
Tây Vực Liệt Vương Ký
Tổng số chương: 26
Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II).
Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng.
Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc.
Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9] (Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường.
Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra.
Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này.
Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng.
Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ!
Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (大).
Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi.
Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14] (Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu.
“Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”.
Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”.
“Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.”
Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV).
“Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”.
Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại.
“Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”.
Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệ đã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”.
“Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”.
Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”.
“Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư.
“Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”.
Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”.
“Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”.
Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt.
Chú Thích[1] Tát San Ba Tư (Nhà Sassanid hay Tân Đế quốc Ba Tư) là triều đại Hỏa giáo cuối cùng của Đế quốc Ba Tư trước sự nổi lên của đạo Hồi. Đây là một trong hai đế quốc hùng mạnh nhất vùng Tây Á trong vòng 400 năm. Lãnh thổ của đế quốc Sassanid khi đó bao gồm Iran, Iraq, Armenia, Afghanistan, phía tây Thổ Nhĩ Kỳ và một phần của Syria, Pakistan, Kavkaz, Trung Á và Ả rập.
[2] Khố Tư Lỗ đệ nhị (Khosrow II) là vị vua có năng lực cuối cùng của nhà Sassanid, trị vì từ năm 590 đến năm 628. Ông là vua Ba Tư cuối cùng có một triều đại tương đối lâu dài trước thời đô hộ của người Ả Rập (Ả Rập bắt đầu đánh Ba Tư năm năm sau khi Khosrow bị ám sát).
[3] Bái Chiêm Đình - Đế quốc Đông La Mã/ Byzantium/ Byzantine/ Byzance hay Đế quốc Hy Lạp là một đế quốc tồn tại từ năm 330 đến năm 1453, đóng đô ở Constantinopolis.
[4] Tiểu Á Tế Á (Anatolia) hay Tiểu Á là một bán đảo của châu Á mà ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, giáp với Biển Đen ở phía bắc, Địa Trung Hải ở phía nam, cách châu Âu bằng biển Aegea và biển Marmara ở phía tây, và giáp với phần rộng lớn còn lại của châu Á ở phía đông.
[5] An Điều Khắc (Antiochia) bên sông Orontes, còn được gọi Antiochia xứ Syria, là một thành phố cổ nằm giáp bờ đông của sông Orontes. Nó nằm gần thành phố Antakya, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.
[6] Đại Mã Sĩ Cách (Damascus) hay còn gọi là Thành phố Nhài, là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Syria.
[7] Gia Lộ Tát Lãnh (Jerusalem) là một thành phố Trung Đông nằm trên lưu vực sông giữa Địa Trung Hải và Biển Chết. Jerusalem được coi là thánh địa chung của cả ba tôn giáo gồm đạo Do Thái, đạo Cơ Đốc, và đạo Hồi, lưu giữ nhiều di tích tôn giáo.
[8] Tiểu Á Tế Á, Tự Lợi Á, Đại Mã Sĩ Cách, Gia Lộ Tát Lãnh đều là tên dịch hiện đại. Bởi từ thời Nam Bắc triều đến thời Tùy Đường, người Trung Quốc có rất nhiều cách dịch tên gọi của các nước Tây Vực, bản thân những danh từ mà đại sư Huyền Trang dịch lại cũng có phần tối nghĩa, khó hiểu, nên những danh từ được dùng trong sách sẽ được đồng bộ hóa lại để người đọc dễ hiểu và nắm bắt cốt truyện hơn. (Ghi chú biên tập sách gốc.)
[9] Hi Lạp Khắc Lược - Flavius Heraclius Augustus còn được biết đến là Heraclius hay Herakleios, là hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã trị vì từ năm 610 đến năm 641.
[10] Thái Tây Phong (Ctesiphon) là thủ đô của đế quốc Sassan, cách Baghdad bốn mươi cây số về phía đông nam, hiện vẫn còn di chỉ. (Ghi chú của biên tập sách gốc)
[11] Dastagird (Dastgerd/ Dastigird/ Daskara) là một thành phố nhỏ nằm sát thủ đô Ctesiphon. Được xem là nơi ở ưa thích của Khosrow II và từng được coi là nơi cư trú của hoàng tộc trong thời đại này, đến năm 628 thì nơi này bị tàn phá trước Sự tấn công của hoàng đế Đế quốc Đông La Mã - Heraclius. Trên thực tế có rất ít tư liệu về tên riêng của cung điện hoàng gia được xây dựng ở đây mà thường chỉ được gọi chung theo tên thành phố này.
