Người Con Đi Xa
Anh là người được bà con dòng họ, bạn bè và dân làng đón tiếp niềm nở nhất so với những người đi kháng chiến đã trở về thăm làng. Tấm lòng của dân làng đối với anh thật công bằng, vô tư không ai có thể ganh tị được. Vì anh là một trong những người đi sớm nhứt, đi từ ngày đầu năm 45, đi đến mút mùa của hai cuộc kháng chiến. Đi đúng ba mươi năm mới trở về và trở về với cương vị đại tá, đại tá Trần Tấn Đắc. Đã có lần anh xuất hiện trên vô tuyến truyền hình với bộ quân phục oai nghiêm và ngực đỏ huân chương trên hàng ghế chủ tịch đoàn ngày lễ lớn. Trong làng có một con người như vậy không hãnh diện sao được? Và tất nhiên với cương vị của anh, dù không muốn, ngày trở về, anh không thể giống như những anh em đồng chí khác. Anh đã trở về với chiếc xe jeep cắm cờ đuôi nheo, một chiến sĩ lái xe cấp thượng sĩ với ba chiến sĩ bảo vệ - mà một số người trong làng còn gọi theo tiếng cũ là “gạcđờco”.
Chiếc xe vừa đỗ lại trước cửa nhà thì mấy đứa trẻ nhỏ trong xóm chạy túa ra, báo tin với giọng đắc thắng reo hò.
Không mấy chốc mà người làng trên xóm dưới lần lượt kéo đến thăm anh. Anh không còn là đứa con riêng của gia đình anh nữa. Bước đến cửa nhà, cha anh buông cái bào xuống miếng ván ông đang bào dở, gỡ cái kiếng lão ra khỏi sống mũi, vừa nhận ra anh: “Mày đó hở Đắc?” thì bà con đã kéo tới rồi. Hai cha con chưa kịp mừng, anh chưa nói với cha những lời của ba mươi năm, thì đã phải loay hoay tìm ghế mời khách.
Nhà anh, ngôi nhà nhỏ bên sông. Ghế không đủ, bà con ngồi lên giường, lên chõng, chõng, giường cũng không đủ chỗ. Bà con kéo nhau ra sân. Cái sân chưa kịp quét, cái sân râm mát dưới bóng cây xoài, con nít cứ ngồi bẹp dưới đất, người lớn thì ngồi chồm hổm. Bà con ngồi đầy cả sân, không thể đếm được bao nhiêu. Chắc có đến hơn một trăm vừa lớn vừa nhỏ. Bà con muốn anh ngồi lên chiếc ghế cao để mọi người được thấy mặt. Nhưng anh không dám, anh chỉ ngồi cao hơn một chút trên một khúc gỗ trước bậc thềm nhà. Những chiếc ghế trong nhà mang ra (anh ngồi trên một khúc gỗ như vậy, mình ngồi trên chiếc ghế sao được), người này nhường cho người kia, nhường qua nhường lại mãi cuối cùng mấy cái ghế bị bỏ không.
Người có đủ tư cách ngồi trên ghế, cao hơn mọi người mà không thấy ngượng, hoặc cũng không ai trách hoặc chướng mắt là ông Sáu Học, thân sinh của anh, nhưng ông cũng không ngồi. Ông Sáu là một ông lão người dong dỏng và rắn rỏi, da hãy còn thẳng, chỉ có mái tóc bạc trắng với chòm râu dài là đúng với cái tuổi của ông, hơn bảy mươi. Ông mặc quần đùi, áo bà ba bị đứt mất nhiều nút, mà nếu còn nút ông cũng không gài - ông ngồi bẹp dưới đất, cạnh bên con. Nhìn ông, người ta thấy ông để lại cái tuổi cường tráng của mình qua hình ảnh của đồng chí đại tá: tóc rậm, trán cao, mày rậm mũi thẳng và đôi mắt, tròng đen rất đen, tròng trắng rất trắng, đôi mắt sáng và nghiêm trang.
Đại tá Trần Tấn Đắc - với cương vị của mình, anh đã từng đứng trước ba quân, thế mà bây giờ ngồi trước mặt bà con hàng xóm anh cảm thấy bối rối. Bối rối vì niềm vui trong anh đang nổi sóng, bối rối vì những câu hỏi thầm thì, vì những cặp mắt niềm nở của bà con đang đổ lại anh. Gặp lại anh, nhìn tận mắt anh, người nào cũng hớn hở vui lây. Nhờ có cha ngồi cạnh, anh đỡ lúng túng. Một người nào đó nói với anh mà anh chưa kịp nhận ra, không biết phải xưng hô thế nào cho phải thì anh đã nghe giọng thầm thào của cha khẽ nhắc bên tai anh:
- Chú Sáu thợ mộc.
