← Quay lại trang sách

Dấu Chân

Chờ cho thằng con thở đều, say giấc cô mới khẽ dịch xa con, vén mùng, rón rén bước ra. Đứng bên khung cửa sổ, cô vẹt cái màn hoa, nhìn ra con sông. Con sông Vàm Cỏ lấp lánh dưới ánh trăng. Cô nhìn bầu trời đêm dưới mặt sông, bầu trời đẹp trong đôi mắt thơ ngây của thằng con mới lên ba của cô.

Rồi cô rửa mặt cho tỉnh táo, đứng trước gương tủ, nghiêng đầu chải tóc. Tuổi hăm lăm, “gái một con”, cô thấy mình xinh xắn đầy đặn hơn hồi con gái, tự dưng, cô bẽn lẽn, cười một mình, rồi bước nhanh đến bàn soạn bài, bật ngọn đèn trong cái chụp vải hồng, mở ngăn tủ, lấy quyển sổ bìa da màu mận chín, dày cộm. Cô giở từ trang đầu, đọc lướt qua, cô dừng lại ở trang cuối.

“Ngày 15-12-1975 - hôm nay, mẹ cho con củ khoai, con cầm củ khoai bẻ làm đôi, cái xơ khoai lòi ra một cọng dài, con bật lên: “Má ơi! Xương!”.

Đọc đến đó, cô bật cười rung cả hai vai. Đúng là ngôn ngữ của nó, không ai có thể nói sai như nó được! Theo thói quen, trước khi viết, cô vuốt lại tóc, cầm bút, chấm vào lọ mực, rồi cô nhìn sững vào lọ hoa một hồi lâu.

Con yêu! Mẹ bị mất thói quen viết nhật ký hằng đêm cho con đã hơn năm, từ ngày hai mẹ con mình được về Nam và từ khi mẹ nhận lấy nhiệm vụ hiệu trưởng trường cấp hai của quận - quê nội con. Bao lần xúc động trước những cử chỉ ngộ nghĩnh theo từng bước đổi thay và trưởng thành của con, mẹ định viết, nhưng công việc bề bộn - phần thì ba con đang ở quân đội, ít khi về thăm hai mẹ con. Việc nhà chỉ có một mình mẹ, con lại hay nũng nịu quấy rầy, mẹ lại hẹn là để mai. Hôm sau, mẹ cũng lại hẹn, nhớ đó - và chắc chắn là mẹ không quên đâu con ạ! Để vào một dịp nào đó rỗi rãi, sẽ viết dồn lại một lần - cứ vậy mà ngày này qua ngày khác trôi đi.

Đêm nay, ngày 20-12-1976, con đã được bốn mươi mốt tháng rồi, con sắp lên bốn - lớn rồi đó, con có biết không, con yêu! Từ khi lên ba đến nay, mẹ để ý thấy, con bắt đầu “lý sự” và lắm lời. Con bắt đầu nói giọng Nam lơ lớ thật dễ thương, và không hiểu ai dạy con mà có lần con nói: “Má ơi, cà rem ngon dễ sợ”. “Dễ sợ” thốt ra từ cửa miệng của con mẹ nghe vui tai lạ! Cũng vì cái tính hay “lý sự”, hay hỏi của con, con có một câu hỏi mà mẹ không sao trả lời nổi, cũng không sao giải thích cho con hiểu, khiến mẹ bứt rứt, trăn trở không yên.

Con yêu! Con hãy nhớ, đó không phải là thắng cảnh, cũng không phải là nơi nghỉ mát, đó là cái doi đất, khúc quanh của con sông. Mẹ nghe kể, cái doi đất này vốn là một xóm vườn sát chợ quận. Trong một trận đánh, bọn Mỹ đã ném bom hủy diệt, nay chỉ còn là một cái doi đất xác xơ đầy hố bom, vừa mới có một vài ngôi nhà vách lá mái tranh dựng lại bên đường, bên mé sông. Mỗi chiều, ra cửa trường, đến nhà trẻ đón con, hai mẹ con đều đi ngang qua đây. Và chiều nào, mẹ cũng dừng xe, hai mẹ con ngồi hứng gió sông. Mé sông có hàng xoài bị bom, dân làng đã cưa sát đến gốc, nhiều người đến ngồi, cái gốc xoài phẳng lì và lên bóng như mặt ghế.

