← Quay lại trang sách

Chương 4 Phán Quyết Cuối Cùng-37.-

Hạ Băng kích động đến độ buồn nôn, phải cố đè nén cảm xúc, đi về phía trước. Đỗ Xuân Hiểu theo sau, vịn vách tường, hễ đầu ngón tay có cảm giác khác thường liền giơ bùi nhùi soi kỹ hai vách trái phải. Hai người đều không nói năng gì, không phải không muốn nói, mà vì như bước vào núi vàng, ai nấy đều bị bí mật vừa bé mở hút chặt lấy, bận bịu với những tìm kiếm của riêng mình, nào còn kịp bảy tỏ cảm tưởng?

Lần này Đỗ Xuân Hiểu đã được đắc ý, vì sớm sinh nghi cái tủ quần áo sắp xếp quá đỗi ngăn nắp trong nhà Giản Chính Lương nên sau khi nạy cửa, cô chẳng buồn nghĩ ngợi nhiều định tiến thẳng đến đó. Hạ Băng lại cố chấp, cho rằng đa phần có thứ gì muốn cất muốn giấu, bảo đảm sẽ đào được từ ngoài sân, còn lấy bà nội anh mới mất năm kia ra làm ví dụ, chứng minh các hộ nghèo khó muốn cất giữ tiền bạc đều dựa vào một chữ "chôn". Trên thực tế, đây cũng là lời dạy của đội trưởng Lý trước kia, hễ đánh án muốn tìm chứng cứ gì quan trọng phải có thói quen "quật ba thước đất". Vì vậy phát hiên mật đạo trong tủ quần áo so ra thì chậm hơn phát hiện xác đội phó Kiều một chút, Đỗ Xuân Hiểu không ý kiến gì về cách làm của Hạ Băng, bởi cô nhớ dưới gốc cây hòe già trong sân vốn có khóm hoa mào gà đỏ tươi, lần này lại không thấy đâu nữa, lại thêm dưới đất không có đến một tấc cỏ, cảnh tượng so với lần trước tới khác biệt tương đối lớn, nên cũng đồng ý đào trước rồi tính.

Đúng như dự đoán, khi bàn tay bị thuốc lá hun vàng của đội phó Kiều lộ khỏi mặt đất, hai người mừng còn hơn cả sợ, đào xuống tiếp, xác định rõ thân phận người chết, bèn chuyển từ mừng thành sợ, rồi chuyển từ sợ thành mừng. Đặc biệt là Hạ Băng, còn buột miệng chửi:

"Đây chắc chắn là chuyện tốt Lý Thường Đăng làm!"

Bọn họ ngồi trước xác chết trong sân nghỉ một lúc, Đỗ Xuân Hiểu mới đề nghị tới tủ quần áo kia xem sao, chưa biết chừng lại có thể tìm được vài chứng cớ không ngờ. Kết quả vừa lục tìm, liền phát hiện ra một thế giới mới. Trong đầu Đỗ Xuân Hiểu lúc này đã có ngàn vạn giả thiết, nhưng cô vẫn không nói ra miệng. Vệt màu nâu ẩm ướt trên tường, cùng những tiếng dính lép nhép dưới gót chân khi bước qua bùn đất dường như chứng thực vài suy luận của cô. Bùi nhùi liếm qua không khí âm lạnh trong mật đạo, cô ngửi thấy mùi tanh quen thuộc, nhưng lại không nhớ ra mình từng ngửi thấy ở đâu. Bóng Hạ Băng như cây sào trúc lúc mờ lúc tỏ trước mắt cô theo ánh lửa, anh vẫn im lặng, nhưng là sự im lặng cực kỳ nóng nảy, ngàn vạn lời nói đã được thổ lộ qua mỗi động tác.

"Khụ!"

Cô không nhịn nổi bật ra tiếng ho, hy vọng có thể phá vỡ không khí tĩnh mịnh, ít nhất đôi bên có thể cùng trao đổi phát hiện của mình. Nào ngờ trên mọt sách liền quay đầu lại, giơ ngón tay trái lên môt "suỵt" một tiếng, tựa hồ biết nơi sâu hút trong mật đạo này đang ẩn nấp một con mạnh thú say ngủ, sợ cô làm ồn sẽ đánh thức nó dậy. Thế nên cô đành ngậm miệng, theo anh đi một đoạn đường rõ dài vẫn không tìm thấy lối ra. Sau khi đã dùng hết bốn nắm bùi nhùi, Hạ Băng rốt cuộc cũng hơi sốt ruột, quay đầu lại hỏi:

"Cậu bảo làm thế nào mới tìm được cửa ra?"

"Cửa ra?"

Đỗ Xuân Hiểu liếc xéo anh, đập mạnh vào vách tường bên cạnh mấy cái, liền thấy phát ra tiếng gỗ rỗng. Hạ băng bấy giờ mới để ý, thì ra giữa tường có cẩn một cánh cửa gỗ, kinh ngạc thốt lên:

"Sao lại có đường nhánh thế này?"

"Đâu chỉ có một đường này? Vừa rồi đi qua, hai bên đều có cửa như vậy, tôi tính sơ sơ cũng phải được hơn hai mươi cánh."

Cô ra sức đẩy cánh cửa chìm trong tường, cửa "kẹt" một tiếng mở ra, lại xuất hiện một lối đi bí mật khác, như thể dẫn đến một thế giới còn bí mật hơn.

"Vừa rồi sao không nói?"

Hạ Băng đẩy gọng kính trên sống mũi, khuôn mặt bị ánh lửa chiếu đỏ ửng. Đỗ Xuân Hiểu lập tức bắt chước điệu bộ anh vừa nãy, đưa ngón trỏ lên môi "suỵt" một tiếng. Anh bực bội lầm bầm câu "bụng dạ hẹp hòi", định bước vào cánh cửa ấy liền bị cô ngăn lại, nghiêm mặt nói:

"Chúng ta chỉ còn lại hai nắm bùi nhùi thôi, nếu còn rẽ mấy lối này e chỉ có đường đi không có đường về, hẵng cứ thẳng theo lộ tuyến cũ, quen với phương hướng tổng thể rồi hôm khác quay lại soát kỹ hơn cũng không muộn."

Hạ Băng thấy có lý, bèn đóng cửa lại, tiếp tục đi trước dò đường, giữa chừng Đỗ Xuân Hiểu hỏi mượn quyển sổ nhỏ và cây bút chì vẫn dùng để ghi chép, nguệch ngoạc gì đó bên trên, như đang ghi lại lộ tuyến. Anh thấy cô chăm chú như vậy bèn cười nói:

"Chỗ này ngoằn ngoèo, lại còn ở dưới đất, cậu làm sao vẽ rõ đường được? Thà đem bài ra bói xem cửa ra nằm ở đâu còn có ích hơn."

"Cậu đừng có quản tôi!"

Cô rút ra một điếu Hoàng Tuệ Như, ngậm vào miệng, ghé lại nắm bùi nhùi anh cầm trong tay, rít một hơi, bộ dạng ngang ngược nhưng cũng rất đáng yêu. Anh nhìn thấy thế, lòng chợt dâng lên một cảm giác dịu dàng.

Nhà họ Hoàng trên dưới đều chìm trong u ám, tuy người chết cũng chỉ là người hầu, nhưng chuyện lại xảy ra ngay đêm trước ngày tế tổ, không tốt lành đã đành, ngay bếp trưởng vừa thuê về cũng bị nghi là hung thủ giải đến đội cảnh sát thẩm vấn, ảnh hưởng trực tiếp đến đội cảnh sát thẩm vấn, ảnh hưởng trực tiếp tới bữa tiệc xa hoa Mạnh Trác Dao dày công lên kế hoạch. Bà ta vốn định bấm bụng bảo vệ Thi Vinh Sinh, nào ngờ người ta lại tìm ra trong phòng ngủ của hắn có hai gói vây cá bị mất, cùng một số nguyên liệu quý giá vụn vặt khác, chứng cứ rành rành khiến bà ta chẳng thể xoay trời chuyển đất.

Mạnh Trác Dao nóng lòng như lửa đốt, còn vì bà ta hiểu rõ việc làm ăn nhà họ Hoàng sở dĩ thuận lợi, công lao phần lớn đều phải quy về tiệc rượu sau mỗi bận tế tổ hằng năm, không những lôi kéo quan hệ, mà còn tỏ rõ khí phái cũng như tài lực hùng hậu. Khổ nỗi hiện giờ tình hình đã loạn càng thêm loạn, yến tiệc e không làm nổi nữa, mấy tay phụ bếp trong nhà đều không đủ sức cáng đáng cục diện khiến bà ta mặt khổ mày chau, nhìn đâu cũng không thuận mắt, chốc chốc lại kiếm cớ giáo huấn người hầu, cứ như nhím xù lông.