- Chú Bảy tiệm may.
- Bác Chín xóm vườn.
Người nói được nhiều nhất là ông Hai Báo. Một ông lão vui tính, nhìn qua ông đã thấy vui rồi. Hơn sáu mươi tuổi, đầu hớt cua, râu cạo nhẵn, mắt hóm hỉnh, không ăn trầu nhưng lại xỉa thuốc, một bên mép lúc nào cũng có một cục thuốc tròn vo. Hồi chưa có xe Honda, ông là người đánh xe ngựa, và nổi tiếng với cái tài nấu thịt chó. Là người ở khít vách nhà của đại tá Trần Tấn Đắc. Thời thơ ấu của đại tá, đại tá thường được ông cho lên xe đi từ nhà đến trường và thỉnh thoảng được ông cho cầm dây cương.
- Này cháu Đắc - Ông đưa tay chỉ cây cầu sắt bắc ngang qua con kinh - cháu có còn nhớ cây cầu đó không?
- Dạ, nhớ chớ chú Hai!
Đó là cây cầu mà hàng ngày đại tá ôm cặp đi qua để đến trường.
Mọi người đều quay mặt nhìn lại cây cầu, có mấy đứa nhỏ trần truồng đứng trên lan can cầu hò hét thi nhau nhảy xuống nước. Bốn đứa, bốn kiểu nhảy khác nhau. Đứa cắm đầu lao xuống, đứa chưa quen thì cứ thẳng người mà nhảy, đứa lại đưa lưng ra khoảng không nhào ngược, đứa tinh nghịch hơn, vừa nhảy bung ra rồi từ từ ngồi xếp bằng và cứ cái thế xếp bằng ấy mà rơi xuống đánh đùng một cái, nước văng tung tóe. Đợi cho mọi người xem hết các kiểu nhảy của bốn đứa trần truồng kia, ông lại bắt đầu nói:
- Đó, hồi cháu đi cháu còn ở truồng nhồng nhỗng như mấy thằng nhỏ đó vậy, bây giờ thì - Với cặp mắt linh lợi ông nhìn lướt qua, rồi đưa tay chỉ một người đàn ông sồm sồm trên bốn mươi - tóc của cháu đã hoa râm như thằng ba kia! Vậy là bao nhiêu năm rồi cháu? - Ông đang vui với vẻ hóm hỉnh thì giọng ông bỗng xúc động nghẹn ngào.
- Dạ, đúng ba mươi năm!
- Từ ngày cháu đi, làng mình vì cái thằng Mỹ mà có người không đến được tuổi hai mươi. Vậy là cháu đi lâu hơn đời của một con người rồi đó - Giọng của ông hạ thấp, trầm trầm, rồi như biết mình đã làm cho cuộc vui bị lắng xuống, ông trở lại hóm hỉnh. - Bà con có ai biết trước khi chú ấy đi, tôi đãi chú món gì không?
- Nai nhà! - Một người nào đó vọt nói, khiến ông sướng đến ngửa mặt lên cười. Ông cười, cái cục thuốc xỉa rơi xuống qua cằm, lăn dài theo chiếc áo. Bắt đầu là mấy đứa nhỏ rồi đến người lớn, tiếng cười rộ lên theo tiếng cười của ông.
Thật ra hôm đó, cách đây đã ba mươi năm, ông có làm một con chó. Món xào lăn thơm phức khiến ông nhớ chú nhỏ hàng xóm dễ thương, ông bước ra sau hè, nheo một mắt gọi chú, và múc cho chú một chén đầy. Ông gọi chú vì lòng thương và tính thảo ăn, chứ lúc đó ông nào có biết là chú nhỏ ấy đi bộ đội. Bây giờ nhớ lại ông tưởng như đó là món ăn của buổi tiễn đưa. Lòng ông sung sướng chân thật, không ngượng ngùng. Niềm vui sướng của ông khiến cho một vài người thấy thèm khát được những kỷ niệm với người trở về.
