Gia đình
Uyên, cởm ơn!
Ai đó trong bàn vừa nói câu tiếng Việt đó với tôi, khi kịp nhìn lên tất cả đã đồng thanh nói.
– Cởm ơn!
Tôi không nói được gì cả, chỉ nhìn mọi người mà rơm rớm nước mắt vì cảm động khi tiếng mẹ đẻ của mình được đọc lên ở một nơi nó hoàn toàn xa lạ.
Một bữa cơm trưa đông hơn mọi khi, khoảng 12 người, có những người giờ tôi mới gặp. Ngoài việc tình nguyện ngắn ngày như tôi, mọi người hoàn toàn có thể đến Kadampa ở một thời gian và trải nghiệm đời sống Phật giáo cũng như làm việc tại đây. Có người mới đến vài tháng nhưng có người đã ở vài năm. Một vài người trong số họ đang làm việc bên ngoài, một vài người vẫn đang đi học.
Một phụ nữ, tôi mới nhìn thấy cô lần đầu, mở điện thoại vào phần mềm Google translate để dịch từ “gracias” trong tiếng Tây Ban Nha sang từ “cảm ơn” trong tiếng Việt và đọc theo. Mọi người có vẻ thích thú với điều này, sau một loạt lời “cảm ơn” và nhận thấy sự xúc động mạnh mẽ từ tôi, họ tiếp tục tìm những từ khác như “Tên tôi là…”, “Bạn khỏe không?” để nói chuyện. Tôi cảm động lắm nhưng tôi không nhớ tên ai cả vì quá nhiều người nói cùng một lúc, đành phải tìm hiểu tên họ theo cách ngấm ngầm khác vậy.
Trò này tôi và Ser hay làm vì cậu ấy ngại viết, những câu ngắn không sao nhưng đến những câu dài Google translate giống như người say rượu. Nó sẽ ghép cho bạn một câu vô nghĩa thậm chí vô cùng hài hước. Tôi thấy mọi người bắt đầu có xu hướng chuyển sang những câu dài hơn để thử nhưng lần này cơ bản Google translate không say mà mọi người không đọc được vì nó quá dài và nhiều dấu.
“Bạn có cảm thấy thoải mái khi ở đây với chúng tôi không?
Sau khi Google translate đọc xong mọi người tròn mắt nhìn tôi lắc đầu, phẩy tay và nói quá khó. Đó là một bữa trưa đặc biệt với tôi. Nó làm cho tôi nghiệm ra một điều mà Nelson Mandela đã từng nói:
Nếu bạn nói chuyện với một người bằng thứ ngôn ngữ họ hiểu, những điều đó sẽ được ghi nhớ bằng đầu. Nếu bạn nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ, những điều đó sẽ khắc sâu vào tim.
Giờ tôi có thể cảm nghiệm sâu sắc hơn câu nói này của ông. Tôi nhớ lại thái độ của anh nhân viên ngân hàng trong trường. Nếu tôi nhờ ai đó đi phiên dịch hộ hay tôi cố diễn đạt bằng tiếng Anh, anh sẽ nhìn tôi khinh khỉnh và khó chịu. Nhưng nếu tôi cố nói với anh bằng tiếng Tây Ban Nha anh sẽ vui vẻ hơn. Có lần tôi dùng sai câu anh đã giảng giải cho tôi một hồi là ở đây anh chấp nhận và hiểu được nhưng đến chỗ khác người ta sẽ không bao giờ cho tôi nói thế. Anh tức tối, tôi cảm thấy bị tổn thương và kinh hãi mỗi lần nghĩ đến ngân hàng. Nhưng bây giờ nghĩ lại tôi thấy không chừng anh còn bị tổn thương nhiều hơn tôi.
Ngại ngùng và xấu hổ khi nói chuyện với người bản ngữ bằng chính ngôn ngữ của họ là một điều vô lý. Chính tôi đã cảm thấy hạnh phúc thế nào khi họ chỉ nói với tôi vài từ tiếng Việt, thậm chí họ không hiểu được ngữ pháp của nó mà chỉ đọc lại theo Google translate. Tôi cảm thấy được trân trọng, được thấu hiểu, được yêu thương và nó còn gợi một điều gì đó rất sâu sắc về quê hương.
Xung quanh tôi mọi người vẫn đang rôm rả vừa ăn vừa nói. Lần này tôi muốn tham gia nhiều hơn vào câu chuyện, thay vì cắm đầu ăn như mọi khi, tôi chăm chú nhìn mắt người này, miệng người kia để cố gắng nghe. Mọi người như hiểu được khát khao hòa nhập cộng đồng của tôi nên Gerard quay ra hỏi.
