← Quay lại trang sách

Chương 1 Tây Vực có quỷ, -Phật tử từ phương đông tới

Năm Trinh Quán thứ ba, mùa đông tháng Mười một. Huyền Trang một mình chạy trốn đến sa mạc Mạc Hạ Diên trải dài tám trăm dặm, chỉ dắt theo một con ngựa gầy.

Vùng “cát chảy Tây Hải” này đã được lưu lại trong sử sách Tiền Tần. Dưới ngòi bút của hậu thế Ngô Thừa Ân, Lưu Sa Hà[29] quả thật xứng danh là “Bát bách Lưu Sa giới, tam thiên nhược thủy thâm. Nga mao phiêu bật khởi, lô hoa định để trầm.”[30] (Tạm dịch: Sông Lưu Sa trải dài tám trăm dặm, nước sâu ba ngàn trượng, lông ngỗng không nổi được, hoa lau cũng phải chìm.) Nhưng không giống với sự tưởng tượng lãng mạn của văn nhân, đây là ranh giới mong manh giữa sống và chết, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy sa mạc Qua Bích trải rộng mênh mông, cát vàng nối liền với trời xanh, quanh năm gió lớn gào thét, bão cát bào mòn đài đất cao nguyên, hình thành nên những gò đất hình thù quỷ quái. Ban ngày mặt đất nóng bỏng, trước mắt dường như luôn có một lớp không khí như sương mù bao phủ, bước một bước, cảnh vật xung quanh đều giống như đang chuyển động. Ban đêm thì lạnh thấu xương, có không ít những bóng ma chập chờn ẩn hiện.

Càng tuyệt vọng hơn là, ngày thứ hai bước vào sa mạc Mạc Hạ Diên, Huyền Trang lỡ tay đánh đổ túi nước của mình, một túi nước sạch nhanh chóng thấm vào trong cát. Cho đến hiện tại, đã năm ngày bốn đêm rồi ngài vẫn chưa được uống giọt nước nào, một người một ngựa chỉ dựa vào bản năng mà di chuyển từng bước từng bước một trong gió cát khô nóng. Dưới chân không có đường, dẫn đường cho ngài chỉ là những hài cốt của la, ngựa và lạc đà nằm rải rác trước mặt, thỉnh thoảng còn thấy cả sọ người bị vùi một nửa trong cát vàng, hốc mắt trống rỗng nhìn chăm chú vào người đến sau. Huyền Trang cảm thấy xung quanh mờ mịt, ma trơi từ những hài cốt đến ban đêm lại lập lòe ma mị, lấp lánh tựa sao trời, ban ngày thì gió mạnh mang theo cát cuốn bụi mù, tán loạn như mưa.

Thể lực của Huyền Trang đã kiệt quệ, cả người nóng bừng bừng, đầu óc choáng váng, trước mắt xuất hiện ảo giác, trong thoáng chốc ngài nhìn thấy một đội quân mấy trăm người đang cưỡi lạc đà, tất cả bọn họ đều ăn mặc theo kiểu người Hồ, lúc đi lúc dừng, cát bụi đầy người, biến ảo khôn cùng. Nhìn từ xa có thể thấy rõ ràng, đến gần lại biến mất không thấy dấu vết.

Ngài biết bản thân như vậy là đã tận sức, chạm đến điểm tận cùng của sự sống, để mặc cho yêu ma quấy phá, xâm nhập vào cơ thể. Cả người lẫn ngựa ngã gục xuống cồn cát, đợi chờ cái chết đang tới gần. Huyền Trang thầm niệm lời thỉnh nguyện tới Quan Thế Âm Bồ Tát: “Đệ tử phát nguyện đi Thiên Trúc lấy kinh, chẳng vì ham tài phú, cũng không phải vì muốn thăm thú nơi đất Phật, mà chỉ một lòng thỉnh cầu được chánh pháp vô thượng hòng làm lợi lạc cho chúng sinh hữu tình. Thỉnh cầu Bồ Tát đại từ đại bi, tìm theo tiếng đệ tử cầu khẩn mà ra tay cứu khổ, loại trừ tai ách!”.

Sau đó, ngài dần rơi vào trạng thái hôn mê, trong cơn mê lại có một vị thần thân mang giáp vàng, tay cầm trường kích, miệng quát to: “Còn không mau đứng dậy đi tiếp!”.

Huyền Trang thoáng rùng mình, ngài bỗng thấy tỉnh táo trở lại, đúng lúc này một trận gió thổi tới, mát lạnh như tắm mình trong nước đá. Một người một ngựa tinh thần lập tức phấn chấn hơn hẳn, Huyền Trang gắng gượng bò dậy, nằm sấp trên lưng ngựa, tiếp tục tiến về phía trước. Đi được thêm mười mấy dặm, con ngựa gầy kia đột nhiên hí dài một tiếng, rồi tựa như phát điên mà chạy một mạch mấy mươi dặm, đến bên một đồi cát, Huyền Trang bị bất ngờ không tránh khỏi kinh hãi.

Dưới ánh mặt trời, ánh sáng lóe lên từ một lưỡi đao lọt vào tầm mắt của ngài.

Thanh loan đao cắm sâu vào nền cát vàng, bên cạnh là một cỗ thi thể. Nơi này tựa như vừa phát sinh một trận chiến, thi thể nằm ngổn ngang, chừng sáu bảy mươi người, la và lạc đà đều bị tên nhọn bắn chết, phần đầu và tứ chi người bị đao kiếm chặt đứt, cát vàng thấm đẫm máu tươi, bãi cát trải mình dưới ánh mặt trời lóa lên ánh sáng kinh người.

Huyền Trang nhìn xuống nền đất ấy đến ngây người, rồi trở mình xuống ngựa, loạng choạng chạy tới đó, lật thi thể của từng người một lên xem xét, không còn ai sống sót, xác đã cứng từ lâu rồi, máu cũng đã đông lại. Hiện trường chỉ còn là một bãi tan hoang, từng bọc lông cừu chất trên lưng những con la đều bị xé rách, lông cừu bay lả tả khắp mặt đất; những tấm da dê dính đầy máu tươi trộn lẫn với cát bẩn. Trong cát vàng còn vương vãi đủ loại hương liệu trân quý và những mảnh đường thốt nốt, Huyền Trang thậm chí còn tìm được hai miếng ngọc mắt mèo màu xanh lục nằm lẫn trong cát.

Dựa vào vóc dáng đến cách ăn mặc của những xác chết này mà suy xét thì có thể thấy họ hẳn phải là một đoàn thương lữ đang di chuyển trên Con đường Tơ lụa. Đa số những người này có tướng mạo gần giống với người Hồ ở vùng biên cương, phỏng chừng là đến từ các nước Tây Vực. Một số khác thì mắt sâu, mũi cao, râu và tóc đều xoăn, có lẽ là đến từ thế giới phương tây xa xôi hơn. Trên thực tế, chuyện này cũng chẳng lấy gì làm lạ, lộ trình vượt Con đường Tơ lụa nguy hiểm trùng trùng, các thương lữ thường xuyên kết thành đoàn lớn để di chuyển.

Nhìn qua hiện trường, dường như đoàn thương lữ này đã bị lũ thổ phỉ chặn đánh. Nhưng, Huyền Trang nhanh chóng phát hiện ra điểm bất thường, rất nhiều cuộn da dê và những bọc lông cừu vẫn còn nguyên vẹn, không chút tổn hại, thậm chí còn có vài sọt hương liệu vẫn đang được buộc chặt trên lưng lạc đà, đám thổ phỉ không hề vơ vét những kiện hàng quý giá ấy đi.