Tiếp theo ông, có người tả lại cái ngày đầu kháng chiến của đại tá:
- Chú còn nhớ không? Buổi chiểu bộ đội hành quân, chú đi ngang qua nhà tôi, vai chú mang chiếc nóp, cái nóp bằng cái lưng của chú, chú bận quần cụt, hai bên hông đeo hai trái lựu đạn. Chú nhỏ nhứt nhưng chú đi đầu, phải hôn?
- Dạ, hồi đó cháu đi liên lạc, nên cháu phải đi trước dẫn đường.
- Phải.
Một người hỏi:
- Nghe nói cái trận chụp bót ở chợ là do chú dẫn bộ đội về?
- Dạ, vì hồi ở nhà, cháu cũng hay ra chợ nên cháu biết đường đi nước bước.
- Phải.
Một người nữa nói:
- Từ cái thời thằng Diệm đến thằng Thiệu, làng mình bị o ép dữ lắm. Nhà nào có người đi giải phóng nó bắt bớ, nó kèm kẹp, nó làm khó dễ, mà gia đình của chú lại yên, tụi nó không biết, kể cũng lạ.
- Có gì mà lạ? - Ông Hai lên tiếng giải thích, số người biết chú Đắc đây mà còn ở lại trong làng chẳng được bao nhiêu. Những thằng xấu đi làm Việt gian, cái đời của tụi nó không ăn được một chục giạ lúa thì bị trừng trị, không bị trừng trị thì cũng bị chết ở đầu đường xó chợ, cái đám sau này nổi lên nó có biết ai là ai. Số người tốt mà còn nhớ chú Đắc thì người ta giữ bí mật.
- Dà phải! - Người chị thứ hai của đại tá nãy giờ đứng ở bên cửa, chị lên tiếng. - Gia đình qua bao nhiêu trào mà được yên là nhờ bà con hàng xóm che chở bao bọc cho. Nói cho ngay, cũng có đứa còn nhớ em tôi. Thằng cảnh sát Tư đó. Có lần nó hỏi thẳng tôi: “- Nè, chị Hai, tôi nghe nói thằng Đắc em chị bây giờ làm tới đại tá Việt cộng phải không?”. Tôi hết hồn nhưng làm thinh: “- Chắc ai trùng tên với nó, nó mà được vậy thì nhà tôi thiệt có phước!”. Tôi nói vậy tưởng nó phật ý, không dè nó bảo: “- Nếu ảnh mà lên đại tá tôi cũng được thơm lây, bạn học của tôi mà!”. Xin nói thiệt là tôi không hiểu nó nghĩ gì, từ đó về sau gặp tôi, nó không hỏi câu nào nữa.
Rồi người ta thầm thì nói với nhau, nói với nhau, nhưng lại đưa mắt nhìn đại tá Đắc.
Một ông già hơn sáu mươi, nhưng hãy còn trẻ, mới thoáng nhìn tưởng chỉ đến năm mươi là cùng. Ông trẻ vì mái tóc hãy còn xanh, mới lấm tấm vài sợi bạc, da mặt còn thẳng và hồng hào. Thời trước ông là người có ăn có học. Lúc đại tá Đắc còn ở làng, làng anh duy nhất có ông đỗ tú tài. Ông tên Hải, dân làng quen gọi ông là tú tài Hải. Ông có một thời nổi tiếng trong làng báo. Thời oanh liệt của ông đã qua, nay ông trở về vườn với một bà vợ nhỏ - nhỏ hơn ông hàng ba mươi tuổi.
Lần đầu tiên dân làng thấy ông có vẻ khiêm nhường, ông không ngồi bẹp dưới đất như mọi người nhưng cũng không ngồi ghế, ông đứng dựa lưng vào cây xoài. Ông nói:
- Trong tình nghĩa người làng, cháu Đắc cho phép chú được gọi bằng cháu cho thân mật. Chú có một điều muốn hỏi cháu, nói cho đúng là chú muốn được hiểu cháu.
Mọi người quay lại nhìn ông, nghĩ rằng điều ông nói sẽ là một điều mắc mớ của một ông nhà báo.
- Chú hết sức tiếc là ngày trước chú không được biết cháu. Chú sống ở Sài Gòn, nhưng thỉnh thoảng cũng có về thăm làng, cũng có ghé qua nhà cháu. Phải nói cho thật lòng thì chú không hề biết là ba cháu đã có một đứa con đã ra đi. Nay nghe bà con kể lại thì cháu đi hồi còn nhỏ, nhỏ lắm. Chú muốn được hiểu là lúc đó, cháu đã nghĩ gì - Ông nhấn mạnh hai tiếng “nghĩ gì” - Cháu đã ra đi và dấn thân vào cuộc chiến cho đến ngày nay.
