← Quay lại trang sách

HỒI THỨ MỘT TRĂM Tam Tạng Thỉnh Kinh Về Ðông Ðộ
Năm Thánh Hưởng Phước Tại Tây Phương

Ngày kia ngự giá đến Vọng Kinh Lâu, thiên tử lên lầu ngó qua hướng Tây thấy hào quang sáng giới, gió thơm như mùi hương!

Khi ấy Bát Ðại Kim Cang ở trên mây nói với Hành Giả rằng:

- Đại thánh ôi! Ðây là đến thành Tràng An, chúng ta chẳng dám đi xuống, vì dân Tràng An lanh lợi quỷ quyệt, nếu nó thấy mặt, chắc là họa hình! Vậy thì đại thánh và Quyển Liêm tướng quân, Thiên Bồng nguyên soái đừng xuống làm chi. Ðể một mình thánh tăng dưng kinh cho Ðường thiên tử rồi trở lên cho mau. Chớ ta đợi lâu không đặng.

Tôn Hành Giả nói:

- Tuy các ông nói cũng phải, song một mình thầy tôi gánh sao nổi kinh, dắt sao đặng ngựa? Chúng tôi phải đưa mới xong, các ông chịu phiền ráng đợi, bề nào cũng không trễ đâu.

Bát Ðại Kim Cang nói:

- Ngày trước Quan Âm đã bạch với Như Lai, định nội tám ngày cho đủ số một tạng. Nay đã năm ngày rưỡi, sợ Bát Giới tham yến tiệc chắc trễ nãi ngày giờ.

Bát Giới cười rằng:

- Sư phụ thành Phật, tôi cũng muốn thành Phật lẽ nào mà còn mê yến tiệc sao? Vả lại tôi ăn một bữa cơm tại chùa Ðại Lôi Âm, tới bây giờ còn đặc ruột, lẽ nào mê yến tiệc phàm trần? Xin các ông ráng đợi tới giao kinh rồi thì tôi trở lại.

Sa Tăng dắt ngựa, Tôn Hành Giả đỡ Tam Tạng, đều ở trên mây sa xuống lầu Vọng Kinh.

Khi ấy vua Ðường Thái Tôn và các quan ngó thấy đều đến trước nghinh tiếp nói rằng:

- Ngự đệ đã về đây!

Tam Tạng liền cúi lạy. Vua Ðường Thái Tôn đỡ dậy, phán rằng:

- Ba người nầy là ai?

Tam Tạng tâu rằng:

- Ba người đệ tử tôi thâu tại dọc đường.

Vua Ðường Thái Tôn mừng quá, truyền quan nội thị thắng xe ngựa của vua cho ngự đệ đi vào trào. Tam Tạng tạ ơn, rồi lên ngự mã, Tôn Hành Giả huơi thiết bảng theo hầu.

Sa Tăng gánh kinh, Bát Giới dắt ngựa, đồng đi theo vào Tràng An.

Khi ấy bốn thầy trò về trào theo vua, nội thành ai nấy đều hay Tam Tạng thỉnh kinh về, đồng theo coi đông nức.

Nguyên trước Tam Tạng ở trú tại chùa Hồng Phước. Các sãi chùa ấy chưa hay tin Tam Tạng về. Rạng ngày ngó thấy mấy cây tòng trước cửa chùa cây nào cũng ngả ngọn về hướng Ðông hết thảy.

Các sãi kinh hãi nói rằng:

- Thiệt là quái sự lắm! Hồi hôm không có giông tố, sao cây tòng ngả ngọn về Ðông?

Một người học trò cũ của Tam Tạng nói rằng:

- Mau lấy y phục ra đây, đặng mặc vào mà nghinh tiếp, vì sư phụ thỉnh kinh đã về.

