Chương 11 Sứ giả Đại Đường, quý tộc Đột Quyết,- thuật hoàn hồn
Khúc Văn Thái sau khi tỉnh dậy, liền lui về hậu cung để điều dưỡng, lệnh cho Trương Hùng tiễn đám người Huyền Trang và Vương Huyền Sách.
Trương Hùng là người phái “thân Hán” nổi tiếng Cao Xương, gặp được Vương Huyền Sách dĩ nhiên rất nhiệt tình gần gũi, tận lực kết giao: “Quý sứ, có cần đến dịch quán ở không?”.
Vương Huyền Sách khoát tay nói: “Đa tạ nhưng lần này ta đến chưa cầm theo quốc thư, không dám vi phạm luật lệnh Đại Đường. Đại tướng quân, vẫn xin ngài mau chóng thả đám lưu dân kia ra, đợi ta từ Tây Đột Quyết trở về, sẽ đưa họ về”. Trương Hùng gật đầu, cáo lỗi với hai người rồi vội vội vàng vàng tới pháp trường.
Đợi Trương Hùng đi xa, Huyền Trang mới hướng về phía Vương Huyền Sách chắp tay trước ngực khom lưng nói: “ Lần này may mà có Vương đại nhân giúp đỡ, mới cứu được sáu mươi, bảy mươi tính mạng, bần tăng xin thay họ cảm tạ ngài”.
Vương Huyền Sách vội vàng đỡ ngài dậy: “Không dám nhận, không dám nhận! Ngài là cao tăng mà bệ hạ kính trọng và ngưỡng mộ, tại hạ sao dám nhận đại lễ của ngài chứ”.
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, một đường rời khỏi vương cung, bước trên đường phố huyên náo, A Thuật chất đầy một bụng tâm sự, tâm trạng vô cùng chán nản mà đi theo phía sau. Huyền Trang hơi tò mò, dò hỏi: “Vương đại nhân, nếu ngài là sứ giả, tại sao lại đi sứ một mình, đến một người tùy tùng cũng không đem theo vậy?”.
Vương Sách mỉm cười: “Đại sư, mời vào hàn xá ngồi một lúc. Ở đó có trà ngon mang từ Đại Đường tới”.
Huyền Trang mừng rỡ, hai người tuổi tác xấp xỉ nhau. Khí chất trên người Vương Huyền Sách như dốc xanh bờ lạnh, bình tĩnh, khoan thai, mặc dù mặt mũi có phần thô kệch phong trần, vừa nhìn đã biết phải bôn ba bên ngoài trong một thời gian dài, nhưng toàn thân lại toát ra sự nho nhã, khiến người ta có cảm giác thân thiết.
“Vậy sao? Vậy bần tăng phải nếm thử mới được.” Huyền Trang vui vẻ nói: “Từ khi bần tăng rời khỏi Qua Châu, đã không còn được thưởng thức trà của quê hương rồi”.
“Sư phụ!” A Thuật không nhịn nổi nữa, nói: “Con muốn ra ngoài đi dạo!”.
“Hả?” Huyền Trang kinh ngạc không thôi, “Con muốn đi đâu?”.
A Thuật rầu rĩ, “Hiên từ. Con muốn tìm xem có đồng hương người Tát Mã Nhĩ Hãn nào không, nhờ họ chuyển di cốt của thúc thúc con về!”.
Huyền Trang không ngờ đứa trẻ này lại hiếu thuận như vậy, không khỏi cảm thấy kính nể: “A Thuật, có cần ta đi cùng con không?”
“Không cần, không cần.” A Thuật nói: “Sư phụ, ngài cứ đi uống trà đi? Ngài là dị giáo, ở trong Hiên từ bất tiện lắm.”
Huyền Trang cũng biết Bái Hỏa Giáo có rất nhiều quy tắc, nên cũng không cố yêu cầu được đi cùng nữa, chỉ dặn dò: “Trước khi trời tối, con nhất định phải về tới vương cung, biết chưa? Con còn nhỏ, không thể chạy lung tung ở bên ngoài một mình được”.
A Thuật cảm động, hé miệng cười nói: “Sư phụ, tính ra con cũng đi hết hơn vạn dặm đường rồi”.
“Con có đi nhiều hơn thì cũng vẫn chỉ là một đứa trẻ thôi” Huyền Trang lần đầu tiên nghiêm mặt nói.
“Được rồi! được rồi!” A Thuật vội vàng thỏa hiệp: “Con nghe theo sư phụ là được”.
Vừa nói cậu bé vừa hơi khom người thi lễ với Vương Huyền Sách, sau đó liền lẩn vào giữa đám đông. Dáng người cậu thấp bé, chỉ trong chốc lát liền biến mất dạng.
Vương Huyền Sách cười nói: “Đại sư, đứa trẻ này thật thú vị!”.
Huyền Trang thở dài, kể lại câu chuyện khi ngài gặp A Thuật cho hắn nghe, khi kể đến chuyện Chiếc bình của vua Đại Vệ, sắc mặt Vương Huyền Sách không khỏi trở nên kỳ quái: "Trong bình có quỷ? Gia Tư Đinh kia nói như vậy sao?”.
“Đúng vậy!” Huyền Trang bùi ngùi, “Hiện giờ xem ra, Gia Tư Đinh cũng biết trong chiếc bình này có phong ấn ma quỷ. Chỉ là hắn chưa từng nghĩ tới, sau khi Chiếc bình của vua Đại Vệ thất lạc, lại khuấy động bão táp ở Tây Vực”.
Hai người cứ vừa đi vừa nói chuyện, chẳng bao lâu đã tới nơi ở của Vương Huyền Sách. Đây là một tiểu viện vắng vẻ, với khoảng sân vô cùng rộng lớn, bên trong đang chứa bốn, năm cỗ xe ngựa, trong chuồng gia súc không những có la, ngựa mà còn có mấy chục con lạc đà. Không ngờ nhất là trong sân có không ít người, mặc dù đều mặc thường phục, nhưng trông họ ai nấy đều nhanh nhẹn dũng mãnh, khuôn mặt lạnh lùng nghiêm nghị, vừa nhìn cũng biết là quân binh tinh nhuệ quen huyết chiến sa trường. Huyền Trang không khỏi rùng mình, quan sát kỹ có thể thấy trên chiếc xe lớn phủ giấy dầu, thấp thoáng có bóng cung tên, thậm chí trên một chiếc xe còn lộ ra nửa phần nỏ hạng nặng!
Thấy Vương Huyền Sách bước vào, mọi người đều dừng công việc trên tay, cúi người thi lễ: “Bái kiến đại nhân!”.
Vương Huyền Sách tùy tiện khoát tay, mời Huyền Trang vào phòng. Đây là một căn phòng đắp đất đơn giản khá thô kệch và xấu xí, trên mặt đất là đống quyển trục xếp bừa bãi. Bên trong ấy vậy mà cũng có bốn, năm người Hán, đang vây quanh một tấm ván gỗ để vẽ bản đồ.
Trong lòng Huyền Trang chấn động, nhưng không hề lên tiếng hỏi.
Nhìn thấy Vương Huyền Sách, một ông lão trong đó khom lưng thi lễ: “Đại nhân về rồi”.
“Về rồi!” Vương Huyền Sách thản nhiên nói: “Có tình hình gì mới không?”.
Ông lão kia vội đáp: “Khởi bẩm đại nhân, hiện tại đã tra rõ, đại quân ba nước Yên Kỳ, Quy Từ, Sơ Lặc ngoài thành Giao Hà tổng cộng có tám ngàn người, hai ngày trước có một vị quý tộc Tây Đột Quyết bí mật vào đại doanh của Long Đột Kỵ Chi, nhưng thân phận của người này vẫn chưa tra được rõ”.
Vương Huyền Sách nhíu mày suy nghĩ: “Còn nữa không?”.
Ông lão cầm một quyển trục tới: “Đại nhân, tình hình lục bộ của Cao Xương đã được thu thập đầy đủ, Sử bộ, Dân bộ, Khố bộ, Thương bộ, Lễ bộ, Binh bộ đều được phân loại rõ ràng, sao chép lại thành sách. Chúng tôi cũng đặc biệt sao chép riêng thành quyển tin tình báo về nhân số, trang bị, lương thảo, ngựa của binh bộ Cao Xương, bao gồm cả các cá nhân chỉ huy ngũ binh, ngài có muốn xem không?”.