Câu hỏi của ông tú tài Hải như gợi đúng ý của mọi người. Có nhiều người không hề nghĩ sẽ hỏi anh điều đó, nhưng khi câu hỏi được đặt ra thì ai cũng thấy mình muốn biết. Người quan tâm đến câu hỏi ấy nhất chính là ông Sáu Học, thân sinh của đại tá.
Ông nhớ - ba mươi năm trước, buổi sáng hôm ấy, như mọi ngày ông dậy sớm. Đã đúng giờ đến trường theo lệ của con, nhưng ông không thấy con đâu, ông lên tiếng gọi. Không nghe tiếng trả lời, ông vào buồng, vẹt mùng, thấy có một người trùm mền. Ông tốc mền, nhưng không phải thằng Đắc đang nằm, thay vào đó là cái gối dài. Ông hốt hoảng. Đến lúc đó người chị thứ hai của nó mới nói:
- Thằng Đắc nó trốn theo bộ đội rồi, cha à!
- Sao nó không nói với tao?
- Nó nghĩ là cha không cho. Nó dặn con để nó đi xa rồi hãy nói với cha.
- Nó đi hồi nào?
- Nó đi từ đầu hôm.
- Nó có mang theo cái gì không?
- Dạ, nó chỉ mang theo hai bộ quần áo, một cái nóp với con cho nó mấy đồng.
- Con với cái! - Ông nói, không trách cũng không than, chỉ thấy mình bồi hồi.
Sau đó không bao lâu, độ nửa tháng gì đó nó lại quay về, thấy nó bước vô nhà, ông vừa mừng vừa giận.
- Mày chịu không nổi, mày trốn về đó hở Đắc?
- Dạ không.
- Không, sao vác mặt về?
- Dạ con chưa đúng tuổi. Mấy anh không cho con đi. Con năn nỉ, cuối cùng mấy ảnh bảo con về xin cha cái giấy của cha.
- Giấy gì?
- Giấy cam kết là cha đồng ý cho con đi. Để lỡ có bề gì mà hy sinh thì bộ đội không bị cha trách móc.
Té ra nó trở về là vậy.
- Giấy cam kết ấy ra làm sao, đâu?
- Dạ, con làm sẵn cho cha rồi, đây nè!
- Đọc cho tao nghe coi!
Con ông móc ra trong túi một tờ giấy nhỏ, đưa gần lại ngọn đèn - ông còn nhớ kỹ là đèn đĩa thắp bằng mỡ heo - nó đọc:
GIẤY CAM KẾT
Tôi ký tên dưới đây là Trần Văn Học, đồng ý cho con tôi là Trần Tấn Đắc, mười lăm tuổi, theo Vệ quốc đoàn, đánh giặc bảo vệ Tổ quốc. Giữa trận mạc, nếu vì làn tên mũi đạn mà con tôi có ngã gục, tôi sẽ tự hào có được đứa con vì Tổ quốc mà hy sinh, chứ không phiền trách ai.
Ngày 20-12- 1945
Người cam kết
TRẦN VĂN HỌC
Đọc xong, nó trao tờ cam kết ấy cho ông:
- Cha ký cho con đi cha!
Nếu cái tờ cam kết chỉ viết là bằng lòng cho con theo Vệ quốc đoàn thôi, rồi chấm hết thì ông ký rồi. Đằng này trong tờ cam kết lại có mấy câu dựng lên trước mắt ông, thằng nhỏ con ông mười lăm tuổi ngã gục xuống chiến trường, và theo trí tưởng tượng của ông, ngực con ông đẫm máu, bàn tay học trò nhỏ bé của nó đưa lên bụm lấy vết thương... Vợ ông mất sớm, nó là đứa con trai út của ông. Lòng ông xốn xang, hai con mắt cay cay.
Cha nhìn con dò hỏi, con nhìn cha chờ đợi. Cuối cùng ông hỏi:
- Con có thấy chữ ký của cha lần nào chưa?
- Dạ thấy.
- Con nhái chữ ký của cha được không?
- Dạ được.
- Vậy thì con ký tên cha trong tờ cam kết đó đi.