Các sãi hỏi rằng sao mà biết. Người học trò cũ đáp rằng:

- Năm trước thầy đi có dặn: "Ta đi không biết chừng nào trở lại, hoặc năm ba năm, hoặc sáu bảy năm. Hễ ngó thấy cây tòng trước cửa ngả ngọn qua hướng Ðông, thì ta đã về tới." Bởi thầy có lời nói trước rõ ràng, nên tôi mới biết.

Các sãi đồng mặc áo dài bước ra, mới tới ngã ba nghe người nói chuyện rằng:

- Thầy thỉnh kinh về mới tới. Hoàng đế đang rước vào thành.

Các sãi nghe nói mừng rỡ chạy theo, gặp ngự giá đi trước, các sãi không dám lại gần, đi theo sau đến Ngọ Môn.

Khi ấy Tam Tạng xuống ngựa, đi với các đệ tử vào đền, đứng trước sân chầu với các đệ tử.

Vua Thái Tôn truyền chỉ, đòi Ðường ngự đệ lên dựa ngai vàng, mời ngồi ghế cẩm đôn.

Tam Tạng tạ ơn rồi ngồi xuống, bảo đệ tử khiêng kinh lên.

Tôn Hành Giả lấy mấy gói kinh, đưa chuyển cho quan nội thị, quan nội thị dâng lên.

Vua Ðường Thái Tôn phán hỏi rằng:

- Ngự đệ làm sao mà thỉnh kinh đặng? Số kinh ấy bao nhiêu?

Tam Tạng tâu rằng:

- Bần tăng khi tới núi Linh Sơn, yết kiến Phật Tổ. Phật Tổ sai hai vị tôn giả A Nang, Ca Diếp dẫn vào lầu báu thết cơm chay, rồi đưa vào gác trao kinh. Hai vị tôn giả ấy đòi lễ, vì không chuẩn bị, không có vật gì biếu, hai vị chỉ trao kinh vô tự. Bần tăng quay lại trình bày van xin tha thiết với Phật Tổ. Phật Tổ giảng nghĩa thỉnh kinh quý phải có vật thế mới đặng vuông tròn. Bần tăng phải biếu hai vị tôn giả ấy chiếc bát tộ vàng thì mới được trao kinh có chữ. Số kinh gồm ba mươi lăm bộ, hai vị chọn một số quyển trong đó trao cho, tổng cộng là năm nghìn lẻ bốn mươi tám quyển. Số ấy là số hợp với số bộ tạng.

Vua Thái Tôn mừng lắm, bèn truyền lệnh:

- Quan Quang Lộc Tự bày tiệc ở điện Đông Các để tạ ơn.

Chợt nhìn thấy ba vị đồ đệ đứng dưới thềm, mặt mũi dị thường, nhà vua bèn hỏi:

- Mấy người này là người ở đâu?

Tam Tạng thưa:

- Đại đồ đệ họ Tôn, pháp danh Ngộ Không, thần quen gọi là Tôn Hành Giả. Là người động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, nước Ngạo Lai, thuộc Đông Thắng Thần Châu. Năm trăm năm trước, do đại náo thiên cung, bị Phật Tổ nhốt trong một chiếc hộp đá đè dưới núi Lưỡng Giới ở Tây Phiên, đội ơn đức Quan Âm Bồ Tát khuyến thiện, hắn tình nguyện quy y, thần khi đi qua đó đã cứu hắn ra, công lao bảo hộ dọc đường là nhờ ở hắn nhiều lắm. Nhị đồ đệ họ Trư, pháp danh Ngộ Năng, thần thường gọi hắn là Trư Bát Giới. Hắn vốn ở động Vân San núi Phước Lăng. Do hắn làm yêu quái ở thôn Cao Lão, nước Ô Tư Tạng, rồi đội ơn Bồ Tát khuyến thiện, lại được Hành Giả thu phục, dọc đường chịu khó gánh hành lý, lội nước cũng có công. Tam đồ đệ họ Sa, pháp danh Ngộ Tịnh, thần còn gọi là Sa Tăng. Hắn vốn là yêu quái sông Lưu Sa, đội ơn Bồ Tát khuyến thiện, theo đạo Sa Môn. Còn con ngựa này không phải là của bệ hạ ban cho đâu.