Lẽ đương nhiên, đám thương lữ từ Ba Tư, Thổ Hỏa La[31] (Tochari) và người Hồ đến từ các tiểu quốc Chiêu Vũ[32], bởi vì quan ngại đường xá xa xôi, nên đa số đều chỉ chọn những mặt hàng dễ vận chuyển mà giá trị cao như đá quý, sợi vàng bạc, hương liệu, đồng tự nhiên. Bọn họ phải di chuyển tới Tây Đột Quyết mới có thể mua được da dê và lông cừu, rồi vận chuyển đến Đại Đường bán để kiếm lời. Nhưng ở Y Ngô thì giá của những miếng da dê và lông cừu này vẫn khá đắt đỏ, đặc biệt là hương liệu, giá của chúng lại càng cao hơn, vì sao đám thổ phỉ này lại không buồn cướp đi chứ?

“Cốc… cốc… cốc…” Trong sa mạc yên tĩnh, đột nhiên truyền tới âm thanh rất khẽ, hình như là tiếng va chạm nhỏ.

Huyền Trang vừa sợ hãi vừa kinh ngạc, ngài men theo âm thanh đó mà lật tìm trong đống thi thể. Ngài sớm đã quên hết mọi mệt mỏi, liên tục kiểm tra hơn hai mươi thi thể, lúc này mới phát hiện ra, có một ông lão người Hồ đầu đội mũ dạ chóp nhọn sừng dê đang bị đè dưới xác một con lạc đà. Phần ngực của ông lão dường như bị cắt phanh ra, xương sườn gẫy gập, đang trong tình trạng thoi thóp chờ chết, nhưng ngón tay vẫn cố chấp gõ lên cái giá gỗ trên xác con lạc đà, phát lên những tiếng cốc cốc.

“Thí chủ, thí chủ!” Huyền Trang vội vàng ôm lấy ông lão, nhẹ nhàng vỗ lên mặt ông ta.

Một lúc lâu sau mắt của ông lão mới hé mở, khi nhìn thấy trước mặt mình là Huyền Trang - một vị hòa thượng, mới thấy an tâm hơn một chút, rồi mở miệng thì thào nói gì đó, là tiếng ngoại quốc, Huyền Trang nghe không hiểu dù chỉ một từ. Ông lão thở dốc một hơi, trong mắt lộ rõ sự sợ hãi, nắm chặt lấy bàn tay ngài, thì thào bằng tiếng Hán: “Trong… trong bình… có quỷ!”.

“Cái gì cơ?” Huyền Trang kinh ngạc, áp sát tai bên miệng ông lão.

Ông lão kia dùng hết sức gào to đến lạc cả giọng: “Trong bình… có quỷ!”.

Lời còn chưa dứt, thân người ông lão xuội lơ, cánh tay cũng rũ xuống. Hai mắt hãy còn mở to, lộ rõ sự sợ hãi tột độ, nhìn chằm chằm vào Huyền Trang.

“Trong bình có quỷ? Là ý gì vậy?”

Huyền Trang nhíu mày suy nghĩ, sau đó ngài đặt xác ông lão nằm xuống nền cát, rồi đứng dậy, thất thần quan sát vùng đất chết chóc này. Lúc này, bên kia cồn cát truyền đến tiếng hí của con ngựa gầy. Huyền Trang lảo đảo bước trên cồn cát, sóng mắt chớp động, ngài dường như không dám tin vào mắt mình nữa, trước mắt ngài là làn nước biếc, cây cỏ xanh tốt, một hồ nước trong, một vùng thảo nguyên tươi đẹp hiện ra như một viên ngọc xanh khảm trên nền cát vàng của sa mạc.

Huyền Trang cho rằng đó là ảo giác, không dám vươn tay chạm tới, nhưng con ngựa gầy kia lại chạy như bay xuống cồn cát, vục đầu uống nước trong hồ. Huyền Trang tỉnh ra, mới chạy bổ xuống đó. Đến bên hồ, ngài lại không vội uống nước ngay, mà từ tốn lấy phiên lọc từ trong bọc hành lý trên lưng ngựa ra. Dựa theo giới luật nhà Phật, loại nước này được gọi là “thời thủy”, bắt buộc phải lọc xong mới có thể uống[33].

Nước hồ mát rượi chảy vào trong cơ thể, Huyền Trang lúc này mới cảm nhận được sự sống đang dần trở lại với cơ thể mình. Ngài quay lại bên đống thi thể, lật tìm trên người những nạn nhân xấu số ấy được mấy miếng bánh nang để lấp đầy cái bụng. Sau đó ngồi xếp bằng trên sa mạc, niệm “Chú Vãng Sanh”, xong xuôi thì bắt đầu đào hố trên nền cát, chôn cất từng thi thể một.

Đây quả là công việc tiêu tốn rất nhiều sức lực, tổng cộng có hơn sáu mươi thi thể, còn có hơn hai trăm xác la và lạc đà, Huyền Trang thở hồng hộc, đào xới hơn ba tiếng đồng hồ mới chôn được có hơn hai mươi thi thể. Sa mạc khô hanh, nóng như thiêu như đốt, ngài mệt đến mức mồ hôi đầm đìa, sau đó thực sự không chịu đựng nổi nữa, bèn ngồi bệt xuống đất.

Chính vào lúc này, ngài nhìn thấy có bóng người thoáng hiện trên đỉnh cồn cát, nhưng thoắt cái lại không thấy đâu. Huyền Trang vô cùng kinh hãi, dụi dụi mắt, cho rằng là mình hoa mắt, ngay sau đó ngài lại nghe thấy một loạt tiếng bước chân vội vàng chạy đi xa. Ngài nhổm dậy, chạy lên cồn cát, nhất thời kinh ngạc không thôi, ngài chỉ nhìn thấy một đứa trẻ thân thể trần truồng đang sợ hãi, cắm đầu chạy như điên trên sa mạc, đến bên hồ nước thì tung người nhảy xuống, bơi đến giữa hồ mới quay đầu lại nhìn ngài.

Huyền Trang há hốc miệng, chậm rãi đi tới, đứng bên bờ hồ nhìn cậu bé. Đứa trẻ kia khoảng chừng tám chín tuổi, màu da trắng nhợt, mái tóc màu vàng xoăn tít, sống mũi cao thẳng, hốc mắt sâu, không ngờ cặp mắt của nó lại có màu xanh lam. Có chút giống người Túc Đặc hoặc người Nhã Lợi An[34] (Aryan) vùng Thổ Hỏa La.

“A Di Đà Phật!”, Huyền Trang chắp tay trước ngực bái lạy cậu bé, “tiểu thí chủ, đừng sợ, bần tăng là hòa thượng đến từ Đại Đường, không có ác ý”.

Đứa trẻ sợ sệt nhìn ngài, hai tay gạt nước, nghiêng đầu nghi ngờ. Huyền Trang mỉm cười, vươn tay về phía cậu bé, tỏ ý bảo cậu lên bờ. Đứa trẻ kia lại tỏ ra hoảng sợ, đột nhiên chúi đầu lặn sâu xuống nước. Huyền Trang vô cùng kinh ngạc, bọt nước nổi lên, đứa trẻ kia lại ngoi đầu lên, giơ tay ném một nắm bùn cát về phía ngài, nắm bùn ấy ập thẳng vào mặt của Huyền Trang.

Huyền Trang giật mình. Bùn cát rơi từ trên mặt xuống, ngài cười khổ một tiếng, đưa tay lên vừa lau mặt vừa giải thích: “Bần tăng thật sự không có ác ý. Những thi thể kia là người thân của cháu sao? Cháu có thể lên bờ không, cùng bần tăng mai táng cho bọn họ? Nếu để họ phơi thây nơi hoang dã, sẽ không thể vào được tịnh thổ luân hồi.”