“Không xem nữa. Các người vẽ địa đồ trước đi!” Vương Huyền Sách khoát tay với ông lão.
“Nào, đại sư mời!” Vương Huyền Sách mời Huyền Trang ngồi xuống tấm thảm lông cừu, trên tấm thảm đặt sẵn trà, bếp lò và nước, hắn đích thân đun nước pha trà, “Đây là Cố Chử Tử Duẩn[96] của Hồ Châu mùa xuân năm nay, trà thơm ngào ngạt, có thể nói là thượng phẩm”.
Huyền Trang bưng tách trà lên nhấp một ngụm, khen ngợi không ngớt: “Không ngờ rằng ở nơi đất khách quê người, lại có thể được thưởng thức trà xuân trong nước”.
Vương Huyền Sách mỉm cười: “Ở chỗ ta còn có loại ngon hơn, nhưng đó là trà mà bệ hạ tặng cho Khả hãn Thống Diệp Hộ, đại sư có muốn nếm thử hay không? Nếm thử rồi, chúng ta có thể đổi cho ông ấy loại khác, chắc rằng người man di như Thống Diệp Hộ cũng không thể biết được đâu”.
Huyền Trang hơi kinh hãi, vị sứ giả Đại Đường này, lá gan cũng to quá đi, vì uống một ngụm trà, mà lại có suy nghĩ muốn tráo đổi cống phẩm. Ngài lập tức mỉm cười: “Bần tăng không có gan chiếm đoạt cống phẩm đâu!”.
Vương Huyền Sách tỏ ra tiếc nuối: “Đại sư có quan hệ tốt với bệ hạ, vốn muốn lấy đại sư ra làm bia đỡ đạn. Dù sao chuyến Tây du lần này của đại sư, cũng không thể về Đại Đường được nữa, bệ hạ đã biết rồi, ngài đau lòng nhiều hơn là tức giận…”.
Huyền Trang cảm thấy kỳ lạ, bèn hỏi: “Đại nhân làm sao biết được bần tăng lần này đi mà không thể về được Đại Đường?”.
“Tây Vực sắp nổi phong ba, đến khi đó trời long đất lở, quốc gia diệt vong, bách tính loạn ly”, hắn nhìn chằm chằm vào Huyền Trang, “tình trạng như vậy, đại sư có thể bình yên vô sự, bình an đến Thiên Trúc hay không đây?”.
Huyền Trang trầm mặc không đáp, nhẹ nhàng vê phật châu trên cổ, bình thản nói: “Nếu như bần tăng đoán không lầm, Vương đại nhân lần này đi sứ Tây Đột Quyết, chắc hẳn là gánh vác sứ mệnh vô cùng quan trọng phải không? Thu thập tình báo các nước dọc đường, vẽ bản đồ e rằng chỉ là một trong số đó mà thôi!”.
“Đúng vậy!” Vương Huyền Sách không hề giấu diếm: “Ngài là cao tăng Đại Đường, tại hạ cũng chẳng cần phải giấu. Hiện nay thiết kỵ Đại Đường ta đang chém giết với Đông Đột Quyết trên thảo nguyên, liên tiếp thắng lợi, nhưng bệ hạ rất lo lắng về thái độ của Tây Đột Quyết. Lần này đi sứ, ý của bệ hạ muốn bảo ta lên đường gọn gàng, kín tiếng, âm thầm quan sát động tĩnh của các nước, để nghĩ cách li gián quan hệ giữa hai miền Đông-Tây Đột Quyết. Lần này vì cứu những nạn dân lưu vong Tùy Tần này, bất đắc dĩ mới bại lộ hành tung, còn không biết bệ hạ sẽ tức giận đến mức nào nữa!”.
Huyền Trang vội vàng tạ lỗi: “Là bần tăng lỗ mãng, mới khiến đại nhân lâm vào cảnh khó xử như thế này”.
“Đại sư xin chớ đa lễ!” Vương Huyền Sách thở dài nói: “Ngài lòng dạ từ bi, vì cứu bách tính Đại Đường, thân là con dân Đại Đường, ta nào có thể khoanh tay đứng nhìn? Từ thời buổi loạn lạc cuối đời Tùy Mạt đến nay, dân chúng vùng biên cương của Đại Đường nhiều lần phải chịu sự ức hiếp của những dị tộc này, khi xưa hữu tâm vô lực thì cũng đành thôi, nhưng nay Đại Đường hùng bá thiên hạ, thiết kỵ chấn động tứ phương, khi quốc uy ta đang thịnh, nếu vẫn để con dân Đại Đường phải chịu cảnh ức hiếp thì bọn ta đường đường là nam nhi, còn mặt mũi nào mà đứng giữa trời đất này chứ? Hừ, cho dù bọn họ đã phạm tội tại dị quốc, muốn thẩm tra cũng chỉ có Đại Đường ta mới có thể thẩm tra, cho dù hắn là quốc vương một nước, cũng không tới lượt hắn làm chủ!”.
Huyền Trang gật đầu đồng ý, trên thực tế cũng nên vậy mới hợp tình hợp lý, từ năm Trinh Quán thứ ba tới nay, sức mạnh của Đại Đường ngày càng hưng thịnh, thời kỳ khuất nhục lúc trước một đi không còn trở lại. Cho dù có vài nước nhỏ giáp biên giới có cố tình gây sự, Đại Đường cũng không thèm để ý tới, lực lượng tích trữ dồi dào, mười vạn thiết kỵ đánh thẳng vào một trong những đế quốc hùng mạnh nhất lúc bấy giờ là Tây Đột Quyết. Đến lúc này, các tiểu quốc xung quanh bị chấn động mà sợ hãi, im lặng không dám lên tiếng.
“Nhưng đại sư!” Vương Huyền Sách nói, “sức mạnh của Đại Đường cho dù có mạnh hơn nữa, nhưng cũng vẫn có nơi mà sức mạnh không dùng được. Đặc biệt là ở Tây Vực này, sức mạnh của chúng ta còn yếu, một khi ngài xảy ra chuyện không hay, e rằng không kịp cứu viện. Đại sư, nghe lời khuyên của tại hạ, Cao Xương lúc này là khởi nguồn của tai họa, e rằng sắp có biến động lớn, đại sư không nên ở lại nơi này lâu. Hãy mau chóng lên đường tiến về phía tây thôi!”.
Huyền Trang gật đầu cảm tạ: “Vương đại nhân, bần tăng có việc không hiểu. Hiện tại Khúc Văn Thái vừa mới bình định được phản loạn, mặc dù bên ngoài có đại quân ba nước, nhưng thành Giao Hà dễ thủ khó công, năm đó người Hung Nô dùng hàng vạn cung nỏ vây đánh cũng không thể công phá nổi, bần tăng không tin tám ngàn quân binh của Long Đột Kỵ Chi và ba nước Tây Vực lại có thể hình thành được sự uy hiếp lớn đối với thành Giao Hà. Tại sao trong mắt ngài, Cao Xương lại giống như là sắp diệt vong đến nơi rồi vậy?”.
Vương Huyền Sách mỉm cười, cau mày trầm ngâm: “Đại Sư, khi ngài vừa bước vào cửa, chắc hẳn cũng nhìn thấy tùy tùng của ta rồi nhỉ? Thật không giấu gì ngài, những người này đều là kiêu kỵ vệ tinh nhuệ dũng mãnh ta mang từ Trường An tới, tổng cộng hơn một trăm người, người nào người nấy đều mặc áo giáp, mang theo nó nặng cung dài. Dựa vào chút binh lực này, ta ở vạn dặm Tây Vực này mới có thể nói là tung hoành vô địch, đối với những tiếu quốc kia, thậm chí có thể đánh một trận là hủy diệt tất cả! Nhưng nội tình Cao Xương phức tạp, vượt xa khỏi tưởng tượng của ngài. Khúc Đức Dũng nổi loạn, chẳng qua chỉ là một góc nổi của tảng băng chìm, còn có những chỗ hung hiểm hơn thế, đến ta cũng phải kinh hãi không thôi, không dám có chút sai sót nào”.
Huyền Trang trầm ngâm: “Vương đại nhân nói đến là chuyện người Yên Kỳ mưu đồ diệt Cao Xương sao?”.