Vẻ mặt thằng con bỗng rạng rỡ, có vẻ gì như hí hửng nữa, ý như muốn nói, có vậy mà cũng không biết, phải mất công trở về. Ông nhìn con, đầu sát ngọn đèn, tay cầm cây viết đặt lên giấy, không một chút ngập ngừng hay rụt rè, quẹt một cái, nó ký xong, đưa cho ông xem. Chữ ký không giống lắm, nhưng thấy được tên ông và đẹp hơn chữ ký của ông.
- Được không cha?
- Được.
Nó vừa xếp tờ cam kết bỏ vào túi vừa cúi đầu:
- Thưa cha con đi!
- Mày đi liền bây giờ à? - Không hiểu sao, ông lại quát lên - Ở đây mai chị Hai mày làm một bữa bánh xèo rồi hẵng đi.
- Dạ, có mấy anh đang chờ con sau vườn.
Rồi nó cúi đầu:
- Cha, con đi! Chị Hai, em đi!
- Hai, con coi cái mặt hí hửng của nó kìa!
Vụt cái, nó quay ra cửa biến mất.
- Tổ cha nó, cái thằng! - Không phải giận mà là ông chửi yêu thằng con.
Có ngờ đâu, cái đêm nó quay về đó là cái đêm cuối cùng, biền biệt, nó theo bộ đội về U Minh và chiến đấu luôn ở miên Tây. Ngày tập kết nó có cho người đón ông xuống thăm. Đường xa lặn lội, ông đến nơi thì nó đã xuống tàu, đứng trên bến tập kết ông còn thấy con tàu màu trắng đang ra khơi.
Mỗi lần nhớ đến con, ông cứ ân hận sao lúc đó mình không cầm viết mà ký cho con nó vui, để sau này mỗi lần nhớ lại nó không bị day dứt. Và nhớ đến con, ông không sao hiểu được cái gì đã thôi thúc nó ra đi như vậy. Mới mười lăm tuổi đầu chớ có “lớn lao” gì cho cam. Nó hăng hái, nó dứt khoát, dứt khoát đến nỗi không biết gì đến lưu luyến, một nỗi buồn bịn rịn cũng không thoáng qua gương mặt nó.
Ông nhìn và lắng nghe con trả lời câu hỏi. Câu hỏi của ông tú tài Hải đối với Đắc thật bất ngờ, nhưng thật cũng đơn giản. Anh từ từ đứng dậy, ngước nhìn xéo về phía bên kia sông. Nơi anh nhìn, cột dây thép với đỉnh cao vọt lên khỏi rặng cây dưới nắng chiều, anh nói:
- Tôi nhớ, năm đó tôi còn nhỏ lắm. Nhưng sáng hôm đó, tôi nghe trong làng có điều khác lạ, nghe tiếng súng, thấy những chiếc xe ngựa giòn giã chạy trên đường, thấy nhiều người chạy đổ xuống bờ sông. Tôi chạy theo. Tôi thấy, hết sức lạ lùng, một lá cờ đỏ sao vàng, và không hiểu sao mà lá cờ lại bay phất phới trên lưng trời, giữa sông. Không thấy cột cờ cũng không thấy dây, mà lá cờ cứ bay bay giữa lưng trời như có phép tiên. Xung quanh ai cũng náo nức, chưa hiểu gì tôi cũng thấy vui lây. Đó là lá cờ Nam Kỳ khởi nghĩa năm 40. Rồi sau đó, bà con trong làng chắc còn nhớ, bọn lính từ tỉnh tới đốt nhà bắt bớ, nghe có người bị đày đi Côn Đảo. Lá cờ không còn, tôi thấy buồn. Còn nhỏ nhưng từ đó tôi chớm hiểu. Hiểu mình là dân nô lệ, dân bị mất nước. Và những người bị bắt là những nhà ái quốc, và lá cờ đỏ sao vàng là lá cờ của Tổ quốc...
Anh nói chưa hết lời, đang lúc anh dừng lại nghỉ hơi thì ông tú tài Hải bước tới một bước:
- Vậy là chú hiểu, chú hiểu vì sao cháu đã ra đi lúc còn niên thiếu, và chú hiểu vì sao cháu thành công. Cảm ơn cháu.
Vẻ xúc động, ông khẽ nghiêng mình cúi đầu chào ông đại tá, người cháu cùng làng.
*
* *
Khi mọi người ra về, chỉ còn người trong nhà, hai cha con ngồi lại bên nhau, ông Sáu hỏi con. Ông định bụng khi gặp lại con ông sẽ hỏi nhiều điều: nào chuyện dâu con, nào chuyện chiến đấu, nhưng những câu hỏi mà ông xếp đặt, ông không hỏi, mà hỏi câu khác chợt đến:
- Con có biết ai treo lá cờ đó không con?