Lần đầu tiên được ngồi bên mé sông, con bật reo lên:

- Má ơi, có hai cái trời!

Mẹ chữa lại:

- Hai bầu trời chứ con! - Con không lập lại, mà ngồi yên, nhìn bầu trời dưới mặt sông.

Gần đó có một cây dừa lùn nhiều trái, mẹ hỏi con:

- Đố con trái gì đó?

Con mở tròn mắt, nhìn buồng dừa, ngẫm nghĩ một lúc, con mới bật nói:

- Trái ngon!

Mẹ không nhịn được cười, mẹ hôn con, dạy lại:

- Trái dừa!

- Không phải trái dừa! Trái ngon mà!

- Sao con lại cãi mẹ, đó là trái dừa.

- Trái ngon dừa! - Con lập lại, nhưng không chịu bỏ tiếng ngon, cố bám lấy cái tiếng của mình. Mới có ba tuổi, mà con đã bảo thủ rồi.

Rồi thấy gì lạ con cũng hỏi, hỏi đến lúc má bị bí, con cũng chưa chịu thôi.

Phía bên kia mương, bên một nền nhà cháy hãy còn một cây vú sữa. Một bầy chim xập xòa bay tới, tranh ăn và hót líu lo. Con hỏi:

- Má ơi, sao con chim không nói như mình, má?

- Tại cái lưỡi của nó nhỏ.

- Tại sao cái lưỡi nó nhỏ, má?

- Tại nó là chim.

- Tại sao nó là chim hở má?

Con hỏi vậy, mẹ biết trả lời sao với con! Mẹ không hiểu nổi hồi ba, hồi mẹ mới lên ba, ba và mẹ có hay hỏi như con không? Và những đứa trẻ khác nữa, chắc cũng như con, nhưng ở con, mẹ thấy có cái gì đó đặc biệt, chỉ có con của mẹ mới tò mò thông minh ngộ nghĩnh như vậy.

Những câu hỏi của con, có câu mẹ trả lời được và con hiểu, có câu mẹ biết con không hiểu nhưng mẹ vẫn nói, vẫn giải thích đến nơi đến chốn, có câu mẹ chỉ cười làm ngơ và lảng sang chuyện khác cho con quên. Còn câu hỏi ban chiều này của con, mẹ không thể làm ngơ.

Cách đây ba hôm, chiều đón con về, có bảy người, một ông già râu bạc, ba người đàn ông và ba cô gái chia nhau đào xới cái gì đó trong mảnh vườn hoang.

Trước khi ngồi chơi trên ghế gốc cây xoài, con hỏi mẹ:

- Má ơi, người ta làm gì vậy má?

- Người ta đào.

- Đào để làm gì vậy má?

Quả thực là mẹ không biết người ta đào cái gì, mẹ đoán chừng là những người chủ nhà mới hồi hương đang tìm lại đồ đạc đã chôn cất hoặc bị bom đạn vùi lấp đi. Mẹ nói:

- Người ta tìm vàng.

- Vàng là gì hở má?

Biết nói sao cho con hiểu được thế nào là vàng? Mẹ chỉ biết nói:

- Quý lắm con! - Mẹ nói cho qua. Nhưng con lại không “buông tha” cho mẹ.

- Sao lại quý hở má?

- Quý vì nó là vàng.

Con nhìn mẹ, là con trai mà hai hàng mi của con lại dài, cứ phơi phới. Con mở to mắt nhìn mẹ - đôi mắt trong suốt thơ ngây, và con cười.