Vua Thái Tôn nói:

- Màu lông giống hệt, sao lại không phải?

Tam Tạng thưa:

- Khi thần lội qua khe Ưng Sầu, núi Xà Bàn, con ngựa đó bị con ngựa này, lúc đó còn là con rồng bị tội, ăn thịt mất. May nhờ Hành Giả tìm hỏi mới biết hắn là thái tử của Tây Hải Long Vương, vì có tội, may được Bồ Tát cứu thoát, bảo hắn làm ngựa đỡ sức chân cho thần. Khi ấy hắn biến thành con ngựa giống y con ngựa trước, nên bệ hạ không phân biệt được. Dọc đường hắn trèo đèo lội suối, vượt núi băng ngàn, khi đi thần cưỡi, lúc về chở kinh, toàn nhờ vào sức hắn cả. Đây thực là long mã, không phải ngựa thường.

Thái Tôn nghe xong, thán phục mãi không thôi, đoạn lại hỏi:

- Đường sang Tây Phương xa độ bao nhiêu?

Tam Tạng thưa:

- Theo lời Bồ Tát là mười vạn tám nghìn dặm. Dọc đường thần chẳng ghi được mọi điều, chỉ biết rằng đã trải qua mười bốn lần nóng lạnh, ngày ngày vượt núi, tháng tháng băng đèo, qua bao rừng thẳm, lội bao sông sâu, đi qua kể cũng nhiều nước, tới nước nào đều có đóng dấu vào điệp văn.

Đoạn Tam Tạng gọi:

- Đồ đệ, mang điệp văn lại đây nộp trả cho đức vua.

Điệp văn được dâng lên, Thái Tôn nhìn xem thấy tờ giấy cấp vào ngày trước ngày rằm tháng Chín năm Trinh Quang thứ mười ba ba ngày, bèn cười nói:

- Lặn lội lâu ngày vất vả quá! Hiện tại đã là năm Trinh Quang thứ hai mươi bảy rồi.

Tờ điệp văn có đóng dấu nước Bảo Tượng, nước Ô Kê, nước Xa Trì, nước Tây Lương đàn bà, nước Tế Thại, nước Chu Tử, nước Tỳ Khưu, nước Diệt Pháp, còn có cả dấu của quận Phụng Tiên, châu Ngọc Hoa, phủ Kim Bình nữa. Thái Tôn xem xong, sai cất đi.

Chợt có quan đương giá tới mời đi dự tiệc, Thái Tôn bèn dắt tay Đường Tăng cùng xuống điện. Thái Tôn hỏi:

- Mấy đồ đệ có biết nghi lễ không?

Tam Tạng thưa:

- Đồ đệ của thần đều xuất thân là yêu quái chốn rừng rú thôn quê, chưa từng am hiểu nghi lễ của thánh triều Trung Hoa, muôn xin bệ hạ tha tội.

Thái Tôn cười nói:

- Không bắt tội đâu! Không bắt tội đâu! Xin mời cả vào điện Đông Các dự tiệc.

Tam Tạng tạ ơn, gọi cả ba người vào điện cùng dự. Quả là đại quốc Trung Hoa, thật khác hẳn những nơi khác.

Bốn thầy trò cùng văn võ bá quan ngồi ở hai bên, hoàng đế Thái Tôn ngồi ở chính giữa. Các đội múa hát sáo đàn tề chỉnh trang nghiêm. Mọi người dự tiệc vui vẻ suốt một ngày.