Hoàng Thiên Minh sau khi biết chuyện liền nổi trận lôi đình, một mặt nói cần tức tốc giao Thi Vinh Sinh cho đội cảnh sát nghiêm trị, một mặt có ý trách móc Mạnh Trác Dao, nói bà ta ngay một tên đầu bếp cũng quản không nổi, để xảy ra những chuyện này. Mạnh Trác Dao tức đến phát khóc, nói lại:

"Lần này lại trách tôi cơ đấy, cũng không nghĩ xem mấy tay đầu bếp ấy là do ai mời về, người sau thủ đoạn còn độc ác hơn người trước."

Hoàng Thiên minh không nén nổi cơn giận, cho Mạnh Trác Dao một cái bạt tai ngay trước mặt đám người ăn kẻ ở, vợ chồng từ đó hoàn toàn trở mặt, không ai để ý đến ai nữa. Mạnh Trác Doa vừa định đi thì Đỗ Lượng bước vào, hỏi đệm quỳ trong Phật đường có mấy cái bị rách, có cần thay mới hay không, bà ta nhân câu này bèn nói:

"Các người ai nấy đều mù rồi sao? Những chuyện này nào do ta làm chủ được? Từ nay về sau chớ tới tìm ta, đi mà tìm mấy người giỏi giang ấy!"

Đỗ Lượng thấy tình hình không ổn, bèn lui ra ngoài. Ông giờ một mặt phải việc tế tổ, một mặt lại bận thu xếp tang sự của chị Quế, đã sức cùng lực kiệt, nào còn màng tới chuyện nịnh nọt mấy vị chủ nhân. Vừa tới lầu sách liền thấy Hoàng Mộng Thanh đang ngồi dưới hòn giả sơn đọc sách, ông ta bèn chào hỏi qua quýt rồi định đi luôn, nào ngờ bị cô ta kéo lại, hỏi chuyện tế tổ. Vẻ âu sầu buồn bực của Đỗ Lượng đã quá rõ ràng, huống hồ Hoàng mộng Thanh còn thấy mái tóc húi của của ông ta bạc đi ít nhiều, mới chỉ một tháng mà ông ta già nhanh như mười năm vậy, tựa hồ bị cướp sạch thanh xuân chảy trên người.

"Lão Đỗ, thật vất vả cho chú quá, chị Quế không có người thân, hai ông bà già ở quê lại chẳng làm nổi việc gì, chỉ có thể dựa vào chú thôi. Vốn dĩ là lúc này, cha cháu phải cho chú nghỉ phép mấy ngày, nhưng giờ đang đúng thời khắc quan trọng..."

Đến đây, cô không sao nói tiếp nổi nữa. Đỗ Lượng đành kể qua sự thể lão gia và bà Cả cãi vã, Hoàng Mộng Thanh cũng hiểu được tâm bệnh của ông, vội an ủi:

"Chỉ là chuyện mấy bàn rượu thôi mà, đâu cần phải sầu não đến mức này? Đợi lát cháu qua Hương Bảo trai một chuyến, thương lượng với ông chủ Tiền đặt mười bàn ở đấy, thực đơn theo chúng ta, bếp núc nguyên liệu đều sẵn có, ông ta đâu thể từ chối vụ làm ăn hời thế được?"

Một lời như vén mây mù, khiến Đỗ Lượng không kìm nổi cảm thán:

"Vẫn là cô Cả nghĩ chu đáo, tôi đi làm ngay đây."

Vừa dợm bước đã bị Hoàng mộng Thanh giữ lại:

"Lão Đỗ à, chuyện vừa nói cứ để cháu giải quyết, chú đâu có ba đầu sáu tay, sao lo lắm chuyện thế được? Chú hẵng đi làm việc khác đi."

Ông ta ngàn lần đội ơn lập tức đi ngay, Hoàng Mộng Thanh cũng về phòng thay quần áo, đi thẳng đến Hương Bảo trai. Đợi đến khi cô bàn bạc xong xuôi thực đơn giá tiền với ông chủ bên ấy, quay về Phật đường tìm Đỗ Lượng, thì nơi ấy đã thành ra long trời lở đất. Tô Xảo mai đang chỉ tay năm ngón sai khiến Đỗ Lượng, mấy người hầu quét dọn Phật đường đều cúi gằm mặt làm việc, tiếng chổi "roèn roẹt" quẹt trên mặt sàn như biểu thị đôi chút phẫn nộ. Hoàng Mộng Thanh đã hiểu ra vài phần, song vẫn coi như không biết, bước đến chào hỏi Tô Xảo Mai, cười nói:

"Mẹ Hai sao cũng ra đây thế này?"

"Còn chẳng phải vì mẹ con tự nhiên bỏ sạp, cũng phải có người đứng ra coi sóc chứ."

Tô Xảo mai nói giọng tuy miễn cưỡng, nhưng nét mặt lại vênh vang tự đắc, người nào có mắt đều trông ra niềm phấn khích của bà ta. Hoàng Mộng Thanh thấy lo thay cho Đỗ Lượng, tổng quản đổi hết người này đến người kia, lại đều là mấy người hiếu thắng làm chủ kiến, việc đầu tiên sau khi tiếp quản chính là lật đổ tuốt tuột mọi sắp đặt của tiền nhiệm, hòng mau chóng xây dựng uy tín, mấy chuyện nhọc người hao tài này chỉ khổ đám người hầu kẻ ở.

"Đúng là không phải, cuối cùng vẫn phải phiền đến mẹ Hai rồi."

Hoàng Mộng Thanh đành phụ họa, đồng thời len lén nháy mắt với Đỗ Lượng, ra ý chuyện Hương Bảo trai đã lo liệu ổn thỏa, Đỗ Lượng đáp lại bằng nụ cười cảm kích. Lúc này không hiểu có kẻ hầu trong góc nào lẩm bẩm:

"Đừng có đến ngày tế tổ lại xảy ra án mạng nữa nhé."

Giọng nói tuy rất nhỏ, nhưng lại xuyên qua một loạt những tiếng "roẹt roẹt" bay đến tận tai từng người, Tô Xảo Mai và Hoàng Mộng Thanh cùng cứng đờ tại chỗ, đều giả vờ không nghe thấy, các thớ thịt trên mặt không sao nhúc nhích, lòng rối như tơ vò.

"Mạc Như dạo này thế nào? Đã nhớ ra chuyện gì chưa ạ?"

Câu hỏi này khiến Tô Xảo Mai không gắng gượng được nữa, vẻ ủ rũ lập tức hiện lên mặt, có thể thấy bệnh tình của con trai chính là gút thắt trong lòng bà ta. Đặc biệt Tiểu Nguyệt có bận còn bí hiểm tới tìm bà ta, chỉ hỏi bệnh điên của Trương Diểm Bình có lây được không. Bà ta dựng ngược lông mày nói:

"Vớ vẩn!"

Con a đầu đó bèn nghiêng đầu đáp:

"Thế thì lạ quá, cậu Cả hình như cũng hơi điên điên."

Bà ta liền cốc ngay cho nó một cú vào đầu, cảnh cáo tuyệt đối về sau không được phao tin đồn nhảm, Tiểu Nguyệt ôm cái trán đỏ tấy, ấm ức nói:

"Con mà nói bừa nói bậy cũng tuyệt đối không tìm bà chịu đánh. Bà có biết cậu Cả có lúc mặc đồ con gái, bôi son đỏ lòe ngồi thần trước gương không? Đã mấy lần dọa con không dám vào phòng rồi. Đấy chẳng phải điên thì là gì?"

Tô Xảo Mai nghe vậy mặt trắng bệch, vội túm lấy cổ tay Tiểu Nguyệt, nôn nóng nói:

"Giờ cậu Cả bị ngã dập đầu, thi thoảng thần trí không bình thường là điều đương nhiên, bác sĩ cũng nói bệnh này không đỡ nhanh được, cần phải tĩnh dưỡng. Hơn nữa, chưa biết chừng ngươi nhìn nhầm cũng nên. Vì vậy ngậm chặt miệng ngươi đấy, nếu để lộ ra bên ngoài chút gì, bị ta biết được thì cứ liệu hồn!"