“Ông… không thể… chạm vào thi thể…” Đứa trẻ nọ đột nhiên nói lớn. Cậu bé nói tiếng Hán, mặc dù khẩu âm nghe qua thì có phần kỳ quái, nhưng giọng đọc vẫn rõ ràng từng chữ, hẳn phải từng được dạy dỗ rất cẩn thận.

“Là sao?” Huyền Trang không hiểu.

“Ông không thể động vào thi thể!” đứa trẻ kia quát lớn: “Người sau khi chết, bị tà linh xâm nhập, thể xác trở nên dơ bẩn, bất cứ ai, bao gồm cả thân sinh phụ mẫu cũng đều không được chạm vào nó”.

Huyền Trang dở khóc dở cười: “Vậy thì, ai có thể động vào những thi thể ấy đây?”.

“Người vác xác, bọn họ chuyên xử lý thi thể.” Đứa trẻ nghiêm túc nói: “Hơn nữa không thể chôn xuống đất, thi thể quá dơ bẩn, hỏa táng thì ô nhiễm lửa, thủy táng thì ô nhiễm nước, thổ táng thì ô nhiễm đất. Thi thể bắt buộc phải được dìm vào nước tiểu của con bò đực màu trắng để tẩy rửa sạch sẽ, thay y phục chính đạo, cột đai lưng Thánh, mới có thể nối liền với Thánh tiên tri…”.

Huyền Trang bất chợt hiểu ra, thấp giọng nói: “Hóa ra cháu là giáo đồ Bái Hỏa giáo!”.

“Tỏa La Á Tư Đức giáo[35] (Zoroastrianism)!” Đứa trẻ kia tức giận sửa lại.

Huyền Trang gật đầu, thân là tăng nhân uyên bác nhất cửa Phật, ngài không hề xa lạ gì với Tỏa La Á Tư Đức giáo. Tỏa La Á Tư Đức giáo là tôn giáo phổ biến ở vùng Ba Tư, Trung Quốc gọi là Hiên giáo, Hỏa Hiên giáo hoặc là Bái Hỏa giáo. Vì đa số người Túc Đặc thông thương buôn bán trên Con đường Tơ lụa đều tôn thờ tín ngưỡng Bái Hỏa giáo, nên ở Trường An có không ít chùa của Hỏa giáo, người Đại Đường gọi những ngôi chùa này là Hiên từ (tức nhà thờ Hiên giáo).

Theo quy định của tôn giáo này, thi thể người chết quả thật không được phép mai táng. Bất luận là di chuyển hay là cố định thi thể, đều phải sử dụng dụng cụ bằng sắt hoặc bằng đá, không thể sử dụng dụng cụ bằng gỗ. Bái Hỏa Giáo cho rằng, khi gỗ tiếp xúc với thi thể sẽ bị ô nhiễm, ngược lại dụng cụ bằng đá hoặc sắt có khả năng kháng ô nhiễm. Vì vậy họ đặt thi thể vào trong quan tài đá không có nắp đậy, chuyển vào trong khu nghĩa địa quây tròn không có đỉnh được xây từ đá. Loại nghĩa địa này được gọi là “Tháp tĩnh lặng”. Kiểu thiết kế này có thể thuận tiện cho đám chim kền kền đến ăn xác người, đợi đến khi thịt trên xác người đều bị rỉa sạch, phần xương mới được đặt vào chính giữa tòa tháp, khi ánh nắng mặt trời chiếu xuống, xương bị phong hóa trở thành bột phấn. Khi mùa mưa đến, phấn xương sẽ trôi theo nước mưa và được vôi lọc qua, rồi thuận theo đường ống dẫn nước chôn dưới đất chảy ra biển lớn.

Nghĩ thông suốt chuyện này, Huyền Trang lại thấy có đôi chút khó xử, ngài liền thương lượng với cậu bé kia: “Trong sa mạc này không có đá, làm sao có thể thu xếp ổn thỏa cho những thi thể tộc nhân của cháu đây?”.

Đứa trẻ suy nghĩ một lúc, đôi mắt màu xanh lam ánh lên nỗi bi thương: “Vậy cứ để bọn họ phân tán theo gió cát của đại mạc đi! Có lẽ sẽ có chim kền kền bay đến, đem thịt của họ lên thiên đường”.

Đã nói đến nước này, Huyền Trang cũng không thể làm gì được: “Sống tựa sương buổi sớm, chết như hoa mùa hạ[36]. Có lẽ giữa trời đất này cũng là chốn quay về tốt nhất của chúng sinh!”.

Thông qua lần đối đáp này, đứa trẻ không còn thấy sợ ngài nữa, từ trong hồ nước bơi lên bờ, cứ trần truồng như vậy đứng dưới ánh mặt trời. Huyền Trang thấy vậy mới hỏi: “Quần áo của cháu đâu?”.

Đứa trẻ kia rùng mình một cái, thoạt trông có vẻ sợ hãi. Không còn cách nào, Huyền Trang chỉ có thể tìm một bộ quần áo từ trong bọc hành lý của đám thương lữ, cắt ngắn đi rồi cho cậu bé mặc. Đứa trẻ này rất quật cường, kiên quyết không mặc vì cho rằng quần áo của người chết không sạch sẽ. Huyền Trang phải tận tình khuyên bảo, nói đây là quần áo mới, lấy từ trong bọc hành lý ra, chưa có ai mặc, bằng không cậu chỉ có thể mặc tăng bào của ta thôi.

Đối mặt với chuyện mặc quần áo không mấy “sạch sẽ” và tăng bào của giáo đồ dị giáo, đứa trẻ này chỉ đành miễn cưỡng lựa chọn vế trước. Nhưng không tìm được đôi giày nào nhỏ như vậy, thế là Huyền Trang liền tìm một tấm da dê, bọc chân của cậu ta lại, dùng dây thừng gân bò cột hàng hóa buộc lại cẩn thận.

“Cháu tên là gì?” Huyền Trang hỏi cậu bé.

“A Thuật!” Đứa trẻ nọ dùng ánh mắt phức tạp nhìn Huyền Trang đang vùi đầu bọc chân cho mình, nói: “Cháu là người Túc Đặc, đến từ thành Tát Mã Nhĩ Hãn(Samarkand) - Khang Quốc[37], đi theo thúc thúc đến Đại Đường buôn bán, kết bạn đồng hành với các thương nhân Yên Kỳ[38]. Sau khi đi qua Y Ngô, tối qua khi dựng trại bên hồ này lại gặp phải thổ phỉ, chúng giết chết toàn bộ người trong thương đoàn. Lúc đó cháu đang lén bơi dưới hồ, mới may mắn thoát nạn”.

Cậu bé nghẹn ngào, khẽ đưa tay khoác lên vai Huyền Trang, tỏ ra chút thành ý thân thiện. Huyền Trang thở dài không thôi. A Thuật nói tiếp: “Cháu trốn trong bụi cỏ bên hồ cả một đêm nhưng không dám ra, chỉ sợ bọn cướp còn chưa đi. Mãi cho đến khi nhìn thấy con ngựa của ngài, mới hiểu được lại có thương khách đi ngang qua đây, nhưng không ngờ đó lại là một hòa thượng.” Trên gương mặt cậu bé lộ ra nụ cười, chỉ vào con ngựa gầy, “Con ngựa này thực sự không giống loại ngựa mà bọn cướp sẽ cưỡi”.