Tối hôm ấy, tiệc tạ ơn xong xả. Thái Tôn quay về cung, các quan cũng lui chầu. Thầy trò Đường Tăng về nghỉ ở chùa Hồng Phúc, các nhà sư trong chùa dập đầu đón tiếp. Vừa vào tới cửa chùa, các nhà sư đã nói:

- Thưa sư phụ, ngọn cây này hôm nay bỗng nhiên đều ngả về hướng Đông, chúng con nhớ lời sư phụ ngày xưa, bèn ra ngoài thành đón tiếp, quả nhiên thấy sư phụ đã về.

Tam Tạng vui mừng khôn xiết, bèn bước vào phương trượng. Lúc ấy Bát Giới không hề ăn uống tí gì, cũng không nói năng ầm ĩ ồn ào. Hành Giả, Sa Tăng cũng điềm đạm ít nói. Ấy là do đạo quả đã hoàn toàn, nên tự nhiên an tĩnh như vậy.

Sáng hôm sau, Thái Tôn khai triều, nói với quần thần:

- Trẫm nghĩ tới công lao của ngự đệ sâu xa rộng lớn, không gì báo đền được. Đêm qua trẫm không ngủ, ứng khẩu mấy câu nôm na, nhưng chưa viết ra giấy.

Đoạn truyền lệnh:

- Quan trung thư lại đây, trẫm đọc cho khanh viết.

Bài văn viết rằng:

Quan trung thư viết xong, nhà vua cho gọi thánh tăng vào. Khi ấy Tam Tạng đã đứng đợi ngoài triều môn chờ lạy tạ, nghe nói nhà vua cho vời vào, bèn bước vào phủ phục làm lễ. Thái Tôn mời lên điện, đưa bài văn cho Tam Tạng xem. Xem xong, Tam Tạng lại cúi lạy tạ ơn, thưa rằng:

- Văn từ của bệ hạ lời lẽ cao cả, nghĩa lý sâu xa, nhưng chưa rõ tên gọi là gì?

Thái Tôn nói:

- Ấy là trẫm ứng khẩu lúc đêm khuya để tạ ơn ngự đệ đấy. Vậy gọi là bài Thánh Giáo Tự không biết có được chăng?

Tam Tạng dập đầu tán thưởng mãi không thôi. Lúc ấy trăm quan lạy mừng đảnh lễ bài ngự văn thánh giáo, rồi truyền khắp trong ngoài.

Thái Tôn nói:

- Ngự đệ hãy tụng chân kinh một lần xem sao.

Tam Tạng nói:

- Thưa bệ hạ, muốn diễn chân kinh phải vào nơi đất Phật. Điện báu của bệ hạ không phải là nơi tụng kinh.

Thái Tôn mừng lắm, lập tức hỏi quan đương giá:

- Thành Tràng An có chùa nào thanh tịnh?

Quan đại học sĩ là Tiêu Vũ từ trong ban bước ra tâu:

- Trong thành có chùa Nhạn Tháp là thanh tịnh.

Vua Thái Tôn bèn tức thời truyền lệnh cho các quan:

- Mau thành tâm mang mấy quyển chân kinh cùng trẫm tới chùa Nhạn Tháp, để mời ngự đệ tới giảng kinh.

Các quan ai nấy mang vài quyển theo xa giá đưa Thái Tôn tới chùa, dựng một ngôi đài cao, sắp xếp ngay ngắn.

Tam Tạng ra lệnh:

- Bát Giới, Sa Tăng dắt con long mã, gánh hành lý. Hành Giả đứng bên cạnh ta.

Lại quay sang phía Thái Tôn nói:

- Bệ hạ muốn truyền bá chân kinh trong thiên hạ thì phải sao lục thành một bản phụ khác, thì mới truyền bá được. Còn nguyên bản phải giữ gìn trân trọng không được xem thường.

Thái Tôn cười nói:

- Lời ngự đệ đúng lắm! Đúng lắm!

Đoạn cho gọi các quan trong viện hàn lâm và khoa trung thư sao chép chân kinh. Lại cho dựng một ngôi chùa ở phía Đông thành đặt tên là chùa Đằng Hoàng.