– Cô có hiểu không?
Tôi lắc đầu và anh giải thích lại chậm hơn. Cứ thế lần lượt Rocío, sư Sangdak thay nhau quay ra giảng giải cho tôi. Mọi người chờ đợi đến khi tôi gật đầu mới lại tiếp câu chuyện. Khi tôi muốn nói, tất cả khích lệ bằng những ánh nhìn chăm chú. Tôi có cảm tưởng lúc đó mình bị biến hình thu nhỏ lại thành đứa trẻ đang trong giai đoạn tập nói quan trọng. Toàn thể gia đình tròn mắt hồi hộp, kiên nhẫn chờ đợi và tò mò muốn nghe những suy nghĩ, cảm xúc, chính kiến, hiểu biết từ chính miệng thành viên nhỏ nhất trong nhà chứ không phải là những biểu lộ lắc đầu, gật đầu, đập chân đập tay, ôm hôn thắm thiết, cười khanh khách hay kêu gào thảm thiết.
Sáu tháng ở Tây Ban Nha, trừ những khi nói chuyện với bạn bè Việt Nam, tôi thấy mình không khác gì trẻ con, nhất là ở Kadampa, lâu dần nó định hình thành một phong thái như thế khi tôi bắt đầu nói chuyện, mặt lúc nào cũng ngây thơ “vô số tội” vì hiểu thì nhiều mà từ thì không có. Ở quãng thời gian này tôi thấy tuổi tác tỷ lệ nghịch với tâm hồn ghê gớm. Những bữa cơm dường như cũng thú vị hơn khi có thêm một thành viên “mãi chưa chịu lớn”, lắp ba lắp bắp như tôi tham dự vào.
Tôi đã sống một thời gian dài ở đây ăn cơm một mình, dọn dẹp nhà cửa một mình. Mỗi người là một thế giới riêng và luôn có giới hạn trong những cuộc nói chuyện. Nhưng ở đây tôi thấy được an toàn, tôi thấy được yêu thương, được chăm sóc và không cô đơn chống chọi với mọi thứ. Mỗi ngày tôi được ngồi trong một mâm cơm lớn, tất cả mọi người cùng ăn, cùng cười nói với nhau. Nó làm tôi nhớ và được sống trong không khí của một gia đình.
Từ sau hôm đó thỉnh thoảng tôi lại được nghe vài câu tiếng Việt “xin chào”, “cảm ơn” khi đi quanh Kadampa. Những câu chuyện vì thế cũng được chia sẻ nhiều hơn với tôi. Khi tôi mở lòng với một ngôn ngữ mới tôi như mở lòng với chính trái tim mình và chạm vào trái tim người khác.
Những ngày ở đây cũng đang ngắn lại, chỉ còn hai ngày nữa. Sau bữa cơm trưa, tôi muốn bắt chuyện với những người chưa biết tên vì thế tôi chủ động mỉm cười với người phụ nữ ngồi đối diện mình. Tôi đã gặp bà hôm qua khi đi lang thang quanh Kadampa chụp ảnh, quay video vườn oải hương, lúc đó bà đang tưới cây ở khu vườn gần đó. Bà bảo chúng tôi ngồi sang bàn bên cạnh vì mọi người đang thảo luận hơi ồn.
Bà đến từ Granada, một thành phố yên bình và cổ kính nằm ở phía nam Tây Ban Nha. Ở đó có nhiều cung điện, lâu đài, thành quách cũ mang đậm dấu ấn của người Hồi giáo. Bà nói đó là một nơi rất đáng để du lịch và khám phá lịch sử.
Không hiểu sao tôi lại lôi hết nỗi cô đơn và cảm giác lạc lõng của mình khi đến Zaragoza kể cho bà. Người phụ nữ cứ im lặng lắng nghe, đặt tay lên vai tôi vỗ về. Có cái gì đó bắt đầu tràn lên khóe mắt và nghẹn ứ ở cổ, rồi bà cũng rơm rớm nước mắt cùng tôi.
– Cô bao nhiêu tuổi rồi?
– Tôi vừa bước sang tuổi 31 được hơn hai tháng.
– Ồ, bằng tuổi con gái tôi. Nó đang học ở nước ngoài.
Nói xong bà cho tôi xem ảnh cô ấy. Rồi bà vỗ vai tôi.
– Mọi thứ sẽ ổn thôi Hija (con gái)!
– Cảm ơn Mamá (Mẹ)!