Huyền Trang mỉm cười, hỏi: “Thúc thúc của cháu là ai? Cũng gặp nạn rồi sao?”.

A Thuật chỉ vào ông lão người Hồ lúc trước bị con lạc đà đè lên, nói: “Đây chính là thúc thúc của cháu, A Lí Bố Gia Tư Đinh (Alibu Jezdin).”

Huyền Trang im lặng, ngài nhớ đến những lời cuối cùng trước khi chết của Gia Tư Đinh, trong bình có quỷ? Ngài không thể nào hiểu nổi, bèn hỏi A Thuật: “Trước khi thúc thúc của cháu chết có nói với bần tăng một câu: Trong bình có quỷ. Cháu có biết đó là ý gì không?”.

“Trong bình có quỷ?” Mắt A Thuật sáng lên, nhưng rồi cậu bé lại lắc đầu.

Huyền Trang buộc thật kỹ miếng da dê trên chân A Thuật, lại đi dọn hết từng thi thể, nhặt hết những phần xương sọ và tứ chi bị chặt đứt về, xếp gọn bên cạnh cơ thể, cố gắng hết sức để thi thể của họ được hoàn chỉnh. Sau đó, ngài ngồi xếp bằng niệm hai mươi mốt lần “Chú Vãng Sanh”, siêu độ vong linh.

A Thuật ngồi xổm bên cạnh, âm thầm nhìn vị hòa thượng đến từ Đại Đường này, cậu cảm thấy ở ngài toát lên một loại khí chất làm rung động lòng người, ấy chính là năng lực của lòng từ bi nơi ngài, nụ cười như dòng suối trong lành chảy trên núi, như mặt trời mọc nơi đại mạc, khiến người tiếp xúc qua với ngài đều tự nảy sinh cảm giác gần gũi, thân thiện. Trên thực tế, cậu bé đã lén lút quan sát Huyền Trang rất lâu rồi, tận mắt chứng kiến vị hòa thượng này rõ ràng là mệt đến độ muốn gục ngã rồi mà vẫn cố mai táng cho từng thi hài của những người trong thương đoàn, những người mà ngài không hề quen biết, vì thế cậu mới quyết định ra mặt.

“Sư phụ, ngài vào Mạc Hạ Diên này là định đi tới đâu vậy?” A Thuật hỏi.

Huyền Trang mở mắt ra, ngắm nhìn vùng đại mạc phía tây: “Bần tăng lập chí muốn Tây du Thiên Trúc, cầu lấy Như Lai đại pháp. A Thuật, còn con thì sao? Con chỉ có một thân một mình, định làm thế nào đây?”.

A Thuật dụi mắt, hơi nghẹn ngào: “Thúc thúc chết rồi, con muốn về Tát Mã Nhĩ Hãn, trở về bên cạnh phụ thân của con. Đường đến đây, bọn con đã đi hết hơn nửa năm… Sư phụ, Tát Mã Nhĩ Hãn nằm trên đường đi Thiên Trúc, ngài có thể đưa con về nhà được không?”.

Huyền Trang im lặng rất lâu, rồi ngài nhẹ nhàng xoa đầu cậu bé: “Được, bần tăng đưa con về nhà”.

A Thuật nhảy cẫng lên, nụ cười rạng rỡ hiện rõ trên gương mặt. Huyền Trang cũng mỉm cười: “A Thuật, đoàn con đã đi qua Y Ngô, từ nơi này đến Y Ngô còn bao xa? Con còn nhớ đường khi đến không?”.

“Nhớ ạ, nhớ ạ!” A Thuật nói liến thoắng, “Đi về phía tây hơn trăm dặm, chỉ cần một ngày một đêm là tới được Y Ngô. Chẳng riêng gì Y Ngô, mà khi theo thúc thúc đến phương đông, dọc đường cả đoàn đã đi qua mấy chục quốc gia, con đều quen thuộc với địa lí, phong tục và ngôn ngữ của những nơi đó”.

Huyền Trang không ngờ bản thân lại vô tình nhặt được một người dẫn đường, ngài cảm thấy vui mừng khôn xiết. Hai người không nán lại nữa mà lấy nước trong hồ rót đầy vào túi nước. A Thuật lại lấy bánh của người Hồ và thịt khô trong bọc hành lí của thương lữ, gói thành một gói lớn, chất lên lưng con ngựa gầy. Huyền Trang đỡ cậu bé lên ngựa, bản thân thì dắt ngựa, hai người cùng nhau đi về hướng tây.

°°°

Đi tiếp về phía tây, rời xa khu vực trung tâm của Mạc Hạ Diên, sa mạc ngày càng thu hẹp lại, chuyển hóa thành hoang mạc điêu tàn. Bị gió cát bào mòn, tại sa mạc Qua Bích này, đâu đâu cũng thấy những tảng đá có hình thù quái dị, trông giống như tòa thành hay cây nấm, khi gió lớn thổi qua, những khe đá lại phát ra âm thanh kinh hồn nghe như tiếng quỷ hú. Hai người cứ thẳng một đường mà tiến, bên tai lại truyền đến những tiếng vang cục cục, tựa như tiếng ma quỷ nhai nuốt xương người, khiến người nghe muốn sởn tóc gáy, những bóng đen dữ tợn hiện chiếu trên mặt đất, giống như bước chân của vô số loài yêu ma quỷ quái lưu lại nơi đây.

Trông A Thuật có vẻ khá căng thẳng, ngồi trên ngựa còn đưa tay nắm chặt lấy cánh tay của Huyền Trang. Huyền Trang nói cho cậu biết đây gọi là tâm ma, ngài muốn dạy cho cậu niệm “Tâm Kinh”, nhưng A Thuật nhất quyết không chịu học. Huyền Trang lúc này mới nhớ ra cậu bé là giáo đồ Bái Hỏa giáo, nhất thời cảm thấy có chút xấu hổ. A Thuật thấy vậy lại cười ha hả.

Hai người đang đùa giỡn với nhau, đột nhiên nghe thấy có tiếng vó ngựa dồn dập từ hướng tây bắc truyền đến. Sắc mặt A Thuật lập tức thay đổi: “Sư phụ, liệu có phải là bọn cướp lại tới nữa không?”

Huyền Trang lắng nghe một lúc, lắc đầu: “Trước sau chỉ có ba con ngựa, chắc không phải là bọn cướp đâu.”

Tuy nói như vậy, nhưng Huyền Trang vẫn đề cao cảnh giác, sa mạc Mạc Hạ Diên rộng tám trăm dặm, từ xưa đến nay được coi là cấm địa của sự sống, chỉ có thương nhân ham tiền trục lợi thành tính mới dám kết thành đoàn, mạo hiểm đi qua nơi này. Nếu chỉ có khoảng ba con ngựa thì chắc chắn không phải là thương lữ, mà chỗ này cách Y Ngô còn xa, tướng sĩ tuần tra cũng sẽ không tới đây, mấy người này dong ngựa tiến vào sa mạc Mạc Hạ Diên rốt cuộc là có ý đồ gì?

Tiếng vó ngựa ngày càng gần, chỉ thấy ba con tuấn mã phi như bay trong gió cát, ba kỵ sĩ trên lưng ngựa đều mặc áo choàng, trên mặt thì đeo mặt nạ. Ba người này dường như có sẵn mục tiêu, cứ thế dong ngựa chạy thẳng tới, nhưng khi nhìn thấy Huyền Trang và A Thuật ở phía trước, ba người họ lại tỏ ra rất kinh ngạc.