Vương Huyền Sách lắc đầu: “Cuộc chiến tranh đó sao? Hừ, chẳng qua chỉ là tranh giành Con đường Tơ lụa mà thôi, chỉ có liên quân ba nước, ta còn không để vào mắt”.
Huyền Trang ngẩn người: “Vậy điều khiến ngài lo lắng là gì?”
Vương Huyền Sách trầm giọng nói: "Chiếc bình của vua Đại Vệ”.
Huyền Trang trợn mắt há mồm: "Chiếc bình của vua Đại Vệ?”.
“Không sai!” Vương Huyền Sách nói.
Huyền Trang buồn bực: "Chiếc bình của vua Đại Vệ, lẽ nào không phải là âm mưu do công chúa Yên Kỳ tạo ra sao? Nó mặc dù đáng sợ, nhưng bần tăng đến nay vẫn chưa làm rõ được, nó làm thế nào có thể giết sạch hơn một trăm người kia, nhưng nếu đã là cái bẫy thì nhất định có kẽ hở. Đại nhân tại sao lại xem trọng nó như vậy?”.
Vương Huyền Sách ngược lại có phần sửng sốt: "Chiếc bình của vua Đại Vệ là âm mưu của công chúa Yên Kỳ? Ngài nói đến Công chúa Long Sương kia sao?”.
“Chính là nàng ấy”, Huyền Trang gật đầu.
“Chuyện này sao có thể chứ!” Vương Huyền Sách cười, "Chiếc bình của vua Đại Vệ kia đến từ Tát San Ba Tư, nội tình của nó còn phức tạp hơn những gì ngài tưởng tượng nhiều, vị công chúa Yên Kỳ mà ngài nói kia, cùng lắm chỉ là lợi dụng chiếc bình, nhưng nếu nói nó là do nàng ta tạo ra thì tuyệt đối không có khả năng. Bởi vì chiếc bình ma quái kia chỉ mới tới được Tây Vực chừng độ một tháng mà thôi, còn Đại Đường ta từ một năm trước đã bắt đầu cảnh giác chiếc bình ma quái này rồi.”
Huyền Trang lấy làm kinh hãi: “Một năm trước? Đại nhân, chuyện này là như thế nào vậy?”.
“Tình hình cụ thể bên trong thì ta không tiện tiết lộ với ngài. Tóm lại, triều đình Đại Đường ta, vì Chiếc bình của vua Đại Vệ này có thể nói là hao tổn rất nhiều tinh lực.” Vương Huyền Sách cười khổ: “Đại sư, ngài nghe lời khuyên của ta, vẫn là nên sớm ngày lên đường đi về phía tây đi thôi! Ngài là người mà bệ hạ bận lòng, ngộ nhỡ xảy ra chuyện gì, ta không gánh nổi trách nhiệm này đâu!”.
“A Di Đà Phật!” Huyền Trang chắp tay cảm tạ Vương Huyền Sách: “Cảm tạ ngài có lòng lo lắng cho bần tăng. Bần tăng trước đây đã nhận sự nhờ vả của Khúc Văn Thái, cũng đang phá giải chân tướng của chiếc bình này. Bởi vậy, không có lý nào lại bỏ dở giữa chừng được. Giả như Chiếc bình của vua Đại Vệ đích thật giống như những gì ngài nói, là ngọn nguồn gây chấn động Cao Xương, vậy thì bần tăng càng phải ở lại trấn áp tà vật này, trả lại cho bách tính các nước một cuộc sống bình an”.
Vương Huyền Sách chẳng còn cách nào can ngăn, chỉ đành: “Đại sư, những gì tại hạ nói không hề có chút khoa trương. Nếu như ngài không tin, chi bằng cùng ta xuất thành đi xem thử”.
“Xuất thành xem cái gì?”, Huyền Trang không hiểu.
“Phong ba bão táp chốn Tây Vực bắt đầu xoay chuyển, chi bằng để đại sư tận mắt chứng kiến một phen!” Vương Huyền Sách cười nói.
°°°
Huyền Trang cũng qua lại với Vương Huyền Sách được vài ngày, vốn dĩ muốn thăm dò thêm chút nội tình, nhưng Vương Huyền Sách lại không chịu nói, Huyền Trang cũng không thể làm gì được.
Ngày hôm đó, khi hai người rời khỏi nơi ở của Vương Huyền Sách, thì ánh sáng cũng dần ảm đạm, mặt trời ngả về phía tây. Bởi vì tiết trời rét buốt, đám thương nhân rối rít bắt đầu thu dọn hàng hóa, khu chợ cũng trở nên lộn xộn hơn. Nhưng ngoài cổng thành lại có không ít thương nhân đường xa đang vội vàng xin nhập thành trước hoàng hôn, tập trung thành một đoàn trước cổng.
Vương thành Cao Xương là một trong những trung tâm thương mại của Tây Vực, luôn dành ưu đãi đối với thương lữ, ngày thường ở cổng thành chỉ có quan thu thuế Dân bộ đứng canh giữ, trưng thu thuế vào thành. Nhưng hôm nay không biết xảy ra chuyện gì mà lại có rất nhiều túc vệ của vương cung canh giữ bên ngoài thành, còn có vài thợ thủ công đang dùng tơ lụa để trang trí cổng thành, đám thương nhân đều bị xua đuổi sang hai bên lề đường.
Huyền Trang không khỏi hiếu kỳ, liền hỏi Vương Huyền Sách. Vương Huyền Sách lại cười mà không nói, Huyền Trang chỉ đành tìm một thương nhân để hỏi thăm. Thương nhân nọ vừa nhìn thấy là một hòa thượng, lập tức nói với vẻ cung kính: “Bẩm đại sư, hôm nay Mạc Hạ Đốt[97] của Tây Đột Quyết đến Cao Xương để hòa giải chiến sự của Cao Xương và Yên Kỳ, vì vậy quốc vương Cao Xương mới đích thân xuất thành nghênh đón”.
“Mạc Hạ Đốt? Đó là người nào vậy?” Huyền Trang kinh ngạc nói.
Vương Huyền Sách cười nói: “Mạc Hạ Đốt là bá phụ của Khả hãn Thống Diệp Hộ, là Thiết[98] của Tây Đột Quyết, địa vị chỉ dưới Khả hãn Thống Diệp Hộ”.
“Vị tiểu ca này đúng thật là hiểu biết rộng!” Thương nhân kia khen, lập tức nói với Huyền Trang, “vị Thiết Mạc Hạ Đốt này nghe nói trời sinh tham lam, lần này nhân chiến sự căng thẳng mà tìm đến Cao Xương, e rằng là muốn hung hăng vơ vét một mớ hời từ quốc vương Cao Xương rồi. Có điều nếu hắn thật sự có thể khiến ba nước bãi binh, Con đường Tơ lụa có thể khôi phục hòa bình, thì đối với những thương nhân chúng tôi mà nói đó lại là một chuyện tốt”.
Huyền Trang đã hiểu, hỏi Vương Huyền Sách: “Đại nhân, ngài đưa bần tăng đến đây, chắc hẳn là muốn ta gặp người này có phải không?”.
“Đúng vậy!” Vương Huyền Sách gật đầu.
“Lẽ nào tai họa của Tây Vực mà ngài nói từ người mà ra này sao?” Huyền Trang suy tư.
Vương Huyền Sách cười lớn: “Đại sư thật là lợi hại. Muốn khiến Tây Vực chìm vào hỗn loạn, chỉ một mình Cao Xương làm sao có đủ bản lĩnh này chứ!”.
Khi đang nói chuyện, ngoài cổng thành vang lên tiếng kèn hiệu, Khúc Văn Thái dẫn đầu quần thần của Cao Xương đến cổng thành, quy mô lần này lớn hơn nhiều so với lúc đầu nghênh đón Huyền Trang, chỉ sợ không dưới ngàn người, còn có mấy trăm tăng lữ. Huyền Trang nhìn từ xa thấy bệnh tình của Khúc Văn Thái vẫn chưa hồi phục, nửa nằm nửa ngồi trên kiệu, chiếc kiệu kia được bốn túc vệ khôi ngô lực lưỡng khiêng, bên trên có trải một lớp da lông thật dày. Trên người Khúc Văn Thái cũng đắp da lông, gần như không nhìn thấy bóng người.
Lúc này Mạc Hạ Đốt còn chưa tới, cổng thành đã xây dựng lều trướng nghỉ ngơi tạm thời, Khúc Văn Thái dẫn theo một đám trọng thần vào nghỉ ngơi trong lều trướng.