Dứt lời còn cho Tiểu Nguyệt mấy đĩnh bạc, coi như vừa đấm vừa xoa. Tiểu Nguyệt là người thông minh, nhận đồ rồi vui vẻ ra về. Tô Xảo Mai thì trằn trọc mất ngủ, một là thương con trai, hai là sợ Hoàng Mạc Như nếu như điên thật thể nào cũng có ngày bị phát hiện, tới lúc đó nhỡ trọng trách kế thừa gia nghiệp rơi lên đầu thằng oắt ốm yếu dặt dẹo kia, hai mươi mấy năm bà ta chịu khổ chịu sở trong nhà họ Hoàng sẽ thành công cốc. Nghĩ đi nghĩ lại, đều thấy không cam lòng, còn hơi hối hận mình tự nghĩ ra trò dốc lòng tu phật, ngỡ rằng có thể tránh tai mắt người đời, nghĩ kế sách lật đổ Mạnh Trác Dao, chuyện Trương Diễm Bình bị ép phát điên cũng không thể đổ lên đầu bà ta. Nhưng sự thể lại phát triển vượt ngoài dự liệu, lúc này mà bà ta còn không đoạt lại quyền lực, e rằng sẽ thua trắng tay. Đang mưu tính vậy thì Phật tổ mở mắt, cho chuyện lớn như thế xảy ra trước mặt Mạnh Trác Dao, bà ta liền chớp lấy thời cơ này, leo lại lên ngôi. Đáng tiếc căn bệnh khó nói của con trai vẫn như mây mù xua không hết, dựa vào trực giác của phụ nữ, bà ta mơ hồ dự cảm còn một kiếp nạn lớn hơn nữa sẽ ứng nghiệm trên người Hoàng Mạc Như, có điều nghĩ mãi vẫn không tóm được tung tích nó. Thế nên đành đem dũng khí và dã tâm, vật lộn cùng mối nguy hiểm và sợ hãi chưa biết đó, đến nay thắng bại chưa phân, bà ta tuyệt đối không chịu cúi đầu. Tuy dùng những suy nghĩ này khích lệ bản thân, nhưng bà ta đã rất lâu không đi thăm con trai, sợ nhìn ra tiểu tiết gì khiến lòng bất an, nhỡ đâu lại nghệm chứng được phán đoán của mình, muôn đời không thể vực dậy thì biết làm sao? Bà Hai nhà họ Hoàng thông minh mạnh mẽ bèn đem hết những hoang mang chẳng lành ấy chôn kín trong lòng, chỉ đợi đến ngày có thể hoàn toàn thở phào nhẹ nhõm.

38.

"Quả nhiên là tươi mới."

Hoàng Mạc Như lẩm bẩm một mình. Ngọn đèn dầu trong tay đã leo lét như hạt đậu, chỉ có thể chiếu sáng cúc áo lụa trên người, cùng khoảnh đất bùn trơn ẩm dưới chân. Hắn thầm kêu khổ, sợ chỉ lát nữa thôi sẽ lại rơi vào tình cảnh tối tui tiến thoái lưỡng nan, đến lúc ấy có muốn quay lại cũng chẳng tìm nổi đường đi. Nhưng rốt cuộc vẫn có những thứ đặc biệt hấp dẫn hắn, khiến hắn không thể không tiến về phía trước, bất chấp hậu quả ra sao, có ra ngoài được hay không cũng không quan trọng, màn đêm trước mặt tựa hồ đang đợi hắn tiến lên xé toạc, như vậy, những đốm đen ngoan cố trong đầu hắn cũng sẽ bị gạt sạch. Chấp niệm ấy khiến Hoàng Mạc Như như trúng phải tà cứ thế đi tiếp về phía trước, từ sau khi bị thương, hắn chưa từng mê mẩn với bóng đêm thế này, chỉ hết lần này đến lần khác sực tỉnh từ cơn ác mộng bị nhốt trong tháp cao. Vì sợ mình sẽ không tìm được đường ra, cứ đi được mười bước hắn lại dùng ngón tay khoét một cái lỗ trên vách tường, như vậy lúc trở ra còn có thể lần theo những cái lỗ ấy mà tìm đường.

Mật đạo dưới lòng đất này hẳn thông với con sông trấn, nên không khí ẩm ướt, vách tường bị ngấm nước nhão nhoét, móng tay khoét vào rất dễ dàng, chẳng bao lâu, trong kẽ móng đã tích đầy đất bùn xanh lành lạnh. Sau khi khoét một đoạn đường, hắn sờ thấy một vật cứng khác hẳn vách tường đất, là gỗ! Lần mò kỹ hơn, gõ đập, mới xác nhận là một cánh cửa. Bỗng chốc, bên tai vang lên tiếng trẻ con vui đùa, hòa với tiếng chân nhanh nhẹn linh hoạt... trong đầu hắn chợt lóe lên một tia sét, sáng lóa, sắc lẹm, khiến toàn thân đau nhói.

"Đây có, kia cũng có!"

Hộp sọ tựa hồ bị bổ đôi, một giọng con trẻ xoay mòng trên đỉnh đầu, chỉ dẫn phương hướng cho hắn. Lúc này hắn đã lần tới móc sắt khóa cửa, gạt cái móc ra, nhè nhẹ đẩy vào, cánh cửa như thấu hiểu tâm ý hắn, lặng lẽ trượt qua nền đất ẩm, mở ra không một tiếng động. Lối rẽ trước mặt khiến hắn có chút thất vọng, vì không hề có phát hiện mới, vẫn là một màn đen kịt, mùi đất tanh nồng quen thuộc khiến người ta ngạt thở. Hắn do dự giây lát, nhìn đốm lửa nhỏ trong chao đèn rồi nghiến răng sải bước tiến vào. Không biết vì sao, hắn càng sốt ruột đi nhanh, vết thương trên đầu càng nhức nhối, như thôi thúc hắn mau mau hồi phục trí nhớ.

Tiếng bước chân khe khẽ, mang theo sát ý tàn nhẫn, như gai thép từng mũi từng mũi đâm vào sống lưng. Hắn vã mồ hôi lạnh, bỗng nhiên nhớ lại khoảnh khắc sau đầu bị giáng cho một cú thật mạnh, hắn bổ nhào xuống nền bụi bông, bên tai vang lên tiếng rầm mơ hồ. Vì vậy lần này hắn cảnh giác cao độ, chốc chốc lại ngoái ra sau, không hiểu sao cứ có cảm giác mình đã thuộc đường quen lối, có thể đi theo bất cứ hướng nào cũng không lạc. Song đối thủ nấp trong bóng tối dường như còn hiểu rõ hoàn cảnh hơn hắn, người đó không hề gây ra chút động tĩnh nào, nhưng lại để hắn biết có y tồn tại, đang tiến lại từ cách đó không ca, càng lúc càng gần, rồi lại dung hòa vào không khí, mắt thịt không thể nào nắm bắt.

Hoàng Mạc Như bắt đầu nôn nóng, bắt đầu sợ. Cây đèn dầu trong tay gần như đã không còn nhiệt lượng, vì hút quá nhiều khí ẩm xung quanh, viền ngoài ngọn lửa hơi xanh. Hắn vốn không phải người biết quan sát tỉ mỉ mà lúc này cũng ngửi ra mùi nguy hiểm, cảm giác đau đớn do không khí cắt lên da thịt cơ hồ khiến hắn tê dại, cánh tay khoét vào vách tường yếu ớt dần, lỗ càng khoét càng nhỏ, đến cuối cùng chính hắn cũng không chắc mình có thể lần nổi những dấu hiệu do mình tạo ra hay không.

Trong hoàn cảnh chật hẹp thế này, hắn không những mở to mắt mà còn dỏng tai, nên từ xa đã nghe thấy tiếng kim khi ma sát với một vật thô ráp nào đó, vốn là tiếng động khiến người ta ghê răng, giờ lại biến thành sởn tóc gáy, vì nó quá đỗi trong trẻo, vui tai. Hắn cố gắng kiềm chế hàng trăm tiếng hét mắc trong họng, tiếp tục bước tới, hễ sờ được cánh cửa gỗ ngầm nào liền mở ra, xem xem mình có nên bước vào hay không. Trong đầu có một cánh tay vô hình, đang chỉ dẫn phương hướng cho hắn, nên đi đâu, nên bỏ qua đâu, tựa hồ đều đã ghi sẵn.

Những âm thanh kim loại cọ vào vật thô ráp vẫn như hình với bóng, khiến mỗi khúc ngoặt phía trước hắn đều như một vòng tay nanh ác mở sẵn, hễ bước vào sẽ chết không nơi chôn! Vì vừa nghĩ vừa thấy kỳ lạ, hắn dứt khoát áp người vào tường nhích lên trước, hòng tìm kiếm nơi phát ra tiếng kim loại kia. Nó cắt vào thần kinh của hắn, khiến hắn không thể yên tâm, đồng thời hắn cũng ý thức được rằng hôm nay chỉ có tìm ra ngọn nguồn âm thanh đó mới có thể bình an quay về.

"Ở đây có, ở kia cũng có!"