[12] Shirin Shahbanu là nữ hoàng của Đế chế Ba Tư, vợ của vua Khosrow II. Vua Khosrow II đã cho xây dựng một số cung điện tráng lệ ở tỉnh Kermanshah và đặt chúng theo tên của Shirin, hoàng hậu của mình. Chuyện tình của Khosrow II và Shirin được coi là nguồn cảm hứng vô tận của văn học Ba Tư.
[13] Cung điện Behistun được coi là nơi ở chính của hoàng hậu Shirin, nơi đây cũng được nhắc đến nhiều trong các tác phẩm văn học Ba Tư lấy Shirin làm chủ đề.
[14] Kavadh II (Ca Ngõa Đức đệ nhị) còn được gọi là Sheroya hoặc Shiruya (Hi Lỗ Gia), là vua của đế quốc Sassanid, ông chỉ trị vì vài tháng trong năm 628. Ông lên ngôi sau khi nổi loạn chống lại cha mình là Khosrow II.
[15] Hormizd IV là vua của đế chế Sasanian từ 579 đến 590. Ông là nhi tử và là người kế nhiệm của Khosrau I.
[16] David là vị vua thứ hai của vương quốc Israel thống nhất. Ông trị vì Judah từ khoảng năm 1010 TCN đến năm 1002 TCN, trị vì toàn vương quốc thống nhất từ khoảng năm 1005 TCN đến năm 970 TCN. Cuộc đời và triều đại của ông, như được ghi lại trong Kinh thánh Hebrew (tương đương với Cựu ước của Kitô giáo) và kinh Koran của Hồi giáo, có tầm quan trọng chính yếu đối với các nền văn hóa - tôn giáo khởi nguồn từ Abraham.
[17] Sogdiana hoặc Sogdia (Túc Đặc) là nền văn minh cổ xưa của người Iran và là một tỉnh của Đế chế Achaemenes Ba Tư. Người Sogdia là một dân tộc sống ở miền đông Iran và là một trong những tổ tiên của người Tajiks, Pashtun và Yagnobis hiện đại.
Danh sách chương
- Lời dẫn 1
- Lời dẫn 2
- Chương 1 Tây Vực có quỷ, -Phật tử từ phương đông tới
- Chương 2 Hoàng tử Cao Xương, -Công chúa Yên Kỳ
- Chương 3 Chiếc bình của vua Đại Vệ: -Truyền thuyết Nghìn lẻ một đêm
- Chương 4 Khế ước của hoàng tử và ma quỷ
- Chương 5 Vụ cá cược của công chúa và hòa thượng
- Chương 6 Con nhện ngồi ở giữa mạng nhện
- Chương 7 Thế giới giếng mương, -vương quốc của những kẻ bị lưu đày
- Chương 8 Nhà gả ta tới phương trời xa
- Chương 9 Cuộc chính biến năm 629 sau Công nguyên
- Chương 10 Con quỷ sống trong chiếc bình
- Chương 11 Sứ giả Đại Đường, quý tộc Đột Quyết,- thuật hoàn hồn
- Chương 12 Chiếc bình của vua Đại Vệ -điều ước thứ ba: Người chết sống lại
- Chương 13 Suy luận của Huyền Trang
- Chương 14 Có phật, ắt có ma
- Chương 15 Nơi táng thân ta là lò lửa địa ngục giữa biển tuyết Thiên Sơn
- Chương 16 Thầy xem bói, người tặng ngựa, -hòa thượng Tây du
- Chương 17 Người chết đi sống lại, -người sống chết đi
- Chương 18 Một người, thao túng cả cõi Sa Bà
- Chương 19 Những vương quốc, thành trì, -núi tuyết và ma quỷ trên đường Tây du
- Chương 20 Câu thần chú Ba Tư cổ
- Chương 21 Giếng đứng của vương đình Đột Quyết, -chính biến và thi thể
- Chương 22 Người trong bình Ba Tư
- Chương 23 Đến từ bóng tối, trở về ngọn lửa
- Phụ lục Ghi chép về Khả hãn Tây Đột Quyết ký