Trên đường lớn thỉnh thoảng có khoái mã chạy băng băng, hồi báo hành trình của Mạc Hạ Đốt. Khúc Văn Thái dường như là bấm đốt ngón tay chờ đợi thời gian Mạc Hạ Đốt tới. Không tới nửa canh giờ sau liền nhìn thấy từ phía bắc, hướng Hỏa Diệm Sơn, cuồn cuộn nổi lên một trận khói bụi, một đám người ngựa đang vội vàng chạy về hướng vương thành. Khúc Văn Thái nghe tin, vội vàng kêu người khiêng ông ta từ trong lều trướng ra, cung kính đợi ở ngoài cổng thành.
Chỉ chốc lát, liền nghe thấy tiếng vó ngựa sắt vang ầm ầm, cũng không biết Mạc Hạ Đốt mang theo bao nhiêu quân tới, chỉ thấy rằng mặt đất đang rung chuyển, tai của mọi người xung quanh như ù đi, cho dù có lớn tiếng hò hét cũng không nghe thấy người bên cạnh nói gì! Những người khác còn đỡ, mặc dù có bị chấn động, nhưng cũng không xem nặng chuyện này, Huyền Trang đưa mắt nhìn từ xa, chỉ thấy Khúc Văn Thái đang gắng gượng ngồi dậy nhìn về phía trước, sắc mặt trắng bệch, có chút lo sợ bất an. Trong lòng Huyền Trang hiểu, nhân vật chính trị như Mạc Hạ Đốt này, mỗi một hành động đều có nhiều ý nghĩa sâu xa, hiện nay Mạc Hạ Đốt bày ra uy thế lớn như vậy, tựa hồ như có ý báo kẻ tới không có ý tốt!
Các kỵ binh phi ngựa tới với tốc độ cực nhanh, nháy mắt đã nhìn thấy một dòng lũ màu đen cuồn cuộn kéo tới. Sắc mặt Khúc Văn Thái đanh lại, biểu cảm khác thường đứng yên tại chỗ.
Vương Huyền Sách đứng một bên lẩm bẩm: “Không ngờ lại là Phụ ly binh!”.
Huyền Trang hiếu kỳ: “Đại nhân, Phụ ly binh là gì vậy?”.
“Đại sư”, Vương Huyền Sách giải thích, “Trong tiếng Đột Quyết, Phụ ly nghĩa là sói, là quân đội thị vệ của Đột Quyết Hãn, là binh đoàn tinh nhuệ nhất trong các binh sĩ tinh nhuệ”.
Huyền Trang đưa mắt nhìn, quả nhiên họ đều mặc đồng phục một màu, có trang bị mã tấu, trường mâu, chủy thủ và cung tiễn, ngựa Đột Quyết được tinh chọn kỹ càng đều có gân cốt rắn chắc, khỏe mạnh, tỷ lệ cân xứng.
Trước khi đến gần, trong đội quân vang lên một tiếng kèn lệnh, các kỵ binh Đột Quyết ghìm dây cương lại, chiến mã hí vang một tiếng, đồng loạt dừng lại, tựa như một con mãng xà khổng lồ đang nằm bất động, từ cực động đến cực tĩnh, càng khiến người ta sợ mất vía.
Lúc này, kỵ binh chia ra hai bên, một quý tộc Đột Quyết lưng dắt loan đao cưỡi ngựa chậm rãi đi ra từ trong hàng ngũ. Huyền Trang liếc mắt quan sát, người này ắt hẳn là Mạc Hạ Đốt, áng chừng hơn năm mươi tuối, mặt mũi thô kệch, mắt hẹp dài, trên bào phục lộng lẫy đắt tiền đính đầy vàng ngọc.
Khúc Văn Thái không có cách nào xuống kiệu được, thúc giục đám túc vệ khiêng ông ta đến trước mặt Mạc Hạ Đốt thi lễ, những thần tử Cao Xương khác cùng nhau quỳ xuống nghênh đón. Mạc Hạ Đốt cũng không để tâm, bật cười lớn tựa như an ủi Khúc Văn Thái vài câu, hai người trò chuyện trong chốc lát. Huyền Trang đứng cách đó tương đối xa, nên cũng không nghe rõ, chỉ nhìn thấy Khúc Văn Thái mỉm cười, tỏ ra vô cùng cung kính. Mạc Hạ Đốt hăm hở chỉ vào kỵ binh sau lưng mình và nói gì đó, trên mặt Khúc Văn Thái thoáng hiện vẻ giận dữ, nhưng lại lập tức che giấu, nhìn đám kỵ binh này với ánh mắt ngưỡng mộ.
Ngay sau đó liền bắt đầu nghi thức nghênh đón, đám tăng lữ tụng kinh, chúc phúc cho Mạc Hạ Đốt. Người Đột Quyết đa số đều theo Tát Mãn giáo[99], nhưng không phải chỉ theo một tín ngưỡng, Phật giáo, Bái Hỏa giáo, Cảnh giáo[100] ở Đột Quyết cũng có rất nhiều tín đồ. Mạc Hạ Đốt cúi đầu nhận lấy lời chúc phúc, thái độ có phần kính cẩn.
Huyền Trang và Vương Huyền Sách trà trộn vào trong đám người luôn đợi hai bên đường, đợi Khúc Văn Thái cùng Mạc Hạ Đốt vào thành rồi, thủ vệ ở cổng thành mới rút đi, đám thương lữ lại bắt đầu lục tục vào thành.
Huyền Trang nhìn bóng lưng của Phụ ly binh, đột nhiên cảm khái: “Tai họa của Cao Xương cuối cùng đã tới rồi.”
“Đại sư hiểu rồi sao?” Vương Huyền Sách nhìn ngài.
Huyền Trang gật đầu: “Giờ này khắc này, Mạc Hạ Đốt tới Cao Xương, ai nấy đều cho rằng là để hòa giải chiến sự ba nước, nhưng mục đích thật sự của hắn e rằng không phải là như vậy. Hóa giải phân tranh của người khác, tại sao lại đem theo hơn ngàn thiết kỵ tinh nhuệ chứ?” Huyền Trang cười khổ: “Đây rõ ràng là một kiểu thị uy. Dựa vào địa vị của Mạc Hạ Đốt, thứ mà hắn còn cần phải dựa vào đại quân để bức bách mới có được, nhất định không nhỏ. Thật không biết Khúc Văn Thái nên ứng phó như thế nào!”.
“Đại sư nhất định biết hắn đang toan tính cái gì rồi”, Vương Huyền Sách gật đầu.
“Đúng vậy, mang ngọc mắc tội, Cao Xương lúc này, thứ có thể khiến Mạc Hạ Đốt động tâm, chỉ có thể là Chiếc bình của vua Đại Vệ” Huyền Trang nói.
“Đại sư cao minh!” Vương Huyền Sách khen ngợi, “tai họa Tây Vực mà tại hạ nói, chính là việc này. Chiếc bình của vua Đại Vệ, thứ này đối với tất cả mọi người đều có sức hấp dẫn khó có thể kháng cự. Mạc Hạ Đốt vừa đến, Con đường Tơ lụa liền không thể yên ổn được nữa, cả Tây Vực có thể chìm trong phân tranh máu và lửa. Điều tại hạ lo lắng, cũng chính là chuyện này”.
“Đại nhân”, Huyền Trang suy nghĩ trong chốc lát, rồi nói: “Khúc Văn Thái vốn có ý muốn dựa vào Đại Đường, nếu như ngài chịu ra tay giúp đỡ vào thời khắc quan trọng này, hóa giải nguy cơ diệt quốc này, ông ấy nhất định sẽ vô cùng cảm kích Đại Đường”.
“Đông Đột Quyết chưa diệt, Đại Đường tuyệt đối không can thiệp vào Tây Vực.” Vương Huyền Sách nghiêm mặt nói: “Đây là quốc sách mà Bệ hạ định sẵn, thân là thần tử, ta không dám làm trái. Đại sư, hôm nay ta vì cứu những lưu dân kia mới di gặp Khúc Văn Thái, cũng vi phạm lệnh cấm rồi, ta còn sứ mệnh quan trọng hơn, sau này những chuyện như thế này tuyệt đối không thể làm nữa. Đợi đến ngày mai, tại hạ sẽ rời khỏi Cao Xương, tới triều đình Tây Đột Quyết!”.
