được sự nghiệp bắt đầu từ cái vốn của sòng bạc?

Cũng như những cô gái cùng nghề, cô bắt đầu chơi bài, được đồng nào đút vào sòng bạc đồng ấy. Đồng tiền qua tay không biết bao nhiêu, thế mà có hôm cô phải đi vay đi giựt để kiêm một bữa cơm chiều. Cô cần những thú vui thấp hèn để lấp vào nỗi đau khổ của cô.

- Ngày Sài Gòn giải phóng, ba má em với thằng em trở về quê. Em hứa em sẽ về sau, nhưng em cứ lần lữa. Em ra đến Xa Cảng hai lần, rồi em quay trở lại. Thất nghiệp, em nằm vùi một mình.

Yên tĩnh của nỗi cô đơn như tấm gương soi cả cuộc đời mình. Cuộc sống son phấn ngày cũ của cô không cho thời giờ để nghĩ, để nhớ đến một cái gì nữa, dù cái ấy thuộc vê bản thân. Bấy giờ cô mới nghĩ mới nhớ đến mình, nhớ đến con Đa ngày xưa, nhớ đến bạn trên con kinh dài của Tháp Mười.

Em nhớ đến anh út - có lần thằng Mỹ nó ghen với tấm hình của em đeo, em bảo với nó “mày không được ghen”...

- Em biết tại sao nó chết không? Không muốn nghe thêm chuyện của những thằng Mỹ, tôi hỏi cắt ngang.

- Nhớ ảnh, có lúc em giận ảnh. Em bảo với ảnh, anh đang tuổi bắt quân dịch, anh đừng đi ra ngoài đường. Hôm đó, đưa em về, ảnh đi đâu mà để tụi nó bắt, rồi chết...

- Không phải như vậy đâu!...

Tôi lắc đầu.

*

Ngày đầu gặp lại gia đình, nghe tin nó chết trong bộ quần áo rằn ri trong nhà thương lính, tôi đi tìm lại anh Tư Tân - người tôi đã gửi gắm nó cho anh.

Vừa nhận ra tôi, đôi mắt của Tư Tân rươm rướm - nhìn đôi mắt nhòa ướt của anh, tôi đoán hiểu được ý nghĩa cái chết của thằng em.

Sau khi nhận được ảnh và thơ của tôi, nó nhập vào đội biệt động của anh. Nó có một biệt tài làm thẻ căn cước giả. Nó cấp giấy cho tất cả anh em. Tư Tân kể với tôi, một hôm anh đi bằng cái thẻ căn cước giả của nó, qua trạm gác, anh bị giữ lại. Tình cờ thế nào tên quận trưởng đang có mặt ở trạm gác. Đúng cái tên quận mà thằng em tôi “ký thay” cho nó. Tư Tân cầm cái thẻ căn cước đến tên quận.

- Chính ông cấp, ông ký mà sao lính của ông nói là căn cước giả, ông xem lại coi.

Tên quận cầm thẻ căn cước, nhướng mày nhìn cái chữ ký của mình rồi ném trả lại:

- Đúng! Thôi, đi.

Cuộc đời chiến đấu của nó ngắn ngủi nhưng xứng đáng.

Mậu Thân năm 1968, chính nó khoác bộ đồ rằn ri giả ngụy, nổ phát súng đầu vào tên lính gác Đài phát thanh, mở cổng cho đội biệt động chiếm lĩnh trận địa.

Cùng với đồng đội, nó trụ lại đến phút cuối cùng khi được lệnh rút lui. Nó rút lui dưới làn đạn của trực thăng với một cánh tay phía bên trái bị gãy nát và nhiều máu.

Bị bao vây, anh em không thể đưa nó về hậu tuyến, sẵn bộ quần áo rằn ri ấy, nó được đưa vào nhà thương lính.

-Thiệt vậy hở anh?

Linh Đa nghe chuyện về cái chết của người yêu như nghe một chuyện xa lạ nào, cô hỏi lại với đôi mắt mở tròn và ngỡ ngàng. Rồi, từ đôi mắt mênh mông ấy bỗng trào lên, từng giọt nước mắt lăn ra, nối nhau chảy dài xuống đôi má.

Sau đó, tôi không còn gặp lại Linh Đa trong ngôi nhà ổ chuột ấy nữa. Tôi nhận được một lá thư từ quê cô gởi lên. Một lá thư dài:

- Nghe theo lời khuyên của anh, em đang lập lại cuộc đời em... Viết thư cho em đừng gọi em là Linh Đa nữa, gọi là Nguyễn Thị Đa như cái tên ngày xưa của em.

Lời lẽ rụt rè, Đa xin phép tôi được họa tấm hình nhỏ mà cô đeo trước ngực để đặt lên trang thờ - cô xin tôi “photocopi” cái bằng khen của em tôi. Thơ cô nói rõ, không phải để hưởng quyền lợi của một gia đình tử sĩ, mà để cho cô có được một chút an ủi. Mối tình đầu của cô, tuy chưa có ý thức, nhưng cô đã chọn đúng người để cô yêu, người đã hy sinh cho Tổ quốc.

20-8-1976