Tiếng trẻ con ỏn ẻn lại vang lên sau lưng khiến hắn sợ suýt són ra quần, may mà một ngón tay vẫn móc chặt vào cái lỗ vừa khoét trên tường, ít nhiều giảm bớt chút căng thẳng, Đến khi quay đầu lại, ánh đèn yếu ớt cũng chỉ chiếu sáng tới mũi chân, hai bên vẫn là một vùng mờ mịt, đen ngòm. Hắn cố phân biệt ảo mộng với hiện thực, nghe xem âm thanh nào không tồn tại, âm thanh nào có vẻ chân thực. Vì thế đầu Hoàng Mạc Như càng đau như búa bổ, tia sáng âm u khiến hai mắt hắn cay xè, bước chân ngập ngừng, sau lưng vẫn vang lên những tiếng "rẹt rẹt" như ma quỷ. Lúc này, hắn nhớ đến Tần Hiểu Mãn. Nếu lúc này bờ môi đầy đặn tươi tắn của nàng kề sát vành tai hắn, nhất định có thể cua tan cơn hoảng loạn đang sắp tràn ra trong hắn lúc này. Mùi tương thoang thoảng che lấp mùi đất tanh đặc trưng, nàng có thể dựa vào lòng hắn, nói những lời riêng tư khiến cả hai đều đỏ mặt tía tai, nhưng cũng đầy khát vọng...

Mỗi lần hắn gặp nàng, đều như lần đầu tiên, lại như đã trải qua một đời đằng đẵng. Giữa mê loạn, hắn lại dờ thấy một cánh cửa ngầm, bèn cẩn thận đẩy mở, cánh cửa ấy vẫn im lìm mở ra, giữ bí mật giùm hắn. Hắn trốn vào trong cửa, thổi tắt ngọn đèn dầu, bỗng phát hiện thì ra mình đã sớm quen với bóng tối, cảnh vật xung quanh đều có thể nhín thấy lờ mờ, thậm chí còn dễ dàng lách qua mấy cái sọt tre chất đống cạnh cửa. Tiếng "rẹt rẹt" từ từ tiến lại gần, hắn để cửa hé một khe nhỏ, dán mắt vào khe hở ấy. Đến rồi, cuối cùng cũng đến! Hắn xác định tiếng kim loại không hề là ảo giác, thậm chí đã trông thấy một bóng đen chầm chậm di chuyển tới cánh cửa ngầm. Hắn nín thở chờ đợi, kích động đến nỗi mặt trở nên tím tái, nhưng vẫn ôm cây đèn dầu trong lóng, coi nó là "vũ khí sắc bén" để tự vệ.

Tuy ở trong địa đạo không chút ánh sáng, nhưng vẫn có thể nhận ra bóng đen ấy mang hình dạng con người, trong tay cầm một vật dài dài, hắn mang máng nhận ra đó hẳn là thứ gì như cây rìu, thứ ấy bị người kia xách cán trong một tay, đầu còn lại cọ vào tường, phát ra những tiếng "rèn rẹt" khiến hắn bủn rủn chân tay. Càng đáng sợ hơn là, những tiếng dấu hiệu hắn để lại trên tường vừa rồi, đều đã bị vị khách thần bí này hủy sạch, không tốn sức mảy may. Chỉ dựa vào điểm này, hắn đã ý thức rõ, người này đuổi theo hắn tới đây! Về cách đối phó với kẻ bám đuôi, Hoàng Mạc như ở sau cửa đã nghĩ ra mấy kế, cuối cùng quyết định đợi đối phương tới gần chỗ hắn nấp, sẽ bất ngờ nhảy ra, dùng đèn dầu chọi ngất y.

Trong mấy tiểu thuyết trinh thám mượn từ chỗ Hoàng Mộng Thanh, hắn đã đọc được quá nhiều thủ đoạn theo dõi cũng như phản theo dõi thế này. Sau khi vạch rõ kế hoạch, hắn còn nôn nóng nữa, chỉ cố dán ngừoi vào tấm cửa, đợi người kia lại gần chút nữa, thêm chút nữa... tiếng lưỡi rìu cọ vào vách tường như ở sát bên tai, đến tiếng bụi đất rơi xuống cũng vô cùng rõ rệt. Không biết từ lúc nào, hắn còn có phần hưng phấn, loáng thoáng nhớ lại trò trốn tìm khi nhỏ, người đi tìm càng tiến gần chỗ nấp, hắn càng thấp thỏm không yên, nhưng hễ đối phương bỏ qua chỗ đó, cảm giác thắng lợi bèn tự nhiên nảy sinh. Con người địa khái là "kẻ mưu mô" bẩm sinh, thích bày mưu với chính mình, cũng thích bày mưu với kẻ khác.

Đến rồi!

Thật sự đến rồi!

Hắn thầm gào thét điên cuồng, linh hồn đã run lên nóng rực, chao đèn thủy tinh cũng sắp vỡ vụn trong tay.

Trên thực tế, chuyện khiến hắn phấn chấn chỉ có một, hắn đã nghe thấy tiếng hít thở rất dài của đối phương. Có điều, âm thanh của cây rìu hiểm ác kia đột nhiên biến đổi, thành "cạch cạch", hắn lập tức thấy lòng lạnh ngắt, vì biết đó là tiếng lưỡi rìu cọ vào cánh cửa ngầm nơi hắn ẩn thân, cánh cửa này, rốt cuộc vẫn bán đứng hắn! Hắn đánh cược tính mạng, giật mạnh cửa, giơ cao cây đèn dầu. Vừa ngẩng đầu thì đã tuyệt vọng. Chỉ thấy cây rìu của đối phương đã giơ trên đỉnh đầu, tốc độ bổ xuống rất nhanh, như kình phong quét qua, cùng lúc ấy, hắn dường như nghe thấy tiếng vẫy gọi của Tử thần...

39.

Cuốn sổ ghi chép của Hạ Băng vẽ chi chít chẳng chịt, Đỗ Xuân hiểu không rành về vẽ vời nên đường nét cong queo, chỉ có thể miễn cưỡng nhìn ra ý tứ. Đây là lần thứ năm bọn họ mò vào mật đạo, có thể coi như đầu kinh nghiệm, Hạ Băng còn mượn đèn pin của Cố A Thân, chỉ tiếc rằng quá hao điện, còn không lâu bằng thắp bùi nhùi, nên về sau đành đem theo đèn lồng, củi nến cũng chuẩn bị một ít. Đỗ Xuân Hiểu mang cả than củi viết lên từng cánh cửa đánh dấu, biểu thị đã từng vào, cũng như nơi nó dẫn đến. Nhưng không bao lâu bọn họ liền phát hiện, lần tiếp theo vào mật đạo các lý hiệu viết bằng than trên tường trên cửa đều đã bị xóa sạch, có thể thấy trong này còn có người khác, bèn chạy khắp nơi định "bắt sống địch", nhưng dưới lòng đất phức tạp như mê cung, Đông Tây Nam Bắc đều không phân biệt nổi, nào truy bắt nổi người. Nói như Đỗ Xuân Hiểu thì là:

"Vàng đã đào được rồi, chỉ đáng tiếc không đem đi được, công cốc."

Những ngày này, Lý Thường Đăng cũng hết sức bận bịu, sau khi dọn đến nhà Giản Chính Lương, ông ta vội vàng đem tiền giấu vào nơi an toàn, còn mượn danh nghĩa phá án, ra ra vào vào nhà họ Hoàng. Mỗi lần như vậy Trương Diễm Bình chỉ đần mặt đón tiếp ông ta, nhưng Lý Thường Đăng vẫn có thể nhìn ra nét tao nhã xưa kia trên dung mạo héo hắt của bà, hiện giờ bà giống như một "vật kỷ niệm" nào đó, bám bụi và bị năm tháng mài mòn. Nhưng cũng vì thế, tình yêu của ông ta đối với Trương Diễm Bình càng vững bền hơn cả khi còn trẻ, điều này khiến Lý Thường Đăng cảm thấy yên lòng.

"Bà còn nhớ tôi không?"

Vì có người hầu ở bên nên ông ta hỏi rất mập mờ, vờ như chỉ tùy tiện thăm dò bệnh tình bà ta. Bà ta giương đôi mắt mông lung, nhìn theo con sẻ xám lướt qua khóm cúc vạn thọ bên ngoài cửa sổ, thứ mùi là tỏa ra từ đầu tóc nói lên tình trạng đã lâu không được chăm sóc tận tình, môi khô tróc vảy, mười đầu móng tay cụt ngủn, đường hằn ngang dọc hiện rõ trên da, khắp người từ trên xuống dưới toát lên vẻ xơ xác, như bị đóng dấu "Thất sủng".