Huyền Trang có chút thất vọng, nhưng cũng biết Vương Huyền Sách mang sứ mệnh trên người, thân bất do kỷ, chỉ đành chán nản gật đầu.
Lúc này sắc trời đã muộn, hai người lại trò chuyện chốc lát rồi ai trở về chỗ người nấy.
Huyền Trang trở về vương cung, túc vệ canh cổng đều biết ngài, lập tức cung kính mời ngài vào. Không ngờ vừa vào cổng cung, liền nhìn thấy một lão thái giám lén lén lút lút đi tới. Vẻ mặt thái giám kia rất khẩn trương, vừa thấy Huyền Trang đã vội vàng đưa mắt nhìn xung quanh, thấy không có ai, mới yên tâm.
Huyền Trang kinh ngạc nhìn hắn.
“Đại sư, chủ nhân nhà ta muốn gặp ngài”, lão thái giám nhỏ giọng nói.
Huyền Trang tò mò: “Chủ nhân nhà ngươi là ai?”.
Lão thái giám nói khẽ: “Chính là vương phi!”.
Huyền Trang vô cùng kinh ngạc. Vương phi từ sau khi liên hợp cùng Khúc Đức Dũng tạo chính biến thất bại, bị Khúc Văn Thái giam cầm lại, Huyền Trang thực ra cũng lo lắng không thôi, nhưng lại không tiện hỏi thăm, không ngờ hôm nay vuơng phi lại phái thái giám tới tìm mình.
“Vương phi đang ở đâu?” Huyền Trang hỏi.
Lão thái giám thở dài một tiếng: “Mấy ngày nay bệ hạ nhốt vương phi trong tẩm cung lúc trước, trông coi rất chặt chẽ, vương phi nhiêu lần muốn gặp ngài, nhưng lại không tiện ra ngoài. Vừa vặn hôm nay bệ hạ đang ở nội điện tiếp đón Thiết Mạc Hạ Đốt, lúc này mới tiện mời ngài tới gặp mặt”.
Huyền Trang trầm ngâm gật đầu: “Vậy được!”.
Huyền Trang cùng lão thái giám đi về hướng hậu cung, lão thái giám kia nói quả nhiên không sai, lúc này Khúc Văn Thái bệnh nặng, lại có Mạc Hạ Đốt dẫn quân tới đây, trong cung lòng người ai nấy đều bàng hoàng kinh sợ, hiển nhiên là rất vắng vẻ, trên đường mặc dù có bắt gặp mấy cung nhân, nhưng nhìn thấy Huyền Trang, họ đều biết ngài là vị khách tôn kính nhất của Khúc Văn Thái, nên đều hết mực kính cẩn lễ phép, không một ai dám hỏi nhiều.
Tẩm cung của vương phi, Huyền Trang cũng từng đến một lần, hôm đó mặc dù là vào từ cửa ngầm trong giếng mương, nhưng lúc đi ra, lại cũng có thể cảm nhận được khí thế và sự huy hoàng của tòa cung điện này, nhưng mà hôm nay nhìn thấy, Huyền Trang không khỏi giật mình. Cửa sổ bốn phía của cung điện đều bị những viên gạch mộc thật dày bít kín, chỉ để lại một chiếc cửa sổ nho nhỏ ở bên cạnh sườn, đoán chừng là dùng để đưa cơm vào trong. Ngoài cửa còn có bốn túc vệ đang canh giữ. Bốn người đó e rằng đã bị mua chuộc rồi, nhìn thấy Huyền Trang bước tới cũng không nói gì, chỉ là vẻ mặt càng thêm phần cảnh giác.
Tâm trạng của Huyền Trang có chút nặng nề, nhìn xung quanh một chút: “Bần tăng phải vào từ đâu đây?”.
Lão thái giám ra dấu tay, bốn thủ vệ kia lén lút mang một cái thang từ một tiểu viện khác tới, bắc lên tường viện, lão thái giám dẫn Huyền Trang leo lên thang, men theo tường viện đi tới tầng hai của cung điện, đến trước một cái cửa thông gió bí mật. Cái cửa thông gió này cũng bị gạch mộc lấp kín, nhưng dễ dàng nhận thấy nó sớm đã bị người khác phá bỏ rồi, gạch mộc không thể ngờ rằng lại có thể di động. Lão thái giám dời gạch mộc đi, để lộ ra một lỗ hổng.
“Đại sư, ngài đi vào từ đây, liền có thể đến được lầu hai trong cung!” lão thái giám nói.
Huyền Trang gật đầu, chui từ lỗ hổng vào, vừa bước vào liền cảm nhận được sự tối tăm, lạnh lẽo và trống vắng trong đại điện, đến một thị nữ cũng không có, giống như một phần mộ bị bỏ trống trăm năm, lộ ra không khí chết chóc nồng đậm. Huyền Trang không khỏi cảm thấy kỳ lạ, nếu như đến lối ra và thủ vệ đều được sắp xếp ổn thoải rồi, thì vị vương phi này tại sao lại không chịu chạy trốn, mà lại muốn một mình bị nhốt trong đại điện tĩnh mịch, lạnh lẽo này?
Lầu hai vắng vẻ, Huyền Trang đi xuống theo cầu thang, liền nhìn thấy vương phi mặc trang phục lộng lẫy ngồi ngay chính giữa đại điện, váy dài kéo lê trên mặt đất, tựa như bông hoa sen nở rộ.
Nhưng vương phi lúc này, đã sớm không còn là bậc mẫu nghi thiên hạ duyên dáng, sang trọng mà Huyền Trang mới gặp lúc đầu, càng không phải là nữ tử thần bí lúc trước múa chùy bắt cóc ngài dễ dàng như vào chốn không người trên quán rượu ở thành Giao Hà. Chỉ vẻn vẹn vài ngày không gặp, mà dung nhan của nàng giờ đây tiều tụy già yếu trông thấy, vết sẹo trên mặt đã kết vảy, một vết sẹo dài màu đen dường như chia cả khuôn mặt thành hai nửa. Mái tóc đen dày của nàng ấy vậy mà lại chuyển sang màu trắng bạc, tựa như già thêm hai ba mươi tuổi! Nàng vẫn mặc bào phục lộng lẫy sang trọng hôm chính biến, vết máu loang lổ, rách nát tả tơi, có vài chỗ còn xuất hiện lỗ thủng, trong thời tiết rét mướt, da dẻ bị lạnh đến tím tái.
Nhìn thấy Huyền Trang tới, vương phi thản nhiên nói: ”Đại sư, mời ngồi!”.
Huyền Trang ngồi xếp bằng trên tấm thảm đối diện nàng. Vương phi nói: “Với cảnh ngộ hiện tại của ta, đại sư có thể tới thăm ta mà không chút hiềm nghi, ngài quả là từ bi hiếm thấy”.
Huyền Trang lặng lẽ nhìn nàng, tâm trạng nặng nề: “Trong mắt Phật gia, có tội và không có tội, không hề do thế nhân quyết định”.
“Ta thà để thế nhân quyết định, hay Khúc Văn Thái lăng trì xử tử, cũng không muốn vào địa ngục Nê Lê để kiếp sau đền tội. Đại sư có biết tại sao không?” vương phi cười tự giễu một cái, “Bởi vì, nhân gian đối với ta chẳng còn gì vương vấn, nhưng tại âm ti, tại kiếp sau, Đức Dũng còn đang đợi ta!”.
Huyền Trang thở dài nói: “Công chúa, những tai họa của thế gian, khiến chúng sinh khiếp sợ, tất cả đều do chấp niệm. Người cố chấp với suy nghĩ này, dù cho có trải qua trăm kiếp trong luân hồi, cũng vẫn cho rằng việc mình làm là đúng, thân ta cũng phân thật giả, thể xác này là giả, thiên tính mới là thật, cớ sao còn chấp ngã, người phải biết từ bỏ tâm dục ái, đến khi ấy mới thôi không chấp vào ảo vọng. Công chúa, buông bỏ thôi!”.
Trên mặt vương phi lộ ra nụ cười bình thản: “Buông bỏ rồi thì ta còn có thể đi đâu đây?”.