Chiều hôm sau, đón con về, hai mẹ con lại đi ngang qua đó. Dừng xe, mẹ vừa dắt con ra chỗ hàng ghế gốc cây xoài, thì con quay lại và hỏi:

- Má ơi! Người ta đào gì mà đào hoài vậy má?

Hình như không bằng lòng với câu trả lời của ngày hôm qua, nên con vẫn tò mò muốn hiểu. Mẹ nhìn những người ấy, không như hôm qua, bảy người họ chia ra ba nơi cách xa, hì hục đào xới. Không hiểu họ đào gì, mẹ cũng muốn tò mò, nhưng cả ngày mới gặp lại con. Con có hiểu không, gặp lại con thì với mẹ, con là tất cả. Mỗi ngày, mẹ thấy ở con có một điều mới lạ, một cử chỉ hoặc một từ ngữ lạ thốt ra từ cửa miệng của con.

Nghe con hỏi, mẹ trả lời cho qua chuyện:

- Người ta đào vàng.

Rồi con lại hỏi vàng là cái gì, và mẹ cũng trả lời như hôm qua.

Chiều nay, khi hai mẹ con lại về qua đó, cũng những người ấy hôm qua, lom khom đào xới. Lạ lùng cho con, con cũng lại hỏi:

- Người ta đào gì mà đào hoài vậy?

Lần này, con hỏi với giọng sốt ruột, và quan tâm trong vẻ ngây ngô.

- Người ta đào vàng chớ có gì mà con hỏi hoài.

Vừa lúc đó, ở một chỗ hai người đang đào bên miệng hố bom, người đàn ông kêu lên:

- Đây rồi! Bác Bảy ơi!

Giọng cô gái reo to:

- Đúng, đây nè! Bác Bảy!

Mẹ thấy hai người, mỗi người một miếng như miếng gạch đưa lên. Năm người kia đang rải rác trên bãi hoang liền buông cuốc, buông xẻng chạy tới.

Thấy mọi người vui mừng, đổ xô lại, mẹ cũng bồng con chạy tới xem. Chẳng lẽ họ đào được hai cục vàng to đến vậy, không thì cũng cái gì đó quý lắm.

Bảy người xúm lại bên cái vật quý vừa đào được. Mẹ bồng con chạy đến sau, không muốn sấn sả tới gần, mẹ đứng ở sau họ, hơi xa.

- Cái gì vậy má? - Con hỏi.

- Vàng hở má?

- Ờ, - Mẹ ờ cho qua chuyện, để chú ý xem.

Cô gái và người đàn ông đào được, hai người lột lấy cái khăn buộc qua đầu, lau đi lau lại cái vật quý. Nhìn rõ, mẹ thấy đó là hai viên gạch. Đúng là hai viên gạch, gạch dùng để lót sân, hình chữ nhật, làm bằng đất sét, đem nung. Có gì mà họ phải tốn công tốn sức và vui mừng đến vậy! Mẹ bước lại gần hơn. Một người bảo:

- Đem xuống nước rửa cho sạch đất đi!

Một người đứng bên khoát tay:

- Không được! Lấy khăn ướt mà lau!

Rồi hai người lột khăn mình, đến mé hố bom, nhúng khăn, hai người lau đi lau lại thật cẩn thận.

Người đàn ông và cô gái, sau khi lau hai viên gạch hết đất trao cho người già nhất:

- Đây nè, bác Bảy, đúng rồi!

Bác Bảy, một ông lão độ hơn bảy mươi, nhưng hãy còn rắn rỏi, lão mặc quần đùi theo kiểu xưa dài đến tận gối, mình trần nhễ nhại mồ hôi, chòm râu bạc, đầu bịt khăn khấc, nhìn hai viên gạch hồi lâu, lão bỗng đưa bàn tay gầy guộc lên bụm mắt, khóc rưng rức. Thấy lạ, con hỏi mẹ nhưng mẹ không để ý đến câu hỏi của con. Mẹ bồng con, bước gần lại, đứng bên cạnh cô gái.