Chúng tôi ôm nhau, tôi có một người mẹ ở Tây Ban Nha từ lúc đó, bà không muốn tôi nhắc tên trong cuốn sách này. Tôi cũng chỉ luôn gọi bà là Mamá.
Buổi tối tôi xuống nhà ăn muộn và tình cờ gặp sư Shima. Ở Kadampa chỉ nấu ăn chính vào bữa trưa, thức ăn còn thừa sẽ được dồn vào hộp ghi ngày nấu và đặt trong tủ lạnh để tối ăn hoặc 1-2 ngày sau đó. Bình thường sư Shima về muộn và ít khi ăn cùng mọi người. Sư là vị nữ tu duy nhất tôi thấy ở Trung tâm này, còn rất trẻ và xinh đẹp. Tôi luôn có một cảm giác khó gần và khó nói chuyện với sư. Đó là chuyện bình thường ở phương Đông nếu như bạn không đủ duyên với họ. Nhưng hôm nay sư quay sang bắt chuyện trước với tôi.
– Cô thấy ở Kadampa thế nào?
– Tôi cảm thấy hạnh phúc. Mọi người rất tốt, tôi thấy nơi này thân thuộc giống như gia đình của mình vậy.
– Tốt quá. Tôi rất thích Việt Nam. Tôi muốn đến Việt Nam để tu học một thời gian nhưng không đủ tiền, sẽ rất tốn kém để đến được đó và phải có tiền để sống. Tôi cũng không biết tiếng.
– Tôi thấy đời sống của tu sĩ và sinh hoạt Phật giáo ở Việt Nam rất khác ở đây. Các nhà sư sống trong những ngôi chùa và được Phật tử cúng dường vật phẩm, y phục. Người dân đến chùa học giáo lý họ cũng không phải trả tiền. Tất cả là sự cúng dường tùy tâm của mỗi người. Chúng tôi luôn có một sự kính trọng nhất định đối với nhà tu hành, khi gặp họ chúng tôi luôn chắp tay và cúi chào như thế này.
Nói xong tôi đứng dậy làm mẫu. Mọi người có vẻ ngạc nhiên, nhất là sư Shima.
– Ở đây chúng tôi vẫn phải làm việc như cô thấy đấy.
– Và tôi thấy ở đây mọi người rất bình đẳng với nhau chỉ khác nhau ở chiếc áo thường dân, tu sĩ và hình dáng bên ngoài. Tôi nghĩ sư sẽ không mất nhiều tiền mới có thể đến tu học trong một ngôi chùa ở Việt Nam.
– Thật sao?
– Hãy nói cho tôi biết khi nào sư muốn đến đó. Tôi có thể giúp.
Sư mừng rỡ ghi lại cho tôi địa chỉ email, bây giờ tôi lại thấy sư gần gũi hơn bất kỳ ai trong Trung tâm này. Không còn vẻ mặt nghiêm trang và những lời khách sáo, sư cứ cười nói quanh tôi như chú tiểu vừa khám phá được khu vườn thiền vi diệu.
Còn một ngày nữa ở lại đây, tôi đang đếm ngược thời gian và bắt đầu lo lắng. Tôi chưa nhận được tin tức gì về visa đi Anh của mình. Mọi người nói visa Anh rất khó và nhiều người đã trượt. Nếu không sang Anh tôi không biết mình sẽ ở đâu trong những ngày tiếp theo.
– Uyen, có chuyện gì thế?
Tôi giật mình nhìn lên xem ai đó vừa hỏi nhưng tất cả mọi người trong bàn ăn cùng nhìn tôi lo lắng.
– Tôi đang đợi kết quả visa đi Anh, nhưng vẫn chưa có.
– Cô sẽ đi Anh. Nước Anh đẹp lắm!
– Và đắt đỏ nữa.
– Tôi sẽ du lịch ở Anh một thời gian và thăm bạn ở đó. Nhưng tôi không biết mình có được chấp nhận visa không.
– Cô định bao giờ đi?
– Ngày 15 tháng Bảy, ngay sau khi rời khỏi đây.
– Ồ, tôi nghĩ không vấn đề gì đâu.
– Tôi không hiểu sao, chúng tôi xin visa các nước rất khó khăn.
– Ồ, chắc ổn thôi.
Mỗi người hỏi và động viên một câu. Sư Sangdak chốt cuối cùng.
– Hãy lên nói chuyện với Phật: “Cho con có visa đi Anh”.