Ba người họ ghìm cương, hướng ngựa đi vòng quanh hai người Huyền Trang hai vòng, người đi đầu vén áo choàng trên người lên, để lộ ra một gương mặt thanh tú. Huyền Trang không khỏi ngẩn người, ngài không nghĩ người đứng trước mặt mình đây lại là người Hán, đến y phục cũng giống với người Đại Đường. Nhưng A Thuật vừa nhìn thấy người này, cả người bỗng run lẩy bẩy, sắc mặt lộ rõ sự sợ hãi.

Trông Huyền Trang lúc này quả thực có phần chật vật, nhếch nhác, ngài một thân một mình vượt sa mạc Mạc Hạ Diên, y áo mặc trên người đã bẩn thỉu vô cùng, phần tóc trên đỉnh đầu cũng mọc dài áng chừng một đốt ngón tay, trên mặt, trên người dính đầy bụi bặm và vết máu, vì tiết trời khô hanh và phơi nắng nhiều nên da mặt ngài nứt nẻ thành vệt sâu hoắm, thậm chí còn rỉ máu. Đôi giày vải ngàn lớp dưới chân ngài cũng đã rách tả tơi, để lộ ra ba đầu ngón chân… Nhưng tinh thần của ngài thì không hề suy giảm, ánh mắt vẫn điềm đạm như mặt hồ bình lặng, trong mệt mỏi vẫn toát lên vẻ ung dung tự tại.

Người trẻ tuổi kia kinh ngạc hồi lâu mới nhận ra Huyền Trang là hòa thượng, liền vội vàng chắp tay thi lễ với ngài: “Hóa ra là một vị đại sư! Không biết đại sư từ đâu tới? Muốn đi về đâu? Tại sao lại đi một mình trong sa mạc Mạc Hạ Diên này?” Cách ăn nói cũng giống như người Đại Đường.

Huyền Trang vội vàng chắp tay: “A Di Đà Phật, bần tăng tên gọi Huyền Trang, đến từ Đại Đường, muốn đi Thiên Trúc cầu Phật”.

Người trẻ tuổi kia bỗng tỏ ra kinh ngạc, vui mừng nói: “Hóa ra ngài chính là đại sư Huyền Trang! Thần Phật phù hộ, ngài… vậy mà lại có thể một mình đi xuyên qua sa mạc Mạc Hạ Diên!”.

Hắn ta vội vàng nhảy xuống ngựa, quỳ trước mặt Huyền Trang lễ bái, không ngờ hắn lại hành lễ Ngũ Luân Câu Khuất. Đây là đại lễ ảnh hưởng từ Phật giáo Thiên Trúc được phổ biến rộng rãi ở Tây Vực, lễ gọi là Ngũ Luân Câu Khuất, chính là hai tay, hai gối và trán đều chạm đất. Đây là lễ tiết cấp thứ tám trong cửu lễ, chỉ đứng sau lễ thứ chín, ngũ thể đầu địa (đầu rạp xuống đất).

Hai kỵ sĩ còn lại cũng rối rít xuống ngựa quỳ bái. Huyền Trang được nhận lễ tiết tôn quý như vậy nhất thời không biết phải làm sao, chỉ có thể làm theo nghi thức, lấy tay xoa đầu hắn, miệng thì niệm kinh chúc nguyện cho hắn được trường sinh như ý, sau đó mới lưỡng lự nói: “Thí chủ đây là…?”.

Thanh niên kia vui vẻ ra mặt đứng dậy: “Đại sư có điều không biết, tại hạ là con thứ ba của quốc vương Cao Xương[39], họ Khúc, tên Trí Thịnh. Mấy ngày trước theo nhị vương huynh đi sứ Y Ngô quốc, có nghe thương nhân người Hồ qua lại Con đường Tơ lụa nói, đại sư muốn Tây du Thiên Trúc cầu pháp. Lúc đó ta còn cùng nhị vương huynh thương lượng với nhau xem có cần ở lại Y Ngô thêm vài ngày đợi ngài đến hay không, không ngờ rằng Phật Tổ thương xót, để ta ở đây lại gặp được đại sư”.

Huyền Trang lúc này mới ngộ ra, hóa ra vị tên Khúc Trí Thịnh này lại là tam hoàng tử của Cao Xương, chẳng trách tướng mạo và cách ăn mặc lại giống y hệt người Hán.

Cao Xương là một vương quốc có phần khác biệt so với các vương quốc khác ở Tây Vực, từ quốc vương đến bách tính đều là người Hán, tách biệt hẳn với đám người Hồ của các tiểu quốc Tây Vực suốt mấy trăm năm nay, mặc dù trải qua bao thăng trầm, nhưng vẫn ngoan cường mà tiếp tục tồn tại.

Cao Xương trước kia là khu vực đóng quân thời Lưỡng Hán. Lúc đó Hán triều xây dựng thành lũy quân sự ở nơi này, vừa canh tác vừa phòng thủ. Bởi vì “địa thế cao rộng, người đông vật thịnh”, liền được mệnh danh là thành lũy Cao Xương. Từ thời Đông Hán đến thời Lưỡng Tấn, trong nước nội chiến liên miên, xác người chồng chất, người Hán vì chạy nạn binh đao, nên đổ dồn về vùng Hà Tây chạy đến tận Cao Xương. Dân số của Cao Xương càng ngày càng đông, người Hán chiếm tới bảy phần. Thời kì Ngũ Hồ Loạn Hoa[40], Nhu Nhiên[41] tấn công Cao Xương, lập người Hán là Hám Bá Chu làm quốc vương Cao Xương, từ đó trở đi Cao Xương được xem như một quốc gia. Trải qua mấy trăm năm rối ren sau đó, những quốc gia hùng mạnh như Nhu Nhiên, Cao Xa, Tây Đột Quyết lần lượt nhảy vào vòng tranh đấu, luận định xem Cao Xương thuộc về ai, kèn cựa nhau suốt mấy trăm năm, nhưng chính quyền Cao Xương vẫn luôn nằm trong tay người Hán.

Bắc Ngụy năm Cảnh Minh thứ ba, họ Khúc xưng vương, đến nay đã truyền được tám đời. Phụ thân của Khúc Trí Thịnh là Khúc Văn Thái, chính là quốc vương Cao Xương đời này. Cao Xương nằm ở điểm giao thoa giữa văn hóa Trung Nguyên và Tây Vực, nhưng vẫn luôn lấy tiếng Hán làm ngôn ngữ chính thức, thậm chí bắt đầu từ đời quốc vương Cao Xương trước là Khúc Bá Nhã, dưới sự xếp đặt của Khúc Văn Thái đã tiến hành cải cách Hán hóa, yêu cầu “loại bỏ kiểu tóc quấn và áo vạt dài của đám Di Địch[42], tiến hành Hán hóa”. Kết quả phụ tử Khúc Bá Nhã và Khúc Văn Thái bị các quý tộc Cao Xương làm phản, phát động chiến loạn đòi “lập lại kỷ cương, phép nước”, hai người phải khổ sở trốn chạy, mãi cho đến sáu năm sau mới bình định được phản loạn, một lần nữa lên nắm quyền triều chính.

“Không biết tam hoàng tử lần này thân chinh tiến vào sa mạc Mạc Hạ Diên là vì cớ gì?” Huyền Trang hỏi.

Khúc Trí Thịnh do dự một lúc, mới trầm giọng nói: “Ta đang ở Y Ngô, nghe được đám thương nhân nói rằng, trong sa mạc có một nhóm thương lữ người Hồ bị bọn cướp chặn giết, không biết là thật hay giả, nên mới dẫn người đi kiểm tra. Không ngờ lại trùng hợp gặp được đại sư”.