Tam Tạng mang mấy quyển kinh lên đài, đang định tụng niệm, bỗng ngửi thấy mùi gió thơm phảng phất, tám vị Đại Kim Cang hiện thân giữa tầng không cất tiếng gọi lớn:

- Hỡi người tụng kinh, hãy theo chúng tôi về Tây!

Bọn Hành Giả đứng dưới đài và cả con ngựa bạch bỗng từ mặt đất bay thẳng lên trời. Tam Tạng cũng buông mấy quyển kinh, từ đài cao bay vút lên chín tầng mây cưỡi gió bay đi.

Thái Tôn và các quan vội vàng ngẩng lên trời lễ bái.

Thái Tôn và các quan lạy tạ xong, sau đó sai kén cao tăng tới chùa Nhạn Tháp, dựng đàn chay thủy lục, tụng bộ Địa Tạng Chân Kinh, siêu thoát cho các oan hồn cõi U Minh, ban rộng thiện phúc, và cho sao chép số kinh ấy để truyền bá khắp thiên hạ. Chuyện không nhắc nữa.

Lại nói chuyện tám vị Đại Kim Cang cưỡi làn gió thơm đưa bốn vị trưởng lão cùng con ngựa quay về Linh Sơn, cả đi cả về vừa đúng tám ngày.

Lúc ấy chư Phật ở Linh Sơn đang nghe giảng kinh trước mặt Phật Tổ. Tám vị Kim Cang dẫn thầy trò Đường Tăng vào thưa với Như Lai:

- Đệ tử vâng sắc chỉ đưa mấy vị thánh tăng về nước nộp kinh văn, nay trở lại dâng trả sắc chỉ.

Đoạn gọi thầy trò Đường Tăng vào nhậm chức.

Như Lai nói:

- Này thánh tăng, kiếp trước ngươi là đồ đệ thứ hai của ta, tên gọi Kim Thiền Tử. Chính vì ngươi không chịu nghe thuyết pháp, coi thường đạo giáo của ta, nên ta đày ngươi xuống cõi phương Đông. Nay mừng ngươi đã quy y, giữ đạo Sa Môn, tuân theo giáo lý của ta, đi thỉnh chân kinh có nhiều công quả, vậy ta gia phong cho chính quả chức to là Chiên Đàn Công Đức Phật. Tôn Ngộ Không trước kia vì nhà ngươi đại náo thiên cung, ta lấy pháp lực vô biên nhốt nhà ngươi dưới núi Ngũ Hành. May mắn nạn to đã hết, đi theo Thích Giáo. Cũng mừng nhà ngươi bỏ ác theo thiện, dọc đường diệt ma trừ quái có công, sau trước vẹn tròn, gia thăng chính quả chức to là Đấu Chiến Thắng Phật. Trư Ngộ Năng, nhà ngươi vốn là thủy thần Thiên Hà, giữ chức Thiên Bồng nguyên soái, chỉ vì nhà ngươi say rượu trong hội Bàn Đào, trêu ghẹo tiên nga, cho nên bị đày xuống đầu thai hạ giới, thân làm súc vật. May mà nhà ngươi biết quý thân người, làm yêu quái ở động Vân San núi Phước Lăng, biết theo về đại giáo, vào cửa Sa Môn của ta, dọc đường bảo vệ thánh tăng. Tuy tính ương vẫn còn, sắc tình chưa hết, nhưng dọc đường gánh hành lý có công, gia phong nhà ngươi chức chính quả là Tịnh Đàn Sứ Giả.

Bát Giới lầu bầu:

- Mọi người đều thành Phật, tại sao chỉ mỗi mình ta là Tịnh Đàn Sứ Giả?