A Phụng càng bơ phờ bệ rạc, dựa vào bàn thêu túi hương, thêu được mấy đường lại ngáp một cái, mới đầu còn hoảng hốt mỗi khi Lý Thường Đăng ghé thăm, về sau vô số lần tăng dần, lòng nhiệt tình lại giảm bớt, chỉ uể oải bưng trà lên cho xong chuyện, đến tiếp nước cũng không buồn làm.

"Đợi tôi, không lâu nữa đâu!"

Lý Thường Đăng uống cạn một hơi ly trà hoa cúc trong tay, thầm hứa với Trương Diễm Bình, vị thanh ngọt của nước trà ngưng đọng trong lệ đắng, rỉ ra nơi khóe mắt, ông ta đưa tay quệt vội rồi bỏ đi. Trương Diễm Bình vẫn ngồi im tại chỗ, như một pho tượng tàn phế phủi bụi, ánh nắng dịu dàng sượt qua má bà ta, không để lại chút vết tích ấm áp nào. Bài vị tổ tiên trong Phật đường đã được lau sắp mòn cả đi, vì Hoàng Thiên Minh là trẻ mồ côi đi lên từ tay trắng, cha mẹ mình họ tên thế nào còn không biết, nên tổ tiên được cúng tế thực ra là người bên nhà Mạnh Trác Dao, bao gồm cả cha mẹ, ông bà ngoại, cùng một vị tháo công nghe nói sống hơn trăm tuổi của bà ta. Phật đường rộng, chỉ đặt mấy bài vị ấy quả cũng hơi khó coi, nhưng người tinh ý đều hiểu, quy củ truyền thống này không phải nhất thời đặt ra trong một sớm một chiều mà là cách thức giao tế của Hoàng Thiên Minh, muốn gia nghiệp bền vững thì cội nguồn phải lo cho tốt, từ đó làm ăn mới thịnh vượng, thuận buồm xuôi gió. Trong nhà tuy người ra vào vô cùng náo nhiệt, nhưng Mạnh Trác Dao lại đặc biệt thanh nhàn, đang ngồi trong phòng con gái uống trà.

Hoàng Mộng Thanh biết bà nhất định sẽ kêu ca than vãn một tràng, vội gọi Ngọc Liên đem ít hạt hướng dương tới, để hai mẹ con nói chuyện.

"Theo con thấy, mẹ cứ yên tâm ngồi đây hưởng phúc nhàn, tội gì phải lao tâm khổ tứ? Mẹ Hai có làm tốt đến đâu cũng chỉ là làm hộ mẹ thôi, lẽ nào mẹ quên bài vị nhà ta cần tế bái là của những ai rồi?"

Hoàng Mộng Thanh đành khuyên giải như vậy. Nào ngờ Mạnh Trác Dao vẫn lắc đầu nói:

"Có những chuyện bọn con còn trẻ không hiểu nổi đâu, từ xưa nhà ai mà chẳng phải xảy ra ít họa to họa nhỏ, con nghĩ nhà mình thì không chắc? Cái chính là cha con bị sắc dục làm mờ mắt, chỉ nhìn ra cái không tốt ở mẹ, còn nhìn thấy cái tốt ở người khác."

Nói rồi, trong mắt thoáng nét thê lương. Đang trò chuyện lại thấy Ngọc Liên xồng xộc chạy vào bẩm:

"Có cô Đỗ tới!"

Hoàng Mộng Thanh thoạt ngạc nhiên, rồi lập tức bày ra vẻ mặt tức giận, chỉ nói:

"Cứ kêu vào đây, phải hỏi xem mấy ngày nay cô ta đi đâu lập đàn làm phép đóng vai bà cốt."

Vừa dứt lời, Đỗ Xuân Hiểu đã tự ý chạy vào, mở miệng đã kêu khát đòi uống trà. Mạnh Trác Dao dở khóc dở cười, nói:

"Con xem Đỗ tiểu thư bây giờ hệt như người nhà ta, chỉ là không biết nên coi như con gái hay coi như đứa ở nữa."

"Không giống con gái, cũng không giống đứa ở, mà như lão tổ tông nhà chúng ta, phải hầu hạ thế này đây."

Câu nói này của Hoàng Mộng Thanh chọc mấy người xung quanh đều phải bật cười, duy có Đỗ Xuân Hiểu vô tâm vô tính chỉ chăm chăm uống trà lạnh, uống sạch rồi mới thở phào một hơi. Hoàng Mộng Thanh thấy mặt mày mình mẩy cô toàn bùn đất, bèn chau mày nói:

"Xem ra không phải đi làm bà cốt mà đi làm ruộng hả, bẩn thỉu thế này."

Đỗ Xuân Hiểu đưa mu bàn tay quệt miệng, cười nói:

"Không phải làm ruông, mà là chơi một trò còn thần kỳ hơn!"

"Trò gì?"

Mạnh Trác Dao cũng nổi tính tò mò, nôn nóng hỏi.

"Đợi mấy ngày nữa sẽ kể cặn kẽ cho các vị, giờ vẫn phải giữ bí mật!"

Hoàng Mộng Thanh đã cười đến tưởng vỡ bụng, miệng kêu "ui chao", Mạnh Trác Dao cũng gạt đi ẻ u sầu ban nãy, người duỗi ra thoải mái, không khí ai oán trong phòng thoáng chốc đã biến mất không còn tăm tích. Trương Diễm Bình không biết đã thiếp đi bao lâu, chỉ biết khi mở mắt ra, cả người bà ta không còn chút sức lực, muốn động mọt đầu ngõn tay cũng khó. Thậm chí bà ta còn không rõ mắt rốt cuộc đã mở hay chưa vì không thấy nổi tia sáng nào, cả người như chìm sâu không biển đen, không thấy đâu bến bờ. Định mở miệng gọi trà, lại cảm thấy mũi miệng ngột ngạt, từng thớ thịt trên mặt bị kéo căng đến cực hạn. Khoang miệng bị nhét một vật cứng tròn vo, lèn cứng lưỡi, bà ta ép mình phát ra tiếng, nhưng chỉ nghe thấy âm thanh "ú ớ", bấy giờ mới nhận ra miệng mình bị thứ gì như dải vải bịt chặt. Bà ta muốn ngồi dậy, nhưng cánh tay đã tê dại, lại ép sát vào mông, phần cổ tay như bị một sợi thừng chắc chắn trói nghiến, cổ chân cũng vậy, đến nỗi lúc trở người có thể đau đến trào nước mắt. Bà ta không biết mình đang ở đâu, là ai bắt mình, chỉ có thể co ro ở nơi thăm thẳm này đợi được cứu. Nhưng ai sẽ tới cứu bà ta đây? Trong mắt mọi người, bà ta chẳng qua chỉ là một mụ điên, một mối phiền toái, thứ phế vật của nhà họ Hoàng, giá trị duy nhất có chẳng là lý do để Hoàng Thiên Minh cưới vợ Tư. Nhưng bà ta vẫn kiên trì, ánh mắt thâm tình khổ sở của Lý Thường Đăng cho bà ta niềm tin, khiến bà ta cố chấp khăng khăng với lựa chọn tiền đồ hung hiểm này. Biết rõ giả vờ điên sẽ phải nhập ma đạo từ đây, chịu đựng khảo nghiệm nơi a tì địa ngụ, nhưng bà ta cho rằng đây là cách duy nhất có thể vãn hồi tình thế. Vậy mà giờ đây, mụ điên đáng lẽ đã được mọi người loại trừ mọi đề phòng lại bị cột như một cái bánh tét, bà ta cảm thấy phần da thịt bị dây thừng ghìm thật đang lở loét chảy mủ, một mùi hôi tanh thoảng qua chóp mũi. Bà ta chán nản giãy giụa chốc lát, lại "ưm" một tiếng từ cổ họng, nhưng vẫn không ai đáp lời. Cuối cùng bà ta cũng hơi sốt ruột, không màng đau đớn, ra sức vặn vẹo cơ thể, hai tay bị trói quặt bỗng nhiên trượt qua một bờ rìa chắc chắn, bà ta bất lực rơi xuống, bụi bẩn lập tức xộc vào khoang mũi, muốn ho nhưng không sao ho nổi, chỉ biết lăn lộn trên nơi có vẻ là mặt đất, đôi gót sen bị trói gộp lại cố hết sức duỗi ra, mong có thể chạm tới đồ vật gì đó, hoặc một con đường sống. Một luồng sáng vàng rực nhen lên sau lưng Trương Diễm Bình, bà ta biết có người đang châm đèn ở đây, vừa mừng lại vừa lo, muốn xoay người nhìn cho rõ nhưng rồi nhanh chóng gạt đi ý định này, chỉ cứng đờ một chỗ bất động. Vì bà ta nghĩ tới, nếu nhìn rõ mặt mũi tên vô lại này, chưa biết chừng sẽ bị giết người diệt khẩu, chẳng thà cứ tiếp tục giả điên có khi còn giữ được cái mạng chưa biết chừng. Nhưng người đó dường như không hề hiểu cho nỗi khổ tâm của Trương Diễm Bình mà đi vật bà ta lại, thành ra hai người không thể không đối mặt.