- Da, lúc đó con còn nhỏ, con đâu có biết được, cha!
- Vậy thì lát nữa, con nên xuống xóm dệt, thăm ông Chín.
Vừa lúc đó thì chị Hai từ trong bếp bước ra. Ngày anh đi, chị anh mới mười tám, chưa lấy chồng, nay chị đã có cháu ngoại rồi. Từ trong đôi mắt, nụ cười của chị, anh tìm thấy lại hình ảnh của chị ngày xưa. Hình như đến lúc ấy chị mới được mừng thằng út, nước mắt chị giàn giụa:
- Chị định chiều nay làm heo mời bà con đến liên hoan.
- Đừng làm linh đình quá chị Hai!
- Cách đây mây năm, lúc cha đau nặng, chị có vái. Nếu cha mạnh khỏe gia đình sum họp thì chị sẽ cúng heo và cạo đầu. - Chị Hai nhìn em, cười ngượng ngùng, - Chị biết em không tin, chị cũng không tin nhưng chị đã vái thì chị phải giữ lời. Chị kéo chiếc khăn xuống khỏi đầu, để lộ mái tóc ngắn, uốn quăn sát đầu - Đầu thì chị mới cạo hôm giải phóng, bây giờ em về, chị phải cúng.
Đại tá Đắc nhìn chị, nhìn mái tóc ngắn, nhìn vẻ già nua, vừa tươi tỉnh vừa ngượng ngùng của chị mà không cầm được nước mắt.
- Em biết, năm đó, cha đau nặng lắm, tưởng không chờ em được.
Lúc đó, người anh rể của anh - tự nãy giờ đang bắt heo - bước ra nói với anh. Anh rể anh già trước tuổi nhưng anh vẫn còn giữ được vẻ trai tráng ngày xưa của một người con trai đẹp và khỏe mạnh. Tính cởi mở, chưa nói anh đã cười, cười với hàm răng sứt của anh.
- Nói chú Út nghe đừng giận. Năm cha đau nặng, cần phải đưa cha cấp cứu lên nhà thương tỉnh, nửa đêm, ở cái chợ làng của mình, làm gì có xe. Anh phải đi mời thằng trung úy đi nhậu, nhơn lúc nó ngà ngà say, anh hỏi mượn chiếc xe jeep của nó để đưa cha đi. Đem được chiếc xe jeep về, đậu trước sân, hai vợ chồng anh vô khiêng cha. Chú biết sao không? Biết là xe của ngụy, cha nhất định không đi. Anh chị năn nỉ mấy, cha cũng không chịu. Cuối cùng anh giở “con bài” cuối cùng để năn nỉ cha. “Cha không đi thì sau này chú Út về, chú làm sao gặp được mặt cha, hả cha?”. Vợ chồng anh vừa năn nỉ vừa khóc, cha cũng một mực không chịu. Bây giờ có cha đây, chú biết cha trả lời vợ chồng anh sao không? Cha nói: “Nếu tao mà qua khỏi cơn bệnh này té ra là tao nhờ chiếc xe của thằng ngụy, gặp lại thằng Út, tao còn mặt mũi nào mà nhìn nó. Nếu tao không qua khỏi thì cuối cái đời tao, tao lại chết trên chiếc xe của thằng ngụy hay sao? Chết như vậy, tao chết sao yên?” - Người anh rể quay lại:
- Phải không cha?
Ông Sáu đã hơn bảy mươi, vậy mà khi mắc cỡ, đôi má ông vẫn ửng hồng. Đôi môi của ông chúm chím, rồi ông làm bộ giận, nạt lớn:
- Tối rồi, đứng đó mà nhắc chuyện đời xưa! Vô bếp đi, để tao với thằng Út đi thăm chú Chín.
- Chú Chín nào cha? - Người anh rể hỏi.
- Chú Chín Đào chớ chú Chín nào!
Nói đoạn ông quơ lấy cái quần dài, xỏ vào, tay khoát chiếc áo lành, bước ra cửa!
*
* *
Đêm ấy Ban giám hiệu nhà trường ở làng được tin sáng mai đại tá Trần Tấn Đắc, sẽ đến thăm trường, ngôi trường anh đã học hồi còn ở làng. Anh giám hiệu cho họp các giáo viên, coi đó là danh dự của nhà trường, phân công cho nhau chuẩn bị, mỗi người một việc. Học sinh được tập trung tập dượt. Còn ông giáo vốn hay văn, được phân công đọc diễn văn thì ngồi bên bàn đến gà gáy mói xong.