Như Lai nói:

- Tại nhà ngươi ăn khỏe tính lười, dạ dày to lắm. Mà khắp bốn đại bộ châu trong thiên hạ, những nơi ngưỡng mộ đạo ta rất nhiều, phàm các việc Phật, ta giao cho nhà ngươi làm tịnh đàn, cũng là một chức phẩm có được ăn uống, sao lại không tốt? Còn Sa Ngộ Tịnh, nhà ngươi vốn là Quyển Liêm Đại Tướng, do đánh vỡ chiếc chén ngọc lưu ly trong hội Bàn Đào, nên bị đày xuống hạ giới, ở sông Lưu Sa làm yêu quái bắt người ăn thịt, sau đó may mắn theo giáo lý của ta, thành kính giữ gìn, bảo hộ thánh tăng, dắt ngựa trèo non có công, gia phong chính quả chức to làm Kim Thân La Hán.

Rồi Phật Tổ lại nói với Long Mã:

- Nhà ngươi vốn là con của Tây Hải Long Vương. Do nhà ngươi trái mệnh cha, mắc vào tội bất hiếu. May được quy y đạo pháp, theo đạo Sa Môn, hàng ngày cõng thánh tăng sang Tây, lại cõng thánh tăng về Đông có công, ta gia phong cho nhà ngươi chức chính quả là Bát Bộ Thiên Long.

Bốn vị trưởng lão đều dập đầu tạ ơn. Con ngựa cũng cúi đầu lạy tạ. Phật Tổ sai các vị Yết Đế dẫn con ngựa xuống thung lũng đằng sau núi Linh Sơn, đến bên ao để hóa rồng. Con ngựa được đẩy xuống ao, trong chớp mắt vươn mình, trút hết da lông, vẩy vàng mọc ra khắp người, râu bạc dài hai bên mép, khắp người khí đẹp, bốn vuốt mây lành, hóa rồng bay ra khỏi ao, lượn quanh cửa chùa, sừng sững chống trời trên cây hoa biểu. Chư Phật đều không ngớt tán thưởng pháp lực của Như Lai.

Tôn Hành Giả nói với Đường Tăng:

- Thưa sư phụ, bây giờ tôi đã thành Phật giống sư phụ rồi, mà vẫn phải đội mãi cái vòng kim cô này. Sư phụ từ nay vẫn đọc chú cẩn cô để bóp đầu hay sao? Sư phụ mau mau đọc chú tòng cô, tháo vòng ra đập bể đi, đừng để Bồ Tát mang đi hại người khác nữa!

Đường Tăng nói:

- Trước đây chỉ vì ngươi khó bảo, nên phải dùng phép đó để chế ngự. Nay đã thành Phật, cái vòng ấy tự nhiên cũng biến mất, lẽ đâu cứ nằm trên đầu mãi? Ngươi cứ thử sờ lên đầu mà xem?

Hành Giả giơ tay sờ lên đầu, quả nhiên không thấy cái vòng kim cô đâu nữa.

Bấy giờ bốn vị Chiên Đàn Công Đức Phật, Đấu Chiến Thắng Phật, Tịnh Đàn Sứ Giả và Kim Thân La Hán đã đều thành chính quả, con Long Mã cũng được trở về với chân như. Có bài thơ làm chứng rằng:

Một thể chân như lạc xuống trần Hợp hòa bốn tướng lại tu thân Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch Trăm quái hư danh thấy chẳng cần Chính quả chiên đàn theo đại giác Hoàn thành phẩm chức thoát trầm luân Kinh truyền thiên hạ ân vô lượng Năm thánh ngôi cao bất nhị phân.

Lúc ấy năm thánh đã thành chính quả, các vị Phật Tổ, Bồ Tát, Thánh Tăng, La Hán, Yết Đế, Tỳ Khưu, Ưu Bà Di, Ưu Bà Tắc, các vị thần tiên ở các núi các động, các vị thần Lục Đinh, Lục Giáp, Công Tào, Già Lam, Thổ Địa, cùng các vị sư tiên đắc đạo tới nghe giảng kinh, đến bây giờ đều ra về.