Kẻ Trương Diễm Bình nhìn thấy là một người trùm áo choàng đen, cả khuôn mặt, cả cơ thể đều được tấm áo choàng ấy che phủ. Bà ta đoán chừng kẻ này là tên Hồ phỉ mà người dân trong trấn vẫn hay nhắc đến, bắt trói bà ta hòng đòi tiền chuộc, nghĩ vậy bà ta lại yên tâm đôi chút, vì biết mình tạm thời vẫn không nguy hiểm đến tính mạng. Những nhỡ đâu không phải thì sao? Ý nghĩ này cơ hồ giày vò bà ta phát điên thật.

Giữa lúc nội tâm đang đấu tranh, kẻ ấy đã túm lấy tóc kéo bà ta lên, bà ta đành đứng thẳng người, cũng nhân cơ hội quan sát quang cảnh xung quanh. Đây là một không gian không có cửa sổ, bốn bề vuông vức, ngoài cái ghế đẩu đặt cạnh cửa ra vào, không có đồ vật nào khác. Bà ta lập tức thấy tuyệt vọng, thầm nghĩ nếu thật phải ở đây mấy ngày, e rằng còn khổ hơn cả chết. kẻ trói bà ta dường như lại chẳng đắn đo gì, chỉ đem một vòng thừng quấn quanh cổ bà ta, thắt một nút sau gáy. Bà ta trở lại nên hoảng hốt, ra sức lắc đầu, hai mắt rơm rớm nước. Động tác của đối phương gọn lẹ dứt khoát, trông có vẻ vô cùng bình tĩnh, như thể mọi chuyện đều chỉ thực thi theo kế hoạch, không có lấy một chút ngập ngùng.

Nỗi sợ hãi của bà ta lúc này đã đạt đến cực điểm, nhất là khi sợi dây thừng tròng trên cổ từ từ được kéo dài, cột vào một cái đinh tường hoen gỉ, hai ống quần bà ta đã tong tỏng dòng nước nóng tanh tưởi. Đối phương coi như không thấy cảnh đái dầm của Trương Diễm Bình, chỉ lo làm việc của mình, đem cái ghế cạnh cửa ra giữa phòng, sau đó đứng lên, cột sợi dây thừng tròng cổ bà ta vào thanh xà gỗ trên trần nhà, mỗi lần kẻ này dùng lực thắt một nút, cổ bà ta lại bị thít chặt một lần, không khí lọt qua cổ họng càng lúc càng hẹp lại trở nên quý giá vô cùng. Đến khi kẻ đó nhấc Trương Diễm Bình lên chiếc ghế đẩu kia, bà ta mới hiểu ra cách chết của mình, chỉ cần ghế đổ, cổ bà ta cũng sẽ theo đó đứt lìa. Vì vậy bà ta đành giữ thăng bằng trong tuyệt vọng, giẫm chắc lên ghế là cửa ải sinh và tử, nhưng bà ta biết rõ, chỉ cần kẻ không nhìn rõ mặt kia khều nhẹ chân ghế, bà ta sẽ phải đi lên cầu Nại Hà.

Bà ta mở trừng hai mắt, nhìn như đóng đinh vào đối phương, bởi bất kỳ một giây phút nào sau đây cũng có thể là phút cuối đời của bà ta. Cũng không biết bao lâu, đối với Trương Diễm Bình, có thể tính như trải qua cả mấy thế kỷ, chiếc ghế vẫn chưa đổ, bà cũng chưa nghe thấy tiếng cổ mình gãy lìa. Người khách thần bí kia chỉ xách đèn xoay lưng đi khỏi, thậm chí còn đóng luôn cửa lại. Bà ta tức thì lại chìm trong "biển đen".

40.

Hoàng Mạc Như điên cuồng chạy về phía trước, hễ chạy được mấy bước lại gõ lên vách tường mong có thể tìm được một cánh cửa ngầm để hắn chuyển nguy thành an. Tuy hắn đại khái đã nhìn rõ tình hình xung quanh, nhưng vẫn cứ là mò mẫm trong đêm tối, cảm giác sợ hãi chưa hề mất đi. Chân giẫm xuống phát ra những tiếng "bịch bịch" quen thuộc, mắt đất bắt đầu trở nên khô ráo, so với đất ẩm vừa đi qua rõ ràng tốt hơn chút, hắn không hề buông lỏng cảnh giác, chỉ cắm đầu chạy, vì sợ tên sát nhân cầm rìu ban nãy có thể bò dậy tiếp tục đuổi theo, chờ thời cơ lấy mạng hắn. Hắn không nhớ nổi mình làm cách nào thoát khỏi lưỡi rìu của đối phương, chỉ biết khi đó bốn bề đều là màu đen, duy có viền rùi là lóe lên sáng lóa, hắn đã không còn đường thối lui, chỉ hét lên một tiếng, nhào tới ôm chắt lấy eo đối phương. Kẻ đó vì cú lao bất ngờ này mà ngã bổ chửng, hai người cùng lăn ra đất, Hoàng Mạc Như vung cây đèn trong tay ra sức đập vào đối phương, hắn không nhìn rõ mình đánh vào đâu, chỉ biết rấn công tới tấp cơ thể sống đang vùng vẫy dưới thân mình...

Lúc ấy, hắn đã không còn sợ nữa, khắp người trái lại còn tỏa ra sát khí. Thì ra, khi bị bức đến đường cùng, con người ta quả thật sẽ không màng hết thảy để tự bảo vệ bản thân. Dù đã nghe tiếng rìu rơi xuống đất, hắn vẫn không hề nhẹ tay, ý niệm duy nhất trong đầu bấy giờ chính là phải khiến con "quái vật" này bất động, chỉ cần nó còn động đậy thì hắn chưa thể thoát khỏi lòng bàn tay tử thần! Bên tai chỉ toàn tiếng thủy tinh vỡ, mảnh vụn chao đèn găm vào mu bàn tay hắn, nhưng không thấy đau mảy may, máu trong cơ thể đang chảy dào dạt, nào còn thời gian sờ đên vết thương?

Giữa chừng hắn định nhặt một mảnh vỡ to to chút, cắt đứt cổ họng đối phương - nếu tên sát nhân này có cổ họng, đáng tiếc bàn tay chỉ quờ quạng được những mẩu vụn trên mặt đất, cùng chất dịch lỏng nóng hổi. Hắn lo mình chảy máu mà chết, bèn chạy nhanh hơn, gió sượt qua da đầu tê dại của hắn, vết thương trên tay bấy giờ mới đau âm ỉ, chính những cảm giác đau đơn khó chịu này khiến hắn mừng rằng mình còn trên nhân gian.

Bước chân hắn càng hăng hơn, người "dẫn đường" vô hình trong đầu dường như đang chỉ rõ phương hướng, những cánh cửa ngầm cùng góc ngoặt khuất nẻo cũng không đến nỗi khó nhận ra, mỗi bước sải đều rất hiệu quả. Đúng rồi, chính là đây! Mũi chân hắn chạm vào một vật cứng, hắn liền ngồi thụp xuống lần mò, là một bậc thang, có nghĩa trước mặt có lối đi dẫn lên trên. Lúc này, hắn mới ngửi thấy một thứ gọi là "hy vọng". Tô Xảo Mai đang nổi trận lôi đình với thực đơn Hương Bảo trai đưa tới, chê "Bào ngư hoa lan" quá tầm thường, khăng khăng đổi thành "Kim ngọc mãn đường", rượu Phần đắt tiền cũng bị bà ta lôi ra hàng trăm điểm xấu, bắt Đỗ Lượng đi mua lại ít rượu Mao Đài, dung riêng cho bà của trấn trưởng. Bà ta mồm nói thì rất sướng, chỉ khổ mỗi đại quản gia, đề nghị Hương Bảo trai đổi món gấp không phải chuyện khó, nhưng lúc này kiếm đâu ra rượu hảo hạng. Giữa lúc khổ não, Ngọc Liên cười hì hì đi tới, lén giật giật ống tay áo Đỗ Lương, nói:

"Cô Cả bảo cháu dặn ông, không cần để ý đến chỉ thị của bà Hai, giờ đổi cái này thành cái kia, thần tiên cũng không hầu nổi. Vì vậy ông cứ việc làm theo ý ông, kẻo lỡ dở đại sự."

"Thay ta cảm ơn ý tốt của cô Cả."