Sáng hôm sau, một buổi sáng bình thường như bao nhiêu buổi sáng khác, nhưng ngôi trường chợ làng trông thật rực rỡ. Sân trường được quét sạch, nhà trường không kịp quét vôi nhưng lại sáng hẳn vì màu sắc của khẩu hiệu và cờ. Học sinh với đồng phục quần xanh, áo trắng, sạch sẽ, tinh tươm. Khác hơn cả là thầy cô và học trò, ai ai cũng hớn hở.
Chưa đến giờ, nhưng học sinh đã xếp thành hàng, chỉnh tề, mỗi em mỗi lá cờ cầm sẵn trong tay.
Xe đỗ lại cổng trường. Khách vừa bước xuống xe thì dàn nhạc (gồm có cây phong cầm, cây ghita, và cây măngđôlin) tấu lên bài: “Giải phóng miên Nam”. Khách đến thăm trường thì không chỉ có đại tá Trần Tấn Đắc, cùng đi với anh có ông Sáu Học thân sinh anh, ông Chín Đào, ông lão già nhứt làng, đã hơn tám mươi, mái tóc bạc như mây, lưng còng tay chống gậy, lụm cụm từng bước một.
Thêm hai ông lão khiến các thầy trò trong ban tổ chức đâm bối rối, người chạy ra nâng tay ông lão, người chạy vào lớp mang ra thêm hai chiếc ghế, để thêm bên bàn dài phủ vải trắng đặt giữa sân trường.
Hàng trăm cặp mắt niềm nở thơ ngây đổ dồn về đại tá Trần Tấn Đắc. Đại tá không khoe khoang cũng không xuề xòa, anh mặc quân phục màu cỏ úa, mũ lưỡi trai có đính sao, và ngực đỏ rực huân chương.
Nhạc nổi, cờ vẫy, tiếng vỗ tay reo hò kéo dài bắt đầu từ lúc khách bước vào cổng dẫn đến chỗ ngồi.
Đại tá Đắc, với cương vị của mình, anh đã từng duyệt qua những hàng quân, với những người lính đứng thẳng, trang nghiêm, anh chưa bao giờ thấy mình xúc động đến như thế. Tuổi thơ thường làm cho ta xúc động! Với những gương mặt sáng sủa, những lá cờ nhỏ trong những bàn tay bé bỏng, tiếng reo hò trong trẻo, những đôi mắt trong sáng. Anh đưa tay vẫy chào, miệng cười và nước mắt ứa trào ra.
Sau lời giới thiệu đến thầy chủ nhiệm đọc diễn văn. Thầy chủ nhiệm độ hơn ba mươi, người mảnh khảnh trong bộ “comlê” xám, cổ thắt cà vạt đỏ, thanh nhã và trang nghiêm, thầy bước đến cái bàn nhỏ trước “micro”, trịnh trọng chào khách.
- Kính thưa đại tá - Thầy phải đọc thêm một dòng mà trong bài diễn văn không có nên lúng túng - Kính thưa hai cụ, kính thưa các thầy các cô và các em thân mến...
Thầy chủ nhiệm có một người anh cùng lứa tuổi với đại tá và thuở thơ ấu cũng đã ngồi học ở trường này, anh cũng đi kháng chiến, nhưng đã hy sinh. Hôm nay chào mừng người chiến thắng trở về, thầy chạnh nhớ đến người anh, giọng thầy xúc động đến run run:
-... Ngôi trường này ngày xưa, đại tá và những chiến sĩ Cách mạng ở làng ta đã học, đã lớn lên và từ nhà trường này ra đi cứu nước. Nay chúng ta họp lại để đón chào người chiến thắng trở về.
Nhạc trỗi, cờ phất và tiếng reo hò nổi lên từng chập, từng đoạn theo bài diễn văn.
- Nhà trường của chúng ta ngày nay, nhà trường của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vô cùng hân hạnh, vô cùng sung sướng và hãnh diện được chào đón đại tá Trần Tấn Đắc, người chiến sĩ vinh quang của chúng ta...
Thầy cúi đầu chấm dứt, nhạc trỗi, cờ phất, và tiếng reo hò lại nổi lên tưng bừng.