Huyền Trang thở dài nói: “Việc này không phải là giả, bần tăng vừa mới đi qua, đoàn thương lữ đó có hơn sáu mươi người, toàn bộ đều bị giết hết, vô cùng thê thảm”. Ngài chỉ vào A Thuật, “đứa trẻ này…”.

A Thuật đột nhiên cười nói: “Cháu tên A Thuật, là đầy tớ mà đại sư đưa theo từ Trường An tới, tham kiến tam hoàng tử.”

Khúc Trí Thịnh liếc nhìn A Thuật, người Hồ ở Cao Xương quá nhiều, hắn cũng không thấy có gì kỳ lạ. Nhưng Huyền Trang lại thấy vô cùng kinh ngạc, ngài nhìn A Thuật chằm chằm, trong lòng không ngừng hoang mang. Thật không ngờ đứa trẻ này lại che giấu thân phận của mình trước mặt Khúc Trí Thịnh!

Tại sao chứ? Huyền Trang không dám nghĩ tiếp.

Khúc Trí Thịnh không phát hiện ra sự khác thường của Huyền Trang, hắn tỏ ra rất nhiệt tình: “Nếu đại sư đã chứng thực chuyện này, vậy ta cũng không cần phải đi dò xét thêm nữa. Chi bằng như vậy đi, giờ ta hộ tống đại sư tới Y Ngô, để hai tên tùy tùng này của ta đến hiện trường xem xét, đợi tới Y Ngô rồi, ta sẽ thông báo chuyện này cho quốc vương Y Ngô, dặn ông ấy phái người đi xử lý thích đáng. Đại sư thấy thế nào?”.

“Xin nghe theo sự sắp xếp của tam hoàng tử!” Huyền Trang nói. Qua một hồi đối đáp, Huyền Trang cũng nhìn ra, vị hoàng tử Khúc Trí Thịnh này là một người nhiệt tình, tính cách đơn thuần chất phác. Chỉ có điều phản ứng của A Thuật lại khiến lòng ngài dấy lên cảm giác có điều chẳng lành. Nhưng giờ lại không phải lúc thích hợp để hỏi han, nên ngài chỉ có thể im lặng, giữ buồn bực ở trong lòng.

Khúc Trí Thịnh rất vui mừng, dặn dò hai kỵ sĩ để dành ra một con ngựa nhường cho Huyền Trang cưỡi. Nơi đây cách hồ nước kia không xa, hai kỵ sĩ nọ liền cưỡi chung một con ngựa mà đi, thoáng cái đã không thấy bóng. Khúc Trí Thịnh tự mình dắt ngựa, làm bàn đạp cho Huyền Trang, hầu ngài lên ngựa, bản thân thì đi trước dẫn đường tới Y Ngô.

°°°

Huyền Trang và A Thuật đi theo Khúc Trí Thịnh một ngày trong sa mạc Mạc Hạ Diên thì tới được ngoài thành Y Ngô, người đi đường dần nhiều lên, trên đỉnh đầu là bầu trời xanh thẳm, hai bên đường trồng hồ dương và liễu rủ, những khóm hồng liễu rậm rạp vô cùng, như sóng lớn bao trùm cả vùng đất hoang vắng. Những ngôi nhà mái bằng vách đất sơ sài nằm rải rác bên ngoài thành. Y Ngô là quốc gia Tây Vực gần Đại Đường nhất, cũng là một tiểu quốc nhỏ bé chật hẹp nổi tiếng của Tây Vực, cả quốc gia chỉ có bảy tòa thành, tổng nhân khẩu không quá hai vạn, người Hồ và người Hán chung sống với nhau. Nhưng Y Ngô là trạm dịch quan trọng của Con đường Tơ lụa, những thương lữ người Hồ đến nơi này, trạm tiếp theo là vào đến Trung Nguyên rồi, vì vậy vương quốc này tuy nhỏ nhưng lại cực kỳ giàu có.

Đến cổng thành, thì lối vào bị tắc nghẽn. Cổng thành các nước Tây Vực luôn chật hẹp, thường chỉ cần một đội thương nhân hùng hậu đi qua thì cổng thành liền bị lấp kín đến mức nước chảy không lọt, thậm chí còn gặp phải tình huống hai chiếc xe cao bị kẹt cứng lại, tiến không được mà lùi cũng không xong. Nhưng lần này rõ ràng không phải là thương lữ chặn đường, cổng thành không có một ai, nhưng có không ít thương lữ người Hồ đều đứng dẹp qua một bên ở ngoài cổng thành, không ngừng xì xào bàn tán, bên cạnh còn có binh sĩ duy trì trật tự, không cho những đoàn thương lữ đến sau đi qua.

Khúc Trí Thịnh tiến lên phía trước hỏi thăm một thương lữ người Hồ: “Có chuyện gì vậy? Tại sao lại không cho vào thành?”.

Thương nhân người Hồ kia nhìn thấy hắn là một người Hán, mặc quần áo cầu kì, nên không dám vô lễ, kính cẩn đáp: “Vị thiếu gia người Hán này chắc không biết, hình như sắp có quý nhân đi qua đây nên mới có lệnh giới nghiêm cổng thành”.

“Ồ, lẽ nào Thạch Vạn Niên muốn ra khỏi thành sao?” Khúc Trí Thịnh kinh ngạc hỏi.

Người thương nhân kia sợ đến giật nảy mình, nhất thời không dám đáp lại. Bởi vì Thạch Vạn Niên là quốc vương Y Ngô, vị thiếu gia người Hán này lại dám gọi thẳng tên của quốc vương Y Ngô!

Thế nhưng Khúc Trí Thịnh lại không buồn để tâm đến điều này, trên thực tế, trong mắt của quốc vương Cao Xương, một Y Ngô nhỏ nhoi như thế này cũng chỉ đáng coi là nước chư hầu của mình. Hắn là hoàng tử của Cao Xương, đương nhiên không cần phải cung kính với quốc vương Y Ngô rồi.

“Đại sư không cần để ý tới mấy chuyện này, trước vẫn cứ là mời ngài vào thành đến nhà khách nghỉ ngơi, sau đó ta sẽ đi gặp quốc vương Y Ngô, cùng ông ấy đến bái kiến ngài.” Khúc Trí Thịnh cười nói với Huyền Trang.

Huyền Trang lắc đầu: “Bần tăng chỉ là một hòa thượng từ xa đến, sao có thể quấy rầy quốc sự được? Nếu trong nước đã có việc, bần tăng chờ là được.”

Khúc Trí Thịnh chỉ đành trông nom bên cạnh ngài, đợi quý nhân trong thành đi qua. Đúng lúc này, trong thành truyền tới tiếng vó ngựa dồn dập, như sấm rền quét qua đường phố, ba mươi kỵ sĩ cưỡi tuấn mã, tay cầm thương dài, thắt lưng dắt loan đao, trên lưng còn đeo cung tiễn, chạy nhanh như gió, phóng qua trước mặt mọi người.

Khúc Trí Thịnh vừa nhìn phục sức của đám kỵ sĩ này, nhất thời giật mình thảng thốt: “Người Yên Kỳ?”.

Huyền Trang tò mò nhìn hắn một cái, không hiểu được tại sao hắn lại kích động như vậy. Trước khi Tây du, Huyền Trang đã từng tìm hiểu thông tin về các nước Tây Vực, biết được Yên Kỳ này nằm ở phía tây nam Cao Xương, cũng là một quốc gia sùng Phật, nhưng cụ thể hơn thì ngài không rõ. Đừng nói là ngài, chỉ sợ triều đình Đại Đường đối với tình hình Tây Vực lúc này cũng chẳng biết gì hết. Sau chiến loạn cuối đời Tùy, Tây Vực và Trung Nguyên bị ngăn cách, tới nay đã ba mươi năm rồi, ngoại trừ những thương lữ người Hồ đi lại trên Con đường Tơ lụa mang theo tin tức từ các nơi khác nhau ra, Đại Đường cấm bách tính xuất quan, nguồn tin tức tình báo của triều đình cũng bị giới hạn.