Đỗ Lượng cười nói:

"Nhưng cô và ta đều biết tính khí bà Ha rồi đấy, đến chút bùn trong kẽ móng tay còn phải gẩy ra bằng sạch, huống hồ chuyện lớn thế này, vẫn phải theo ý bà ấy thôi, bằng không cáo chức quản gia này của ta e cũng khó giữ."

Ngọc Liên lại nói:

"Đại quản gia lo nghĩ nhiều rồi, nhà này còn thiếu ai cũng không thiếu nổi ông. Giờ bánh xe phong thủy xoay vòng, không biết vòng tiếp theo xoay đến chỗ ai, nhưng ít nhất cũng không phải bà Hai."

Đỗ Lượng bấy giờ mới quay lại nhìn kỹ Ngọc Liên từ trên xuống dưới, nghi hoặc nói:

"Lẽ nào những lời này cũng là cô Cả bảo ngươi nói?"

Ngọc Liên cười đáp:

"Sao có thể chứ? Đương nhiên là tự cháu nghĩ ra mới nói với ông rồi."

Đỗ Lượng không khỏi thầm cảm khái, thì ra người hầu kẻ ở nhà này lòng đều như gương sáng, chỉ là ngày thường vẫn hay giả ngốc, duy có ông ta tâm cơ kém nhất, năng lực bày hết ra ngoài, lại phải chịu chèn ép. Ông ta chợt nảy ý thôi việc, nhưng nghĩ lại, vẫn quyết định đợi đến sau ngày tế tổ, giờ trong lúc cấp bách này mà bỏ đi thì có hơi thiếu đạo đức. Đang nghĩ ngợi thì thấy Đường Huy từ xa vẫy tay gọi, ông bèn đi tới hỏi xem có chuyện gì, thì ra bà Hai nghĩ ra trò mới, muốn bày một bức hình phong gỗ tử đàn trong sảnh tiệc, nói rằng để cho sang trọng. Đỗ Lương vừa nghe liền biết ngay đây là mưu đồ bà Hai nhắm vào bà Ba, bởi chỉ có bà Ba lúc về nhà này mới được lão gia đặc biệt tặng cho món đồ cổ quý giá ấy, hòng xây dựng uy tín cho bà ta trong nhà họ Hoàng. Vì vậy món đồ này đương nhiên chướng mắt Tô Xảo Mai, bà ta bèn nhân cơ hội này mượn nó, dung xong đến lúc nào mới trả thì rất khó nói.

"Cũng không biết bà Ba có chịu không?"

Đỗ Lượng miễn cưỡng nặn ra một câu:

"Hơn nữa món đồ này bảo ai đi mượn được đây?"

Đường Huy tâm tính phổi bò, nói:

"Chuyện tốt đẹp này đương nhiên phải là Đỗ quản gia xuất mã rồi, những người khác không ai đi được."

Đỗ Lượng đành bấm bụng dẫn theo hai đứa ở tới phòng Trương Diễm Bình. Đứng ngoài cửa gọi mãi vẫn không ai đoái hoài, họ đành phải bước vào, thấy A Phụng đang nằm bò ra bàn say giấc nồng, nước dãi chảy đầm đìa. Ông ta khóc dở mếu dở, thầm nghĩ quả thật thói đời nóng lạnh, chủ nhân mất hồn, kẻ ở cũng mất tinh thần theo. Đưa tay đập bộp vào gáy ả ta, ả chỉ chép chép miệng, hơi thở vẫn đều đều như cũ, không hề tỉnh dậy.

"A Phụng!"

Đỗ Lượng bắt đầu bực, túm lấy vai A Phụng lật ả dậy, cầm nước trà nguội trên bàn rót thẳng vào mặt ả, tiện thể cho ả hai cái bạt tai, bấy giờ ả mới mơ mơ màng màng mở mắt.

"Con ranh gan cũng to quá nhỉ, chủ nhân đang bệnh mà còn ngủ say như chết!"

A Phụng bị dọa sợ, cuống cuồng quỳ xuống nức nở:

"Bình thường con đều hầu hạ bà chu đáo, tuyệt đối không dám ngủ vụng, hôm nay không hiểu sao lại ngủ đến tận giờ!"

"Bà Ba đâu?"

Đỗ Lượng nghĩ đến chuyện chính cần làm gấp, cũng không so đo với ả, chỉ ngó đầu vào phòng trong xem xét, định bụng chủ nhân đằng nào cũng điên, có nói gì cũng không hiểu, chi bằng dặn luôn A Phụng rồi khiêng bình phong đi. A Phụng rụt cổ bước vào phòng, không bao lâu đã lại chạy ra, mặt tái mét nói:

"Bà... bà Ba không thấy đâu nữa."

Trương Diễm Bình mất tích, người đầu tiên Đỗ Lượng đi báo là Hoàng Thiên Minh, ai ngờ ông ta nghe xong chỉ điều hai ba người ở đi tìm một vòng. Đỗ Lượng vốn định hỏi có cần rút mấy người đang bận việc tế tổ ở bên bà Hai về giúp không, nhưng thấy lão gia dửng dưng như vậy cũng đành lui ra ngoài. Hoàng Mộ Vân biết chuyện, ho sặc sụa một trận, rồi khi không đem roi mây ra vụt A Phụng tới tấp, A Phụng cũng không tránh, chỉ lăn ra đất khóc ti tỉ, nói là toàn thân bủn rủn không ngồi dậy nổi.

"Mau đi tìm! Không được để sót chỗ nào!"

Lời Hoàng Mộ Vân vừa rời khỏi miệng, Đỗ Lượng đã nghe ra ý tứ, bèn đáp:

"Những chỗ có thể tìm dều đã tìm rồi, kể cả lầu sách cũng trống không."

Dứt lời, Hoàng Mộ Vân đã xỏ giày da đi ra ngoài, Đỗ Lượng vội đuổi theo sau thì gã trừng mắt quát:

"Các người đâu thực lòng đi tìm mẹ ta? Thà để ta tự đi, không phiền đến các vị lo đại sự tế tổ!"

Đỗ Lượng đành đứng lại, mặt thoắt đỏ thoắt trắng, nghĩ tới nghĩ lui vẫn đến tìm Hoàng Mộng Thanh, kể lại sự tình. Hoàng Mộ Vân nghe rồi cũng tỏ vẻ hững hờ, cười nói:

"Bà ấy yếu ớt như vậy, còn có thể chạy được tới đâu? Nhất định là vẫn loanh quanh trong nhà này thôi, đợi lát nữa cháu sai Ngọc Liên ra tìm cùng, chú hẵng đi gọi Mộ Vân về, dặn nó đừng làm ầm lên. Bất luận thế nào cũng không được ảnh hưởng đến đại lễ ngày mai, hiểu cả chưa?"

Mấy lời này nói ra đến Đỗ Lượng cũng rung mình, ông bấy giờ mói hiểu món đồ quý lão gia khi xưa nâng niu trong tay giờ đã thực sự thành đống tro gấm, e chẳng bao giờ có thể lấy lại phong quang trước đây nữa. Thế nên ông ta quyết ý, cứ mặc Hoàng Mộ Vân đi, còn mình tới thẳng Phật đường lo tiếp việc tế tổ, gạt chuyện Trương Diễm Bình ra sau.

Có một số chuyện, đã lực bất tong tâm thì chi bằng từ bỏ luôn cho thoải mái dứt khoát. Trương Diễm Bình đáng thương, giờ vẫn không biết bị nhốt trong gian mật thất nào, toàn thân cứng đờ đứng trên ghế đẩu, cổ bị sợi thừng "đoạt mạng" siết chặt, chỉ cần một ngọn gió khẽ thổi qua cũng có thể rơi xuống địa ngục. Hạ Băng và Đỗ Xuân Hiểu đã là những tay mù đường chính hiệu, không biết vào từ cửa nào, cũng không định sẵn lối ra, những nơi có hút than vạch qua không hiểu vì sao thoắt cái đã bị bùn tro che lấp. May mà chuẩn bị đầy đủ, cũng không đến nỗi cùng đường bít lối, hai người thậm chí còn lấy đó làm vui, bởi đều kiên định tin vào đạo lý "đi tới hết đường ắt có lối quành", cho rằng tuyệt cảnh này có thể giúp họ phát hiện ra "kho báu" lớn hơn nhiều. Đỗ Xuân Hiểu vừa đi vừa ư ử một giai điệu không biết tên, Hạ Băng nắm một tay cô, thỉnh thoảng còn lấy điếu thuốc trên môi cô rít một hơi, rồi nhét trả, hành động tự nhiên như đôi vợ chồng già.

"Tôi đang tính, nếu còn tìm không thấy lối ra thì cậu đem bài ra mà bói lấy một đường."