Không đợi Huyền Trang trả lời, vương phi lại nói: “Đời này, phụ mẫu vứt bỏ ta cho hoàng đế, hoàng đế lại vứt bỏ ta cho quốc vương Cao Xương, quốc vương Cao Xương lại vứt bỏ ta cho quý tộc Đột Quyết. Hiện tại, gia tộc sụp đổ, cố quốc đã mất, tình phu thê cũng chết, dung nhan và thanh xuân của ta lại càng không còn. Đại sư, trong cung điện cô đơn lạnh lẽo này, thứ duy nhất có thể làm bạn với ta là gió, là sự lạnh lẽo, là bóng tối, là linh hồn chưa tiêu tan của Đức Dũng. Nếu chấp nhận buông bỏ rồi thì đời này ta rốt cuộc đã từng có thứ gì chứ?”.
“Công chúa, hà cớ gì phải có?” Huyền Trang thấp giọng nói.
“Bởi vì…” vương phi nói bằng giọng thê lương: “Nắm được trong tay thì trong lòng mới thấy thỏa mãn. Trong sự phán quyết và trừng phạt của địa ngục Nê Lê, mới không sợ hãi, không bị cô đơn”.
Huyền Trang thật không biết nên khuyên giải như thế nào nữa, rõ ràng là người phụ nữ ở trước mặt ngài đây đã như đụn lửa sắp tắt, chỉ còn lại tàn lửa đang lập lòe, Huyền Trang thật không nhẫn tâm dập tắt tia chấp niệm cuối cùng của nàng ta. Chúng sinh không ngừng luân hồi, có lẽ một vài chấp niệm cần phải tới luân hồi kiếp sau mới có thể thể ngộ ra được!
“Công chúa, hôm nay người kêu bần tăng đến, là có việc gì muốn dặn dò sao?” Huyền Trang hỏi.
Vương phi gật đầu: “Là có một chuyện, muốn xin đại sư thành toàn!”.
“Công chúa, xin mời nói”, Huyền Trang nói.
“Ta muốn hợp táng với Đức Dũng!” vương phi nhìn chằm chằm vào ngài, nói rõ từng câu từng chữ.
Huyền Trang nhất thời mở to hai mắt. Vương phi hợp táng với Khúc Đức Dũng? Khoan bàn đến quan niệm Nho gia Trung Nguyên, đây là hành động loạn luân nghiêm trọng nhất, mà ngay cả ở Tây Vực thờ phụng Phật giáo, Đột Quyết không theo Nho giáo, thì đây vẫn là chuyện không thể tưởng tượng nổi.
“Thi thể của Đức Dũng còn chưa được an táng, hiện tại đang đặt trong chùa của vương cung, ngày ngày mời cao tăng tụng kinh, phải đặt đủ bảy ngày mới có thể hạ táng”, vương phi lại không hề quan tâm đến cảm nhận của Huyền Trang, tự mình nói tiếp, “việc ta muốn nhờ chính là xin đại sư trộm thi thể của Đức Dũng ra, đến lúc đó, ta sẽ tự sát. Ở phía bắc Hỏa Diệm Sơn, trong thung lũng Thiên Sơn, có một lò luyện cực lớn, xin đại sư ném thi thể của hai người chúng ta vào trong lò luyện đó, cùng hóa thành tro bụi”.
“A Di Đà Phật!” Huyền Trang nhất thời nóng giận, “Công chúa, bần tăng làm sao có thể làm được chuyện như vậy?”.
“Đại sư, người ta có thể nhờ vả, chỉ có ngài mà thôi!” vương phi buồn bã nói: “Người trên đời này, chỉ mình đại sư là không có bất cứ mục đích gì khác, không có ân oán, lo lắng, chỉ tới vì phổ độ chúng sinh. Ta và Đức Dũng bái lạy cầu xin đại sư, xin ngài tiễn chúng ta đoạn đường cuối cùng trên dương thế này!”.
“Không, không, không!” Huyền Trang quả quyết cự tuyệt, “Công chúa, không phải là bần tăng không bằng lòng giúp người. Trộm thi thể, sau đó lại hủy thi thể người khác là đại tội, bần tăng không gánh vác nổi đâu!”.
“Đại sư không cần tự mình làm”, vương phi nói: “Tự khắc có người đến phối hợp với Đại sư.”
“Như vậy cũng không được!” Huyền Trang lắc đầu, “bần tăng mặc dù là người xuất gia, nhưng cũng chịu ràng buộc pháp lệnh nhân gian, thật sự không dám làm ra loại chuyện này”.
Vương phi lộ ra nụ cười: “Đại sư lần đầu tiên từ Ích Châu lén lút vượt quan ải, du học thiên hạ; lần thứ hai từ Qua Châu lén vượt biên cảnh, tới Tây Vực. Có lần nào chưa từng vi phạm pháp lệnh Đại Đường?”.
Huyền Trang nhất thời há hốc miệng, không lên tiếng được. Vương phi nói: “Đại sư nếu như đồng ý, ở đây ta có một bí mật lớn, không ngại làm một cuộc trao đổi với ngài”.
“Bí mật lớn?” Huyền Trang kinh ngạc nói, “có liên quan đến bần tăng sao?”.
“Đương nhiên có liên quan!” vương phi gật đầu nói, “có liên quan đến người bên cạnh đại sư, càng có liên quan đến chuyện sống chết của đại sư”.
Huyền Trang suy nghĩ trong giây lát, nhưng vẫn lại lắc đầu: “Chuyện sống chết của bần tăng không phải là chuyện gì to tát”.
“Vậy thì, chuyện sống chết của A Thuật cũng không phải là chuyện lớn sao?”, vương phi nói.
Huyền Trang vô cùng kinh ngạc, nửa tin nửa ngờ nhìn vương phi chằm chằm. Vương phi than thở: “Đại sư, nếu ngài thật sự thấy khó xử, có thể đợi đến khi thi thể của ta và Đức Dũng chuyển ra, tiễn chúng ta một đoạn có được không? Nếu như có thể tụng niệm mấy câu Chú Vãng Sanh, chúng ta sẽ ghi nhớ đại ân của đại sư!”.
Huyền Trang yên lặng gật đầu. Vương phi lấy ra một tờ giấy mỏng từ trong ống tay áo đưa cho ngài: “Việc này bí mật, bên trên viết rất rõ ràng, đại sư xem xong, có thể tự quyết định”.
Huyền Trang cầm lấy, chữ trên tờ giấy không nhiều, lại khuấy động sóng to gió lớn trong lòng ngài, dù cho ngài có vững như núi, cũng không khỏi sợ hãi đến mức mặt mày biến sắc. Nhưng ngài không hề nói gì, lập tức khôi phục lại sự bình tĩnh, cất tờ giấy cẩn thận.
“Đại sư có định lực tốt thật!” vương phi khen ngợi, “khi ta vừa được biết, cũng vô cùng kinh hãi. Thủ đoạn thần quỷ bậc này, nào phải thứ có ở nhân gian chứ?”.
Huyền Trang lặng lẽ thở dài: “Công chúa, nếu không có chuyện gì khác, bần tăng xin cáo từ!”.
“Sắc trời vừa xuống, đại điện này sẽ biến thành mộ phần. Tối om, trống trải, bẩn thỉu, đại sư không cần dính vào”, vương phi ngắm nhìn cửa sổ đưa cơm, nhẹ nói: “Những gì nên nói ta đã nói hết rồi, làm hay không làm xin đại sư tự quyết định. Đại sư thân mang trọng trách, vì an nguy của ngài, vẫn là sớm ngày lên đường Tây du thôi!”.
Huyền Trang không nói gì, đứng dậy, nói: “Công chúa, có cần bần tăng khuyên bảo bệ hạ, đem một ít lửa than qua không?”.
“Không!” vương phi lạnh lùng đáp, “Đời này kiếp này, ta không bao giờ muốn nghe thấy cái tên này nữa! Nếu không phải vì muốn đợi cùng hợp táng với Đức Dũng, ta hà tất phải kéo dài chút hơi tàn ở đây? Đại sư, bí mật lớn kia ta cũng nói cho ngài rồi, chuyện ta cầu xin, ngàn vạn lần xin ngài đừng quên, ngày ngài trộm được thi thể Đức Dũng ra, cũng chính là ngày cuối cùng trên cõi đời này của ta!”.
“Bần tăng biết!” Huyền Trang khổ sở không thôi.