Nhưng thấy Khúc Trí Thịnh ngơ ngác nhìn kỵ sĩ Yên Kỳ, sắc mặt ửng hồng, kích động khó kiềm chế, sau đó đột nhiên xông lên, chặn một kỵ sĩ cuối cùng lại, nói to: “Long kỵ sĩ, khoan đi đã!”.

Kỵ sĩ nọ ghìm chiến mã lại, dùng cây thương dài chỉ vào Khúc Trí Thịnh, lạnh giọng nói: “Ngươi là ai? Tại sao lại chặn đường?”.

Lúc này những kỵ sĩ đi trước cũng lũ lượt vòng về, thương dài, cung tiễn đồng loạt chĩa vào Khúc Trí Thịnh. Khúc Trí Thịnh cười tươi như hoa, chắp tay lia lịa: “Không có ác ý, không có ác ý. Tại hạ chỉ là muốn hỏi một chút, Công chúa Long Sương có phải đã đến Y Ngô rồi hay không?”.

Huyền Trang chẳng hiểu gì hết, A Thuật mới kéo ngài, nhỏ giọng nói: “Quốc vương Yên Kỳ họ Long, kỵ sĩ Yên Kỳ được xưng là Long kỵ sĩ. Hai nước liền nhau, xưa nay không hòa thuận, đại sư chớ để cho hắn gây sự, chúng ta không trốn thoát được đâu”.

Huyền Trang gật đầu, còn chưa kịp nói gì, Khúc Trí Thịnh quả nhiên đã gây sự, kỵ sĩ kia nổi giận, vung cây thương dài lên đánh tới, giận dữ mắng: “To gan, ngươi là ai? Dám hỏi hành tung của công chúa nước ta!”.

Khúc Trí Thịnh cười giả lả, không hề né tránh, để mặc cho cán thương dài kia quất vào người mình, bốp một tiếng, áo quần tựa như rách toạc. Khúc Trí Thịnh đau đến mức gương mặt co quắp, nhưng vẫn làm bộ cung kính cười nói: “Không dám, không dám. Tại hạ chỉ là kính mộ công chúa, đặc biệt tới để gửi lời hỏi thăm mà thôi”.

Đám kỵ sĩ kia không khỏi đưa mắt nhìn nhau, không hiểu gì, Huyền Trang cũng không khỏi nghẹn lời. Đường đường một quốc gia, mấy kỵ sĩ bình thường xuất ngoại, vừa gặp mặt ngươi đã hỏi thăm công chúa nhà người ta, đây là muốn ăn đòn sao?

Mấy kỵ sĩ cường tráng tiến lên phía trước định đánh hắn. Một kỵ sĩ dày dạn kinh nghiệm trong đó nhìn chằm chằm vào hắn rất lâu, thấy quần áo hắn có vẻ là thuộc tầng lớp quý tộc, lại là người Hán, bèn ngăn cản mấy người còn lại, quát hỏi: “Ngươi là ai?”.

Khúc Trí Thịnh chắp tay, nét mặt vô cùng thành khẩn: “Tại hạ họ Khúc, tên Trí Thịnh, đã từng được diện kiến công chúa. Thấy trang phục của mấy vị huynh đài giống như cận vệ cung đình, nên mới dám tùy tiện thăm hỏi”.

“Khúc Trí Thịnh…” Kỵ sĩ nọ nhìn hắn chăm chú, do dự hồi lâu, hỏi bạn mình, “Cái tên này sao nghe quen tai thế nhỉ…? Ồ!” Hắn đột nhiên thốt lên đầy kinh ngạc, trên mặt lộ rõ vẻ kinh sợ, “ngươi chính là tam hoàng tử của Cao Xương?”.

“Hắn quả đúng là tên Khúc Trí Thịnh đó đấy!” Phía xa có tiếng vó ngựa vang lên, một giọng nói trong trẻo, dễ nghe cất lời.

Đám người Huyền Trang ngẩng đầu lên nhìn, chỉ nhìn thấy hơn mười con ngựa khỏe mạnh chạy tới cổng thành, cưỡi trên lưng chúng đều là những cô gái người Hồ xinh đẹp trẻ trung, đặc biệt là thiếu nữ đi đằng trước, làn da trắng nõn, vòng eo mềm mại, chân ngọc thon dài kẹp trên bụng ngựa, dưới đôi mắt xanh lam có một tầng lụa mỏng rủ xuống, che khuôn mặt của nàng lại.

Nàng mặc một chiếc váy có phần áo ngắn bo tay bằng lụa tơ tằm màu trắng, bên ngoài choàng một chiếc trường bào có thêu hoa ở cổ, trên đầu cài trâm chim đồi mồi phối bảo thạch, một tấm khăn lụa màu đỏ rộng quấn vòng quanh mái tóc, hai đầu mép khăn phía sau lưng rủ xuống đến ngang hông thì được kết lại thành một nút buộc cầu kỳ, buông xuống tận dưới chân. Khi khoái mã chạy băng băng, mảnh lụa đỏ tung bay theo gió, trông đặc biệt phong nhã.

Khúc Trí Thịnh đã sớm nhìn đến mức ngây ngẩn, há hốc miệng, si ngốc nhìn nàng chằm chằm, thân thể như khẽ run, thật lâu sau mới lẩm bẩm: “Sương Nguyệt Chi, nàng tới rồi! Ta… thật sự rất vui mừng!”.

“Hạ lưu!” Một thị nữ lập tức thay đổi sắc mặt, quất roi tới, bốp một tiếng đã đánh trúng lên mặt của Khúc Trí Thịnh, lưu lại trên mặt hắn một vết cứa chảy cả máu, những giọt máu cuồn cuộn rỉ ra. Huyền Trang sợ đến mức nhảy dựng lên, đến đám Long kỵ sĩ xung quanh cũng phải kinh sợ, dù sao gã này cũng là hoàng tử Cao Xương, bị thị nữ quất một roi, có thể nói là một sự sỉ nhục rất lớn đối với hắn.

Nhưng Khúc Trí Thịnh lại cười híp mắt, thần thái vẫn ung dung tự tại, đưa mắt nhìn công chúa Long Sương, chắp tay thi lễ với thị nữ nọ: “Phải phải, là tại hạ ăn nói không cẩn thận, cô nương đánh đúng lắm!”.

Lần này đến Huyền Trang cũng không thể tiếp tục đứng ngoài nhìn được nữa, ngài thấp giọng nói: “A Di Đà Phật, tam hoàng tử, có cần bần tăng băng bó cho người không?”.

Khúc Trí Thịnh một lúc lâu sau mới hoàn hồn lại, ngạc nhiên hỏi: “Băng bó ư? Không, sao ta lại cần phải băng bó? Roi này là công chúa ban tặng, làm sao có thể tổn hại được! Có lẽ nhiều năm sau, tại hạ còn vuốt ve vết roi trên mặt, nhớ đến phong thái của công chúa hiện giờ, đó chẳng phải là phúc lợi mà Phật Đà ban tặng hay sao?”.

Huyền Trang nghẹn lời không nói thêm được nữa.