Ông lão khóc không lâu, ông lau nước mắt bằng hai ngón tay, ông cầm hai viên gạch, lật ngửa hai viên gạch trước mắt mọi người:

- Các cháu xem, - Giọng ông không nghẹn nhưng xúc động - đúng là dấu chân của chú Ba quận ủy.

Đến lúc ấy, mẹ mỏi nhìn thấy rõ, trên mặt của hai viên gạch còn hằn lại đường nét của hai bàn chân, dấu chân hằn xuống không sâu lắm - mẹ không thể nói chính xác là bao nhiêu ly - nhưng dấu chân hằn xuống hai viên gạch trông thật rõ. cả hình dáng của bàn chân: cái gót sau, các mép chân, mặt trước của bàn chân, và cả năm ngón. Không thật sâu, thật rõ nhưng mẹ hãy còn nhìn thấy những đường chỉ của bàn chân.

- Các cháu! - Ông Bảy nhìn người đứng chung quanh như nhìn một đàn con trước khi nói:

- Từ năm 1954 đến 1968, mười bốn năm. Ở đây, bao nhiêu người bị bắt, bị tù đày, bị bắn, bị đưa lên máy chém; bao nhiêu cơ sở bị đánh bật ra ngoài. Chú Ba, mười bốn năm vẫn đứng, vẫn trụ lại ở đất này để nắm quần chúng, dựng phong trào. Suốt bao nhiêu năm, từ 1954 đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, chỗ này, chợ quận này, mới thoát ra khỏi vòng kềm kẹp và rào kẽm gai của bọn chúng. Ban đêm, chú Ba đi hoạt động, chú tìm đến từng nhà, từng cơ sở. Ban ngày thì chú trở về hầm bí mật. Nhờ đó mà dù cho Mỹ có đổ quân, có xây căn cứ ở đất này, dân ở đây vẫn tin, ở đây, còn có chú Ba, còn có Cách mạng. Hôm chú đào hầm bí mật, chú đến hỏi bác xin hai viên gạch. Bác lựa hai viên gạch nguyên, chắc trước thềm nhà bác, bác cạy lên, trao cho chú. Xuống hầm bí mật, chú ngồi, chỉ ngồi thôi. Chú ngồi trên cái ghế, còn hai viên gạch này chú dùng để đặt hai bàn chân. Đất ở xứ này, cận sông, đào xuống, đất ẩm ướt lắm, chân mà để dưới đất lâu ngày, sẽ bị bịnh thấp.

Mười bốn năm, bác già, bác còn nhớ gì đến hai viên gạch? Mà có gì đáng để cho bác nhớ. Đến năm Mậu Thân 68, chú Ba thoát lên mặt hầm, làm chính ủy mặt trận cánh Nam đánh vào Sài Gòn. Chú đến nói với bác:

- Bác Bảy à! Lần này thì cháu thoát hầm bí mật. Nếu cháu không trở về, sau này, bác nhớ moi hầm của cháu, giữ hai viên gạch lại.

Nghe lời từ giã của chú, bác xót xa, bác cắt ngang rồi nạt chú:

- Miệng ăn mắm ăn muối, nói tầm phào!

Chú không giận mà cười:

- Hai viên gạch đó...

Bác không để chú nói hết lời, bác lại cắt:

- Mày tưởng tao tiếc hai viên gạch đó lắm sao Ba?

- Dạ, cháu không phải nói vậy, mà hồi nãy, trước khi lên hầm, cháu bấm đèn pin, cháu thấy, mười bốn năm, mà ngày nào cũng như ngày nào, cháu cũng đặt hai bàn chân lên hai viên gạch, nên hai viên gạch còn lại dấu vết của cháu...

Con yêu! Lúc mẹ nghe kể, mẹ nghĩ: Mười bốn năm, sức mạnh của thời gian trong đôi chân đã để lại hai viên gạch này: dấu chân, dấu chân người chiến sĩ cách mạng...