Huyền Trang đi tới bên cửa sổ đưa cơm, lại quay đầu nói: “Công chúa, hoa sen sống trong nước, cánh hoa không nhiễm bẩn, theo như bần tăng thấy, người lúc này mới thực sự xinh đẹp hơn bất cứ lúc nào khác”.
Khuôn mặt nhợt nhạt của vương phi thoáng ửng đỏ, nàng mặc trang phục lộng lẫy nhưng đã rách nát, ngồi chính giữa đại điện, trông lại thật sự giống như một đóa hoa sen không nhiễm bùn.
Đi từ trong cung của vương phi ra, Huyền Trang bước về nơi ở của mình. Không ngờ đi một vòng thế nào lại lạc đường rồi.
Vương cung Cao Xương mặc dù không lớn, nhưng bố cục lộn xộn, cũng không có một trục đường giữa giống kiến trúc Trung Nguyên, phòng ốc trùng trùng điệp điệp, ở giữa còn có hành lang, Huyền Trang vòng tới vòng lui, không hiểu sao lại lạc tới một nơi xa lạ.
Ngài đang định tìm một cung nhân hỏi xem thì đột nhiên phát hiện phía trước có một tòa tháp Phật cao ngất, kiến trúc cũng không giống như nhà dân, vàng son lộng lẫy, không ngờ đó lại là một chùa Phật. Huyền Trang đột nhiên tỉnh ngộ, ngài đã sớm biết trong vương cung có một ngôi chùa Phật, khi mới vào cung còn định đến bái Phật, sau đấy được biết đó là từ đường của hoàng tộc họ Khúc, mới coi như miễn. Không ngờ rằng hôm nay lại đi lạc tới chỗ này.
Huyền Trang là một người quá sức thành kính, gặp chùa nhất định phải bái. Huống chi theo lời của vương phi, thi thể của Khúc Đức Dũng vẫn còn đặt trong miếu, mặc dù chuyện trộm thi thể hợp táng thật sự là hoang đường, Huyền Trang tuyệt đối không chịu làm, nhưng ít nhiều trong lòng cũng cảm thấy áy náy, thầm nghĩ, nếu chỉ là niệm vài lần Chú Vãng Sanh, cũng coi như bù đắp cho sự hổ thẹn này vậy!
Huyền Trang nghĩ ngợi một hồi rồi bước vào trong chùa Phật, vừa bước vào liền cảm thấy kỳ lạ, không ngờ trong chùa trống rỗng, không nhìn thấy một hòa thượng nào. Khúc Văn Thái quanh năm nuôi dưỡng hòa thượng Cao Xương trong chùa, vậy thì những hòa thượng đó đi đâu mất rồi?
Huyền Trang lững thững bước vào đại điện, lúc này mặt trời đã lặn, sắc trời cũng trở nên ảm đạm, trong đại điện chỉ có vài cây nến đang cháy, trong gió đêm chập chờn muốn tắt, mờ mịt không gì sánh được, mơ hồ có thể nhìn thấy trong điện bày một cỗ quan tài. Trong lòng Huyền Trang khẽ động, chắc hẳn là quan tài của Khúc Đức Dũng nhỉ?
Huyền Trang bước nhanh vào trong, nhất thời ngẩn người, ngài không nghĩ tới trong đại điện vẫn còn có người! Hai người đều đang quay lưng về phía ngài, một người thì đứng một bên, không nói lời nào, người còn lại thì quỳ trên bồ đoàn trước quan tài, đốt hương trước Phật, quỳ gối chắp tay, trong miệng còn tụng niệm kinh văn, niệm Chú Vãng Sanh. Kinh chú này Huyền Trang rất quen thuộc, dùng để siêu độ vong linh, tổng cộng mười lăm câu, năm mươi chín chữ, ngày đêm tụng niệm hai mươi mốt lần là có thể xóa bỏ bốn trọng tội, năm nghịch tội, mười loại ác nghiệp cho vong linh.
Người nọ cứ niệm mãi, rồi đột nhiên gào khóc nức nở: “Đức Dũng! Đức Dũng! Con mở mắt ra nhìn đi, nhìn mà xem! Ta còn cái gì không cho con chứ? Hả? Từ khi con khóc chào đời, ta đã coi con như trân bảo, có ngày nào không ôm con trong lòng, có ngày nào không che chở yêu thương con chứ? Tướng mạo con giống ta, tính cách cũng giống ta, mặc dù con không phải trưởng tử, không thể kế thừa vương vị, nhưng ta thà rằng không để ý đến luật lệ của tổ tông, không quan tâm triều đình và dân chúng phản đối, cũng phải nâng đỡ con lên làm quốc vương Cao Xương, đến những quân sĩ trung thành trong vương cung của ta cũng đều cho con hết, đây… đây chẳng phải là đã giao cho con cái đầu của ta rồi sao! Đức Dũng, con nói… con nói xem, ta rốt cuộc có lỗi với con ở điểm nào? Con lại hợp sức với con tiện nhân kia để phế truất ta!”.
Huyền Trang dừng bước chân, đứng bên cửa yên lặng lắng nghe. Người nọ hẳn nhiên là Khúc Văn Thái.
Xem thời gian, có lẽ tiệc chiêu đãi Mạc Hạ Đốt cũng kết thúc rồi, cơ thể Khúc Văn Thái suy nhược, ban ngày còn thổ huyết rồi hôn mê, lúc này không đến hậu cung tĩnh dưỡng, lại chạy đến trước linh cữu của Khúc Đức Dũng mà kêu khóc. Huyền Trang không khỏi bùi ngùi vô hạn. Khúc Văn Thái tuy tàn bạo với thê tử, nhưng đối với bách tính lại nhân ái, đối với nhị hoàng tử lại càng yêu thương hết mực, cho dù hắn tạo chính biến, muốn giết cha, nhưng ông ta cũng không nỡ bỏ mối tình phụ tử này. Nhất thời, Huyền Trang thật sự không biết cảm giác trong lòng mình là gì nữa.
“Đức Dũng, con trách phụ vương ép con đến bước đường mưu phản, phụ vương cũng biết mình sai rồi! Nhưng nếu con muốn làm chức quốc vương này, tại sao lại không dám nói rõ ràng với phụ vương? Lại muốn chịu sự mê hoặc của ả tiện nhân kia, phát động chính biến? Hử? Con sợ con nói ra liền bị phụ vương quở trách sao? Con nhầm rồi! Đức Dũng, con nhầm rồi! Cho dù ta có nhường ngôi cho con, vậy thì sao chứ? Dù cho ta dưỡng lão trong cung đó, tham Phật trong chùa miếu, vậy thì đã sao? Đức Dũng à, tại sao con lại ngốc như vậy?” Khúc Văn Thái cứ nói mãi, rồi lại gào lên khóc nức nở, ngay sau đó liền ho kịch liệt, Chu Quý vội vàng tiến lên phía trước đỡ, rồi nhẹ nhàng vỗ lưng ông ta.
Huyền Trang lại thở dài một hơi, bước vào đại điện: “Bệ hạ, xin bớt đau thương!”.
Hai người kinh ngạc, cùng quay đầu lại, nhìn thấy Huyền Trang, Khúc Văn Thái nhất thời lại khóc rống lên: “Đại sư, đại sư, Đức Dũng chết rồi! Đức Dũng chết rồi! Là ta ép nó chết!”.
Huyền Trang vội vàng tiến lên đỡ, đến gần rồi, mới nhìn rõ gương mặt của Khúc Văn Thái vô cùng tiều tụy, nếp nhăn ngang dọc, vốn dĩ khi trước chỉ có mấy sợi tóc bạc, hiện tại đã đầu đầy hoa râm. Từ chính biến đến hiện tại mới chỉ qua một hai ngày, vậy mà ông ta như đã già đi cả chục tuổi.
“Bệ hạ!” Huyền Trang nói: “Người cũng đã chết rồi. Hai người là phụ tử, Đức Dũng phạm đại tội như vậy, ngài có thể niệm Chú Vãng Sanh giúp ngài ấy giảm bớt tội nghiệp, để ngài ấy không phải chịu đau đớn khổ sở dưới cõi âm, Đức Dũng ắt hẳn sẽ rất cảm kích”.