A Thuật ở bên cạnh nhỏ giọng nói: “Sư phụ, vị công chúa Long Sương này tên là Sương Nguyệt Chi, là viên minh châu trên tay quốc vương Yên Kỳ - Long Đột Kỵ Chi, quyền lực áp đảo triều cương, khống chế chính sách quốc gia. Long Đột Kỳ Chi chỉ là kẻ hữu dũng vô mưu, thích khoe khoang, còn vị công chúa này mới là kẻ tinh thông quyền mưu, một tay lập lên quốc sách của Yên Kỳ, được xưng là ‘Phượng Hoàng Tây Vực’”.

Huyền Trang yên lặng gật đầu, tất nhiên là ngài nhìn ra được rằng Khúc Trí Thịnh thích vị công chúa này, có thể nói là một tấm chân tình khắc cốt ghi tâm, nhưng mà xem ra sự việc tiến triển hình như không được tốt đẹp như hắn mong cầu.

Quả nhiên, công chúa Long Sương nhìn chằm chằm vào Khúc Trí Thịnh với ánh nhìn đầy mai mỉa, trong ánh mắt lộ ra ý trêu đùa, đột nhiên mỉm cười: “Tam hoàng tử, có thể vì ta làm một chuyện được không?”

“Được!” Khúc Trí Thịnh vui mừng khôn xiết, lớn tiếng đáp lại, đến cả giọng nói cũng có chút run rẩy, “Công chúa bảo tại hạ làm gì? Đừng nói là một chuyện, dù là một trăm, một ngàn chuyện, tại hạ cũng không tiếc thân này, thề chết hoàn thành tâm nguyện của công chúa”.

“Không nghiêm trọng như thế đâu”, công chúa Long Sương thản nhiên nói, “ta tới vội vàng, chưa mang theo nô bộc, ngươi có bằng lòng quỳ xuống làm giá đỡ cho ta, dắt ta xuống ngựa không?”.

Chú Thích

.[29] Lưu Sa Hà là tên thời cổ của sông Khai Đô, là một dòng sông tại khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, là nguồn cấp nước quan trọng cho khu vực này. Trong Tây Du Ký, sông Khai Đô chính là hình tượng thực của sông Lưu Sa, tại đây Sa Ngộ Tĩnh đã khủng bố dân chúng các vùng lân cận cũng như khách lữ hành muốn vượt sông, trước khi hắn trở thành tam đồ đệ của Huyền Trang. Có không ít các bài viết/ văn nhân nhìn nhận Lưu Sa Hà là tên chỉ sa mạc Mạc Hạ Diên (hay còn gọi là Bát Bách Lý Hãn Hải, Ha Thượng Qua Bích hay Sa Hà) là một, do phần miêu tả về chiều dài rộng có nét tương đồng. Bản thân tác giả Trần Tiệm cũng đồng tình với ý kiến trên. Nhưng trên thực tế, sông Lưu Sa thực chất là sông Khai Đô bây giờ, tên thời cổ cũng là Lưu Sa chứ không phải như Sa Hà (tức sa mạc Gobi) như thường bị đồng hóa.

[30] Trích từ Tây du Ký, hồi 22: Bát Giới đại chiến sông Lưu Sa - Mộc Soa vâng lệnh bắt Ngộ Tĩnh.

[31] Người Trung Á cổ đại theo cách gọi của người Hy Lạp cổ, tiếng Trung gọi là Nguyệt Chi hay Đại Nguyệt Chi, ban đầu họ định cư trong các vùng đồng cỏ khô cằn thuộc miền đông khu vực lòng chảo Tarim, ngày nay có lẽ thuộc Tân Cương, Cam Túc và có thể là cả Kỳ Liên Sơn ở Trung Quốc.

[32] Tên gọi chung của các tiểu quốc của những người Sodian và hậu duệ của họ từ đặc khu Sodian đến Trung Nguyên vào thời Nam Bắc Triều và Tùy Đường. Vua của họ lấy họ là Chiêu Vũ. Nguồn gốc của từ Chiêu Vũ đến nay vẫn chưa xác định được. Tân Đường thư ghi nhận là Chiêu Vũ Cửu Tính bao gồm chín nước: Khang, An, Tào, Thạch, Mê, Hà, Hỏa Tâm, Mậu Địa, Sử.

[33] Theo giới luật nhà Phật, các nhà sư phải dùng vợt lọc để lọc nước trước khi uống, nhằm tránh nuốt phải các sinh vật nhỏ sống trong nước, tránh mang tội sát sinh.

[34] Những người Aryan được biết đến sớm nhất từng sống ở Iran thời tiền sử. Những người này di cư đến miền bắc Ấn Độ vào khoảng năm 1500 TCN. Những cư dân trước đây của tiểu lục địa Ấn Độ gọi những người mới đến này là Aryan.

[35] Hỏa giáo còn được gọi là Hiên giáo, Hỏa Hiên giáo, Hỏa Yêu giáo hay Bái Hỏa giáo, là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại. Tôn giáo này tôn thờ thần trí tuệ Ahura Mazda là vị thần tối cao. Tôn giáo phát triển mạnh ở Ba Tư từ thế kỷ VII TCN sau đó phát triển sang các nước ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Hoa.

[36] Ý chỉ đời người ngắn ngủi vô thường, như hạt sương sớm nhanh chóng khô kiệt dưới ánh mặt trời, như hoa tươi thắm sớm ủ rũ, héo tàn dưới cái nắng chói chang của ngày hè.

[37] Samarkand còn gọi là Tát Mã Nhĩ Hãn, trong Tùy Thư gọi là Khang Quốc. Samarkand là một trong những thành phố cổ trên thế giới, một thành phố phồn vinh trên Con đường Tơ lụa giữa Trung Quốc và châu Âu. Có một thời, Samarkand là thành phố lớn nhất miền Trung Á. Được thành lập khoảng năm 700 TCN, nó là thủ đô của nước Túc Đặc.

[38] Yên Kỳ hay Karasahr (hay Karashahr, nghĩa là ‘thành phố đen’ trong tiếng Uyghur), trước đây còn gọi là A Kỳ Ni hay Ô Di, là một quốc gia cổ trên Con đường Tơ lụa và nay là thủ phủ của huyện tự trị dân tộc Hồi, Yên Kỳ, Tân Cương tại địa khu Bayin’gholin ở Tân Cương, Tây Bắc Trung Quốc.

[39] Cao Xương cũng gọi là Qara-Khoja hay Kara-Khoja, là khu vực từng tồn tại một thành phố Ốc đảo được xây dựng tại rìa phía bắc của sa mạc Taklamakan tại Tân Cương, Trung Quốc. Địa điểm này cũng được biết tới với các tên gọi Chotscho, Khocho, Qocho, hay Qočo. Cao Xương từng là một trung tâm thương mại sầm uất, là một điểm dừng chân của các thương nhân trên Con đường tơ lụa.

[40] Do Tấn triều hủ bại, quan lại tham ô tàn độc, gây cuộc nội loạn tám Vương tranh giành xâu xé; thừa dịp năm dân tộc Hồ rầm rộ khởi binh, nên được gọi là Ngũ Hồ Loạn Hoa, mở đầu cho thời đại hỗn loạn mệnh danh Ngũ Hồ Thập Lục Quốc.

[41] Nhu Nhiên là một liên minh bộ lạc do người Tiên Ti gốc Tungus lãnh đạo. Người Nhu Nhiên kiểm soát khu vực bao gồm Mông Cổ, từ khu vực Mãn Châu tới Thổ Lô Phan (Turpan) và có lẽ tới vùng bờ phía đông của hồ Balkhash, và từ sông Orkhon tới Trung Hoa bản thổ.

[42] Di Địch chỉ những dân tộc thấp kém ở phía đông và phía bắc Trung Hoa theo quan niệm của người Trung Hoa xưa.