Anh đùa.

Cô cười lớn, buông tay, lấy một lá Chiến xa ra huơ huơ trước mặt anh, nói:

"Chỉ còn mỗi lá này thôi."

"Đống còn lại đâu rồi?"

"Đều để lại chỗ đó làm dấu rồi."

Đỗ Xuân Hiểu lùi lại chừng mười bước, mở một cánh cửa ngầm, bên trong không có đường nhánh nào khác mà bị bít bởi tường gạch, trên tường dính một lá bài tarot.

"Bài tôi mang theo người chỉ đủ xem lá lẻ thôi, vì hiện giờ chỉ có hai mươi hai quân. Trước kia mỗi lần chúng ta để lại dấu đều bị người ta xóa sạch, nên tôi bèn tìm những cửa ngầm bị bịt kín, đính bài lên đấy, rồi đóng cửa lại, như thế người bạn muốn chúng ta lạc đường kia sẽ không biết được."

Cô cười rạng rỡ như hoa xuân, gương mặt phấn chấn hẳn lên dưới ánh lửa.

Hạ Băng chau mày:

"Cũng chẳng có thứ tự, thì tác dụng gì chứ?"

"Ai bảo tôi không nhớ thứ tự đặt bài?"

Cô hếch cằm, tỏ ra vô cùng kiêu ngạo. Anh bấy giờ mới thở phào, đang định nói một câu mở lối thoát thì nghe cô bổ sung:

"Thực ra tôi không nhớ thật."

Trắng trợn chọc anh tức muốn thổ cả huyết.

Hai người đang định đấu võ mồm, cô lại nhìn về khoảng không tối thui trước mặt, lẩm bẩm đầy âu lo:

"Hơn nữa bài trong tay tôi cũng chủ còn một lá thôi..."

Hạ Băng lúc này đã không nhịn nổi nữa, vừa đi lên phía trước, vừa ngoái đầu quát Đỗ Xuân Hiểu:

"Trước kia chẳng nói mình còn lợi hại hơn cả ông trời sao? Giờ lại lộ ra là nhát gan thế? Nhỡ mà chúng ta không ra khỏi đây được thật, đến khi lương đạn cạn hết, cậu nhất định phải chết trước, để tôi ăn thịt cậu."

"Phì! Xương cốt cậu còn yếu hơn tôi, đương nhiên là cậu chết trước, tôi ăn thịt cậu!"

Đỗ Xuân Hiểu lập tức phản bác, vứt đầu mẩu thuốc xuống đất, chạy lên trước véo tay Hạ Băng một cái thật đau. Anh đau đến nhảy dựng lên, vội vén tay áo xem, thấy da thịt chỗ ấy đã đỏ như tôm luộc, bèn nói

: "Mụ điên cậu đến lúc nào mới bình thường chút hả? Nói đùa thôi mà cũng động thủ! Còn thế nữa..."

"Ha! Quả nhiên vẫn là tôi khỏe hơn cậu!"

Đỗ Xuân Hiểu không đợi anh nói hết đã tự dưng vỗ tay cười lớn. Hạ Băng trố mắt nhìn cô, thầm nghĩ chắc không phải điên thật rồi chứ. Chỉ thấy cô khoa chân múa tay gập eo, nhặt mẩu thuốc dẹp lép vừa vứt xuống đất, reo lên:

"Dấu hiệu này chắc cũng là do tôi dọc đường để lại, đảm bảo không chệch đi đâu được!"

Dứt lời, cả hai nhìn nhau im lặng hồi lâu, đột nhiên cười phá lên. Hạ Băng cười xong, quay đầu lại định đi tiếp thì loạng choạng bổ nhào về phía trước, nắm bùi nhùi trong tay cũng theo đó văng ra, sượt qua má phải Đỗ Xuân Hiểu, cô lập tức nghe có tiếng "vù" bên tai, da mặt đau rát. Vốn định mắng Hạ Băng mấy câu cho bõ tức, nhưng cảnh tượng trước mắt đã làm cô á khẩu. Bởi thứ Hạ băng vấp phải chính là một cầu thanh dẫn lên trên, điều này chứng tỏ, họ cuối cùng cũng có thể thoát khỏi mê cung dưới lòng đất, ôm lấy ánh sáng rồi!

41.

Hoàng Mạc Như đứng dưới khung cửa sổ sáng nhất, nhìn bụi bặm nhảy nhót, hắn không rõ có thể coi là may không nữa, chỉ biết vết thương chằng chịt trên tay vẫn găm đầy vụn thủy tinh vỡ. Lúc này, hắn vốn nên chạy khỏi đây, liên hệ với đội cảnh sát, lật tung cái mật đạo kia lên, để tìm ra càng nhiều bí mật hiếm người biết. Song luôn có một giọng nói non nớt luẩn quẩn trong đầu hắn, bảo hắn "không được kể cho bất kỳ ai." Bởi thế hắn quyết định giữ miệng kín bưng, nhưng lại hơi không cam lòng, vài đoạn ký ức đã càng lúc càng rõ ràng, chỉ là vẫn chưa có một sợi dây liên kết chúng lại với nhau, nên hắn đành tiếp tục tìm kiếm. Cầu thang gỗ trong lầu sách như người già ở tuổi xế chiều, bậc thang nào cũng có các lỗ mối gặm li ti, đường vân như sóng nước hòa lẫn vào nhau, tựa hồ mỏng manh tột cùng, khiến người ta không nỡ giẫm lên. Mỗi tầng đều có hàng dãy giá sách kê thành vòng cao vút tới tận trần, nhét kín những pho cổ tịch đóng chỉ, dày mỏng khác nhau, giữa gáy sách và trần nhà giăng đầy mạng nhện, như thổ lộ nỗi ai oán trước năm tháng nước chảy mây trôi. Những bước đi như mộng du của hắn khiến các bậc thang cú kuys ấy rên lên não nề, càng lên cao, tâm trạng hắn càng phấn chấn, vì biết ký ức bị cướp đi lúc trước đang dần được hoàn lại.

Vết tích vụ hung án trên tầng mái lầu sách vẫn rất rõ rệt, sau cái giá sách trống một nửa, sau cánh cửa ngăn tróc sơn đỏ, chính là nơi Tiết Túy Trì từng ẩn nấp. Đẩy cửa ra, mùi chua loét vẫn chưa bay hết mà còn lẩn quất trong không gian chật hẹp đó. Hắn nín thở, khom lưng chui vào, phát hiện trần nhà chỉ cách đỉnh đầu hai tấc, ở trong này có muốn đứng thẳng người cũng khó. Hắn bất giác hít vào một luồng khí lạnh, cảm giác không biết phải chấp niệm đến thế nào mới có thể khiến một người chui rúc trong đây song cuộc đời một con chuột hai mươi mấy năm trời!

Không khí làm người ta ngạt thở khiến hăn mấy lần chực nôn, đành giật lùi ra ngoài, vừa tới cửa đã đụng phải một vật... Không! Là bàn tay người, đang đặt trên lưng hắn! Hắn kinh hoàng, da đầu lập tức như muốn nứt toác, lỗ chân lông trên người đều mở to, vết thương vừa chớm lành sau đầu đang khoan vào ký ức ở nơi sâu thẳm trong linh hồn. Không sai, trước kia hắn cũng từng gặp tình cảnh tương tự, một bàn tay đặt lên lưng hắn, ngỡ là muỗi ruồi gì đấy sượt qua, vừa quay đầu lại định phủi thì đã không kịp nữa rồi! Như thể đột ngột bị rút mất trọng tâm, hắn bổ nhào trên cầu thang, gỗ xù xì đâm sượt qua má và cánh tay, không hề thấy đau, chỉ thấy như lửa cháy khiến người ta lo lắng, mất khả năng ứng biến! May mà lần này hắn không đứng trên cầu thang, dù có bị ám toán thì nhiều nhất cũng chỉ ngã vào căn mật thất hôi hám này thôi. Nhưng, nếu trong tay đối phương còn cầm một cây rìu thì sao? Trải nghiệm khủng khiếp trong mật đạo một lần nữa quấn lấy hơi thở hắn, hắn bất động, từng thớ thịt đều căng cứng, từ từ quay đầu lại, mồ hôi theo lông mày nhỏ vào hốc mắt, cũng không màng quệt đi, chỉ ra sức mở mắt thật to, muốn chết cho minh bạch.

"Là cậu Cả ư..."

Chủ nhân của bàn tay trên lưng là Hạ Băng, đứng sau anh là Đỗ Xuân Hiểu người nồng mùi khói thuốc. Hoàng Mạc Như bấy giờ mới khôi phục lại nhịp thở, hổn hển không ra hơi, tay ghì chặt trước n