Khúc Văn Thái dần dần ngừng khóc, cả người mềm nhũn, ngả vào lồng ngực của Huyền Trang, lẩm bẩm: “Đại sư, đệ tử không cần nó cảm kích, chỉ muốn Đức Dũng sống lại. Nhân Thư chết rồi, Đức Dũng chết rồi, tính cách của Trí Thịnh không làm quốc vương được. Đại sư, sau khi đệ tử chết, Cao Xương này liền bị chia năm xẻ bảy, vong quốc diệt chủng. Đệ tử… đệ tử có lỗi với tổ tiên tám đời tiên vương!”.
Nói đến vấn đề này, Huyền Trang thật sự không có cách nào khuyên nhủ, ở bất cứ quốc gia nào, người kế thừa vương vị bị đoạn tuyệt đều có nghĩa là tai họa đáng sợ sắp ập đến, kẻ ham muốn vương quyền nhất định sẽ lũ lượt kéo đến, cướp đoạt vương miện, quốc gia diệt vong, thấy người phơi khắp chốn dường như là kết cục không thể tránh khỏi. Mặc dù còn có một Khúc Trí Thịnh, nhưng người này không hề có hứng thú làm quốc vương, tính cách hắn ai ai cũng đều hiểu, cho dù có làm quốc vương, chỉ sợ cũng không giữ nổi quốc gia này.
“Bệ hạ!” Huyền Trang chỉ có thể dùng lời nói ôn tồn để động viên: “Người chết không thể sống lại, một quốc gia vẫn cần phải duy trì. Người vẫn cần phải bảo vệ sức khỏe, để bách tính an cư, còn về chuyện hậu sự của Đức Dũng, bần tăng sẽ đích thân siêu độ cho ngài ấy. Hai người làm phụ tử một đời, duyên phận cũng cạn rồi, nước sông không phạm nước giếng, không cách nào ngăn cản được định số của vận mệnh này!”.
Khúc Văn Thái cười khổ: “Đệ tử… sức khỏe của đệ tử không được như trước kia nữa rồi, cho dù sống tạm bợ qua ngày, thì có thể sống thêm được mấy năm nữa chứ? Đức Dũng đi rồi, đệ tử càng không còn hy vọng nữa rồi.” Hai mắt của ông ta đỏ ngầu, Khúc Văn Thái bỗng nắm lấy tay của Huyền Trang, “Đại sư, đệ tử không cam tâm… không cam tâm! Ngài là cao tăng Đại Đường, nghe nói Trung Nguyên có thuật ‘Khởi tử hoàn hồn’, cầu xin đại sư có thể giúp đệ tử được không?”.
Huyền Trang nhất thời sững sờ. “Khởi tử hoàn hồn?” Ở đâu có thứ này chứ? Truyền thuyết ghi chép của bàng môn tà đạo ắt hẳn là chuyện hoang đường, cho dù trong Phật kinh có ghi chép lại, có thể khiến người trở về từ địa ngục, Huyền Trang cũng không cho là đúng. Trong mắt ngài, thứ mà Phật gia giảng là một loại đại đạo vô thượng, mà lục đạo luân hồi là thuật trong đạo này, sau khi người chết đi đều nhập vào luân hồi, cũng có nghĩa là kiếp nạn ở đời này đã tận rồi, kiếp sau sẽ tu lại, mãi cho đến sau khi giải thoát, vãng sinh nơi niết bàn.”.
Huyền Trang cười khổ không thôi: “Bệ hạ, ngài si vọng rồi. Mệnh số của đời người vốn được quyết định từ lâu, mỗi một đời đều có kiếp nạn của đời đó, đời này của nhị hoàng tử đã hết, thì làm sao có thể hoàn hồn được? Bệ hạ, ngài tin vào Phật gia chính đạo, không thể lầm đường lạc lối được!”.
Khúc Văn Thái vô cùng thất vọng, lẩm bẩm: “Đạo lý ấy đệ tử sao lại không biết chứ? Đệ tử chỉ là không hiểu, đời này ta có xây dựng nhiều chùa chiền rộng khắp, lễ kính tam bảo, nhưng tại sao lại phải chịu giày vò như vậy?”.
Huyền Trang buồn bã không nói, Chu Quý đột nhiên nói: “Bệ hạ, người muốn khiến nhị hoàng tử hoàn hồn, cũng chưa chắc là không có cách!”.
Huyền Trang và Khúc Văn Thái đều ngẩn người, Khúc Văn Thái bán tín bán nghi: “Chu Quý, ngươi có cách sao?”.
Chu Quý nói: “Bệ hạ, lão nô đương nhiên không có cách, nhưng có một thứ có thể!”
Huyền Trang đột nhiên kinh hãi: “Ông đang nói đến…”.
“Chiếc bình của vua Đại Vệ?” Khúc Văn Thái cũng ngạc nhiên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, ngay cả Huyền Trang cũng cảm thấy lạnh gáy.
Chu Quý lại bình tĩnh nói: “Không sai, Chiếc bình của vua Đại VệỊ Bệ hạ, thứ ẩn giấu trong chiếc bình ấy không nói đến là ma hay là yêu, uy lực của nó ngài cũng từng tận mắt chứng kiến rồi. Nếu nó quả thật có uy lực giống như lời đồn, thì việc khiến nhị hoàng tử hoàn hồn có gì khó khăn chứ?”.
“Đúng vậy!” Khúc Văn Thái nhất thời kích động, nhìn Huyền Trang, “Đại sư, đây đích thực là một cách!”.
Huyền Trang thật không biết làm thế nào mới tốt, cười khổ nói: “Bệ hạ, ma vật bậc này…”.
Khúc Văn Thái phấn khởi khoát tay: “Đệ tử không quan tâm nó có phải ma vật hay không, chỉ cần có thể khiến Đức Dũng sống lại, bất luận phải trả giá nào đệ tử cũng bằng lòng!”.
Huyền Trang mơ hồ cảm thấy chuyện này có chút không bình thường, nhưng nhất thời lại do dự bất định, ngài nhìn Chu Quý chằm chằm, thản nhiên nói: “Tổng quản đại nhân, ý kiến này ắt hẳn phải suy nghĩ từ rất lâu rồi nhỉ?”.
Chu Quý khiêm tốn nói: “Không dám giấu đại sư, lão nô cũng là mới vừa nghĩ tới!”.
Huyền Trang lại nói: “Tổng quản đại nhân, hiện nay Chiếc bình của vua Đại Vệ nằm trong tay tam hoàng tử, mặc dù còn có một tâm nguyện chưa dùng, nhưng ngài dùng cách gì mới có thể lấy được chiếc bình ma quái trong tay của ngài ấy đây?”.
Chu Quý vẫn khiêm tốn: “Việc này lão nô đâu dám nói nhiều, còn phải xem bệ hạ dùng cách gì”.
Khúc Văn Thái không cho là đúng: “Đại sư, bất luận dùng cách gì, nhất định phải bắt lão tam giao Chiếc bình của vua Đại Vệ ra, cứu sống Đức Dũng!”.
Huyền Trang nói: “Bệ hạ, Chiếc bình của vua Đại Vệ e rằng không thể dùng cách cưỡng ép để giành lấy được đâu?”.
Khúc Văn Thái ngẩn người: “Vậy cũng phải. Khoan bàn xem tên nghiệt tử kia còn có thể gây ra tội nghiệt gì, nếu nó muốn cá chết lưới rách, lại ước thêm một tâm nguyện nữa, như thế ma quỷ trong đó sẽ được phóng thích ra ngoài, lúc ấy thì chẳng còn tác dụng gì nữa. Đại sư, ngài có biện pháp nào không?”.
Huyền Trang vẫn không muốn buông tha Chu Quý, thản nhiên nói: “Vậy thì phải xem tổng quản đại nhân có thủ đoạn gì rồi”.
Khúc Văn Thái lúc này đang phấn khởi, đầu óc cũng trở nên rối loạn: “Đúng đúng đúng, Chu Quý à, Trí Thịnh là đứa trẻ ngươi trông coi từ nhỏ đến lớn, ngươi có cách gì khổng?”.
Chu Quý bất đắc dĩ: “Bệ hạ, trong lúc vội vàng lão nô cũng không có chủ ý nào hay. Có điều, nếu tam hoàng tử từng tuyên bố, Chiếc bình của vua Đại Vệ này dùng để bảo vệ Sương Nguyệt Chi, vậy ngài có thể nghĩ cách dựa trên việc này. Nếu có thể khiến tam hoàng tử và Sương Nguyệt Chi ký kết lương duyên,