Ông lão thận trọng trao hai viên gạch lại cô gái. Mẹ biết, cô gái ấy là cán bộ tuyên huấn của quận, cô đang lãnh trách nhiệm xây nhà truyền thống.

Cô kéo chiếc khăn rằn đang đội gói lấy hai viên gạch.

Lúc đó, trên tay mẹ, con cứ nhìn theo hai viên gạch được gói trong chiếc khăn, mắt con tò mò, thơ ngây.

Con hỏi:

- Má ơi, vàng đó hở má?

Xúc động, mẹ cúi hôn con:

- Không phải, nhưng quý hơn vàng con à!

- Sao lại quý hơn vàng hở má?

Con chưa hiểu vàng là gì thì làm sao giải thích cho con cái gì quý hơn vàng!

Chiều nay, mẹ đặt con ngồi trên chiếc ghế nhỏ trên xe, nhưng mẹ không lên xe chạy về mà mẹ dẫn xe đi bộ.

Hàng ngày, mẹ đưa con qua con đường này, xóm này, nhưng mẹ có hiểu gì đâu, mẹ đi qua một cách bàng quan, nếu không nói là phũ phàng. Chiều nay, mẹ muốn đi bộ, đi chậm, để nhìn lại từng bước trên con đường mình đang đi, và mẹ muốn nghe tiếng nói sâu xa của từng tấc đất. Cũng con đường này: cát và bụi, cũng cái xóm xác xơ bên sông, cũng buổi chiều êm đầy gió, nhưng với mẹ, chiều nay, quanh mẹ như đổi khác, gắn bó với mẹ hơn.

Về nhà, và cả buổi tối, con không nhắc lại câu hỏi, mẹ không thể làm ngơ. Mẹ muốn nói cho con hiểu vì sao hai viên gạch ấy quý hơn vàng.

Đêm nay, lúc con đang ngủ ngon, mẹ ngồi ghi lại câu chuyện ban chiều, trong quyển nhật ký dành riêng cho con. Lúc ấy mẹ không tiện hỏi chú Ba ra sao, tuổi tác và cuộc đời riêng của chú. Nhìn qua hai dấu chân còn hằn sâu trên hai viên gạch, mẹ đoán chú Ba là người tầm thước, hơi gầy, cũng bình thường như bao nhiêu chú bác mà con gặp hàng ngày, và ngay cả tên của chú cũng bình thường, lấy thứ thay tên, cũng như bao nhiêu chú Ba, chú Tư, chú Năm của con vậy. Nhưng chú có khác hơn, chú là một chiến sĩ cách mạng. Suốt cả cuộc đời chú và đến phút cuối, chú đã hy sinh cho mảnh đất này. Mảnh đất có con đường yên lành mà mỗi chiều hai mẹ con ta đi qua. Mẹ hy vọng đến ngày khôn lớn, đoạn nhật ký mà mẹ thức để ghi lại đêm nay, nhắc lại câu hỏi ngây thơ vào cái tuổi lên ba của con, và câu chuyện sẽ cho con hiểu dễ dàng, và câu chuyện sẽ nhắc con nhớ, không được quên, cuộc sống mà con được hưởng, ngôi trường con ngồi học, căn nhà con ở, cái ghế đá trong vườn hoa mà con ngồi, và từng tấc đường trên những bước con đi, đâu đâu, nơi nào cũng ẩn giấu xương máu của cha ông. Con hãy nhớ!

*

Viết xong, người mẹ thở dài, khoan khoái. Cô xếp quyển nhật ký, để vào tủ, tắt đèn, rón rén bước lại giường.

Nằm nghiêng người qua bên con, áp mặt sát vào cái má bụ bẫm thơm thơm của con, cô thở đều, hai mẹ con ngủ ngon lành.

Bên ngoài, đêm yên tĩnh và huyền ảo dưới ánh trăng, dòng sông trong đêm khuya, con nước đổ xuôi dài theo hai rặng lá, gió lao xao.

HẾT