Ông lúc nào cũng làm cho mọi vấn đề trở nên đơn giản và hài hước. Nhưng đến tối, lúc ngồi trong phòng thiền tôi đã thưa điều đó với Phật.
Hôm sau vẫn chưa có tin tức gì từ Đại sứ quán Anh. Tôi hỏi Gerard đang bận rộn với chiếc máy tính trong nhà ăn.
– Ai sẽ là người tiếp theo đến làm tình nguyện viên ở đây vậy Gerard?
– Vẫn chưa có ai cả. Nếu cô chưa có visa Anh hãy quay lại đây.
– Thật sao! Khi nào trở lại Tây Ban Nha tôi sẽ quay lại đây, còn tuần sau tôi không muốn gặp lại anh nữa đâu.
– Hãy báo cho chúng tôi biết khi cô có được visa và sang Anh an toàn nhé.
– Tôi sẽ báo, cảm ơn anh!
Cả hai cùng cười, Gerard quay lại với chiếc máy tính còn tôi xuống dọn dẹp nhà bếp. Hôm nay là buổi cuối cùng. Không có gì to tát, lớn lao, chỉ là những điều be bé, những câu chuyện rất đời nhưng có niềm vui, có tiếng cười, có tình yêu và sự chân thành. Mọi thứ chỉ cần tự nhiên như thế. Tôi thấy hạnh phúc khi biết rằng luôn có sẵn một nơi ở đây, một nơi thân thuộc như gia đình để cho tôi trở về.
Xong việc nhà bếp tôi ngồi lại nói chuyện với sư Sangdak. Ông lấy một tờ giới thiệu về Trung tâm Kadampa ở Barcelona, một ngôi chùa cổ kính và thâm nghiêm nằm trên núi, bao quanh bốn bề là núi.
– Khi nào quay về cô có thể đến đó.
Nó thực sự là nơi rất tuyệt vời để an định thân tâm và thiền định. Bất giác tôi nghĩ, tôi không chỉ có một mái nhà Kadampa ở Madrid, tôi có thể gặp những gia đình Kadampa ở khắp Tây Ban Nha. Tôi sẽ luôn được ở trong vòng tay Kadampa. Thêu nhắn tin cho tôi trên WhatApp
– 9 giờ tối em với anh Antonio đón chị ở cổng nhé.
– Ừ, chị đang xếp đồ rồi. Mong sớm gặp mọi người.
Roció có việc phải đi ra ngoài, cô để lại trên bàn một mảnh giấy chúc tôi lên đường may mắn. Sáu tháng nay, gia tài của tôi chỉ là chiếc va li màu đỏ kéo lê từ nhà này sang nhà khác, từ nơi này đến nơi kia. Một chân của nó đã lệch, trên thân đã có vài vết xước do va đập.
“Chúng ta lại tiếp tục hành trình thôi, bạn thân mến ạ!”
Tôi vỗ vỗ vào nó rồi kéo ra ngoài. Sư Shima, Mamá, Carmen đang đứng ở sảnh. Mamá tặng tôi một chiếc ống được làm bằng tre, phía đầu có hình Đức Phật và một lỗ nhỏ đề cắm hương, kèm theo gói hương nhỏ, bà dặn tôi khi nào ngồi thiền định hay tụng kinh có thể dùng. Carmen tặng tôi một chiếc hộp nhỏ hình trái tim màu tím lấp lánh rất đẹp, có lẽ tôi sẽ để trang sức như vòng cổ, khuyên tai vào đó. Sư Shima mang cho tôi một bộ chén nhỏ, sư nói khi nào cầu nguyện hãy đổ nước vào những chiếc chén, mỗi chén nước mang một ý nghĩa, cho da đẹp, cho mắt sáng, cho giọng nói trong trẻo, cho bệnh tật tiêu tan,…
Tôi tạm biệt mọi người với những cái ôm nghẹn ngào, giống như một lần nữa tôi lại tạm biệt những người thân trong gia đình để đi xa. Sư Shima nhận xách chiếc va li đỏ giúp tôi ra cổng. Phía xa nơi mái nhà ăn trăng bắt đầu lên, mùi oải hương như nồng nàn hơn quấn lấy chân tôi. Loài hoa, loài thảo mộc thiêng liêng của mùa hè gợi nhắc về sự thủy chung, điều may mắn và chờ đợi tình yêu.
Tôi và sư Shima còn một lời hẹn với Việt Nam. Tôi mong vào một ngày nào đó chúng tôi sẽ nhìn thấy nhau ở đất nước của tôi và đón sư như một thành viên của gia đình.
Tạm biệt Kadampa!