Mọi người chắp tay cùng niệm:

- Nam Vô Nhiên Đăng Thượng Cổ Phật. Nam Vô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Nam Vô Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Vô Quá Khứ Vị Lai Hiện Tại Phật. Nam Vô Thanh Tịnh Hỉ Phật. Nam Vô Tỳ Lư Thí Phật. Nam Vô Bảo Tràng Vương Phật. Nam Vô Di Lặc Tôn Phật. Nam Vô A Di Đà Phật. Nam Vô Vô Lượng Thọ Phật. Nam Vô Tiếp Dẫn Quy Chân Phật. Nam Vô Kim Cương Bất Hoại Phật. Nam Vô Bảo Quang Phật. Nam Vô Long Tôn Vương Phật. Nam Vô Tinh Tiến Thiện Phật. Nam Vô Bảo Nguyệt Quang Phật. Nam Vô Hiện Vô Ngu Phật. Nam Vô Bà Lưu Na Phật. Nam Vô Na La Diên Phật. Nam Vô Công Đức Hoa Phật. Nam Vô Tài Công Đức Phật. Nam Vô Thiện Du Bộ Phật. Nam Vô Chiên Đàn Quang Phật. Nam Vô Ma Xi Tràng Phật. Nam Vô Tuệ Cừ Chiếu Phật. Nam Vô Hải Đức Quang Minh Phật. Nam Vô Đại Từ Quang Phật. Nam Vô Từ Lực Vương Phật. Nam Vô Hiến Thiện Thủ Phật. Nam Vô Quảng Trang Nghiêm Phật. Nam Vô Kim Hoa Quang Phật. Nam Vô Tài Quang Minh Phật. Nam Vô Trí Tuệ Thắng Phật. Nam Vô Thế Tinh Quang Phật. Nam Vô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật. Nam Vô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật. Nam Vô Diệu Am Thanh Phật. Nam Vô Tu Di Quang Phật. Nam Vô Đại Tuệ Lực Vương Phật. Nam Vô Kim Hải Quang Phật. Nam Vô Đại Thông Quang Phật. Nam Vô Tài Quang Phật. Nam Vô Chiên Đàn Công Đức Phật. Nam Vô Đấu Chiến Thắng Phật. Nam Vô Quan Thế Âm Bồ Tát. Nam Vô Đại Thế Chí Bồ Tát. Nam Vô Văn Thù Bồ Tát. Nam Vô Phổ Hiền Bồ Tát Chư Bồ Tát. Nam Vô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Nam Vô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. Nam Vô Tây Thiên Cực Lạc Chư Bồ Tát. Nam Vô Tam Thiên Yết Đế Đại Bồ Tát. Nam Vô Ngũ Bách La Hán Đại Bồ Tát. Nam Vô Tỳ Khưu Di Tắc Ni Bồ Tát. Nam Vô Vô Biên Vô Lượng Pháp Bồ Tát. Nam Vô Kim Cương Đại Sĩ Thánh Bồ Tát. Nam Vô Tịnh Đàn Sứ Giả Bồ Tát. Nam Vô Bát Bảo Kim Thân La Hán Bồ Tát. Nam Vô Bát Bộ Thiên Long Quảng Lực Bồ Tát.

Ấy là niệm chư Phật ở tất thảy thế giới.

Nguyện đem thửa công đức Đất Phật Tổ trang nghiêm Trên báo bốn trọng ơn Dưới cứu ba đường khổ Những kẻ kiến văn tỏ Ắt phát tâm Bồ Đề Cõi Cực Lạc theo về Thân này được tận báo.

Tất cả các vị Phật ở mười phương ba cõi, chư tôn Bồ Tát ma ha tát. Ma ha bát nhã ba la mật.

Ấy là truyện Tây Du sự tích bao nhiêu đó là hết.