Từ trong hàng ngũ của học sinh - đã chuẩn bị sẵn - một em gái tuổi mười hai, quần xanh áo trắng, thắt khăn quàng đỏ xinh xắn và hớn hở, em ôm một vòng hoa tách ra khỏi hàng, chạy thẳng đến đại tá, đứng thẳng, đưa tay chào. Nhìn cái vòng hoa nơi tay em, đại tá hiểu ý em, anh cúi thấp cho em tự tay đeo vòng hoa cho anh. Một vòng hoa tượng trưng bằng cánh hoa hồng vừa xinh vừa khéo. Như nghĩ là vòng hoa ấy không đủ nói được ý nghĩa của nhà trường, dọc theo vành hoa có một hàng chữ xanh rất đẹp: “Vòng hoa vinh quang”.
Chờ cho tiếng vỗ tay chấm dứt, đại tá mới nói. Anh đứng thẳng nhưng thoải mái và vẫn đeo “vòng hoa” trước ngực mình. Sau lời chào theo nghi lễ, với giọng hùng hồn và lưu loát, anh nói vì sao anh đi kháng chiến. Anh nhắc lại ngày đầu tiên được thấy lá cờ Tổ quốc, ngày Nam Kỳ khởi nghĩa năm 40. Với sự hiểu biết ngày nay và qua câu chuyện của ông Sáu kể lại buổi chiều gặp gỡ của hai cha con anh, anh nhắc lại chuyện ngày xưa, những ngày đen tối của người dân bị mất nước:
- Đêm ấy, một đảng viên Cộng sản vốn là người thợ nhuộm ở xóm dệt, người suốt đời cầm hai cái chày với hai canh tay khỏe mạnh, người đảng viên ấy trèo lên cột dây thép, tay ôm lá cờ của Tổ quốc. Lá cờ to như tấm đệm. Đến đỉnh cột dây thép, người thợ nhuộm ấy, căng lá cờ ra theo một cây gỗ nhỏ bằng đầu ngón tay cái, được vuốt tròn. Mỗi đầu có một cái khoen, hai cái khoen được mở ra móc vào sợi dây thép rồi được bóp lại. Đêm ấy là đêm tối, đêm tối trời cũng là đêm tối của đất nước. Người thợ nhuộm với thân mình vạm vỡ ấy, với cánh tay khỏe mạnh, người đảng viên phóng mạnh lá cờ bay ra. Cờ theo sợi dây thép căng qua bên sông, nương theo gió, lá cờ vừa phất vừa bay ra giữa dòng sông. Đến giữa sông, gặp nhiều chiều gió, lá cờ cứ dừng lại đó, tung bay. Lá cờ đỏ sao vàng ấy đã soi sáng và thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân trong làng ta.
- Các cháu thân mến. Sau đó, người đảng viên đó bị đày ra Côn Đảo. Mười lăm năm tù, sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí ấy trở về. Suốt chín năm kháng chiến chông Pháp đến cuộc kháng chiến chông Mỹ ngụy, vì sức yếu, đồng chí không lãnh trách nhiệm gì to tát nhưng vẫn một lòng trung kiên, làm những công việc vừa với sức mình, âm thầm không ai biết, đồng chí đã làm tròn nhiệm vụ đảng viên của mình.
Chính đồng chí ấy là người đã dạy cho tôi làm cách mạng, chính nhờ những đồng chí như người thợ nhuộm ấy mà chúng ta mới có ngày nay, ngày vinh quang của đất nước.
Đại tá Đắc dừng lại hồi lâu.
- Các cháu thân mến! Các cháu có biết người đảng viên thợ nhuộm ấy là ai không? Rất may mắn, đồng chí hãy còn sống để được nhìn cảnh đất nước ngày nay, và cũng may mắn, các cháu còn được nhìn, được gặp người gieo mầm cách mạng ở làng ta. Người đảng viên ấy chính là ông Chín đây!
Anh xoay qua, đỡ ông Chín giữa sự bất ngờ của học sinh và cô thầy, giữa những tràng vỗ tay nhiệt liệt nổi lên.
- Các cháu thân mến! Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây! Các cháu hãy cho phép chú được tặng vòng hoa vinh quang này lại cho ông Chín!
Giữa tiếng nô nức reo hò, cờ phất và nhạc trỗi, ông Sáu Học nhìn con mình đang nâng vòng hoa vinh quang ra khỏi đầu, đặt lại cho ông Chín, ông gật gù, cười hể hả.
15-12-1977