← Quay lại trang sách

Chương 20 Câu thần chú Ba Tư cổ

Thành Toái Diệp tuy được gọi là một tòa thành, nhưng trên thực tế những kiến trúc phòng xây bằng gạch mộc vách đất lại rất ít, người Đột Quyết thích sống trong lều trại, hành cung của Thống Diệp Hộ cũng đều là những lều bạt dựng liền nhau. Chỉ có một số thương nhân qua lại trên Con đường Tơ lụa kia, vì muốn gửi hàng hóa nên mới dựng thêm vài căn nhà gạch mộc. Nơi ở mà Thống Diệp Hộ thu xếp cho Huyền Trang dĩ nhiên cũng là lều bạt.

Phần cửa ra vào ở lều trướng của người Đột Quyết giống nhau, đều mở ra hướng đông, lấy hướng tôn kính mặt trời để làm nơi ra vào. Trong lều trướng không đặt giường, bởi vì người Đột Quyết thờ phụng Bái Hỏa giáo, bọn họ cho rằng trong gỗ có chứa nguyên tố hỏa, bởi vậy nên dùng để thờ phụng chứ không dùng trong sinh hoạt thường ngày, thay vào đó họ trải một chiếc chiếu cỏ thật dày trên mặt đất, rồi nằm dưới đất, nhà giàu sang thì trải da lông động vật và thảm trải nền thật dày. Đạt Ma Chi biết Huyền Trang là khách quý của Thống Diệp Hộ, hắn có hiểu biết chút ít về cách sinh sống của người Hán, nên cố ý chuẩn bị một chiếc giường bằng sắt trong lều trướng cho Huyền Trang, điều này khiến Huyền Trang thấy rất cảm động.

Trong những ngày đợi Thống Diệp Hộ đi săn trở về, Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh luôn dành thời gian phân tích bí mật của Chiếc bình của vua Đại Vệ. Lúc này đến cả Khúc Trí Thịnh đã hoàn toàn tin rằng những chuyện thần kỳ do Chiếc bình của vua Đại Vệ làm ra khi còn ở Cao Xương, đều do một tay Chu Quý đạo diễn. Vậy giờ Chu Quý chết rồi, không biết lại đến lượt ai giành quyền thao túng Chiếc bình của vua Đại Vệ, mượn tay nó để làm mưa làm gió trên đất Đột Quyết đây?

“Sư phụ, ngài còn nhớ không?”, Khúc Trí Thịnh nhớ lại, “Hôm đó ở ngoài thành Cao Xương, chúng ta bị Nê Thục bao vây, Chiếc bình của vua Đại Vệ đột nhiên hiển hiện ma lực, khiến cho bảy tám tên kỵ sĩ của liên quân ba vương quốc chết bất đắc kỳ tử. Công công có nói qua, chuyện lần đó không phải do ông ấy tính toán bày ra”.

Trái qua mấy tháng ròng rã cọ xát, rèn luyện bản thân, Khúc Trí Thịnh dường như trở nên trầm ổn hơn rất nhiều, Huyền Trang có phần vui mừng, gật đầu tán thành: “Không sai, chuyện lần đó xảy ra quá đột ngột, Nê Thục dẫn người bất ngờ tập kích vương thành, căn bản không nằm trong dự liệu của Chu Quý, ông ta cũng không kịp tính kế”.

Khúc Trí Thịnh nghĩ tới Chu Quý, không nhịn được mà tỏ ra buồn bã: “Đến giờ đệ tử mới hiểu được nỗi khổ tâm của công công. Lần đó ông ấy tiễn con xuất thành, là bởi vì bản thân đã tính đến lúc ‘cá chết lưới rách’ với phụ vương, nhân lúc Sương Nguyệt Chi vẫn còn đang diễn kịch trước mặt mọi người, cố ý ép buộc nàng ấy cùng con đến Đại Đường”.

“Trí Thịnh, Chu Quý giết chết hai vị ca ca của con, lại hại phụ vương con thành như vậy, con không hận ông ấy sao?”, Huyền Trang hỏi.

Khúc Trí Thịnh khổ sở lắc đầu: “Sư phụ, đệ tử hiện giờ cũng là người của Phật môn, có lúc nghĩ tới nhân quả nhà Phật, quả thật là báo ứng xác đáng, phụ vương âu cũng coi như gieo gió gặt bão thôi! Công công đối xử với hai mẫu tử của đệ tử hết sức chân thành, đệ tử… làm sao có thể hận ông ấy được?”.

Huyền Trang vỗ bả vai Khúc Trí Thịnh, an ủi hắn. Khúc Trí Thịnh lau nước mắt, tiếp tục đề tài vừa nãy: “Sư phụ, nếu ngoài thành Cao Xương không phải là có ai sắp đặt, thì Chiếc bình của vua Đại Vệ làm sao có thể phô diễn ma lực được? Lẽ nào nó thật sự còn có bí mật gì chưa được phá giải sao?”.

“Con thấy thế nào?” Huyền Trang hỏi.

Khúc Trí Thịnh mừng rỡ: “Theo đệ tử phân tích, trong Chiếc bình của vua Đại Vệ kia chắc chắn có ma lực, bằng không, Tát San Ba Tư sao có thể coi nó là bảo vật trấn quốc, truyền thừa suốt bốn trăm năm được đây? Bên trong đó, nói không chừng thật sự có ma quỷ, hồi đó đệ tử triệu hồi ma quỷ, ắt hẳn là dùng không đúng cách”.

“Trí Thịnh”, Huyền Trang suy nghĩ một chút, mới chậm rãi nói: “Con có biết bần tăng phân tích chuyện yêu quái như thế nào không?”.

Khúc Trí Thịnh lắc đầu.

“Tất cả những chuyện kỳ dị, thần tiên, ma quỷ trên đời, không nằm ngoài ba loại, một loại là sức mạnh tự nhiên do thiên nhiên khéo vô tình tạo tác mà thành, một loại là sức mạnh của quỷ thần là thứ mà trí óc con người không có cách nào lý giải, loại cuối là thứ sức mạnh mà con người dựa vào mưu trí của mình để kiến tạo nên. Loại thứ nhất thì không nói đến, Chiếc bình của vua Đại Vệ hiển nhiên không thuộc loại này. Vậy xét ra thì, nếu Chiếc bình của vua Đại Vệ thuộc loại thứ hai, thì con người vốn không có đủ thực lực để điều khiển được nó, vạn vật trong Tam thiên đại thiên thế giới này chẳng có gì qua nổi con mắt của ngã Phật từ bi, quỷ thần xuất hiện hẳn phải có định số ngầm của riêng nó, bần tăng can thiệp vào thì sao? Mà giả như bần tăng không can thiệp vào thì sao? Sở dĩ, bần tăng không bàn đến quỷ, không nhắc đến Phật, bởi lẽ chỉ cần lòng ta vững tâm thiền định, thế giới con người có thể nào vì bị quỷ thần quấy phá mà sụp đổ được hay sao?” Gương mặt Huyền Trang lộ rõ vẻ bi ai, thương xót, “có rất nhiều người quái gở, bần tăng sùng kính Thần-Phật-Bồ Tát, làm sao có thể chuyện gì cũng chỉ nghĩ theo hướng do con người tạo nên chứ. Bọn họ lại không biết, bốn bộ châu lớn nơi cõi thiêng liêng, cõi giới Sa Bà, thật sự có năng lực khiến thế giới này sụp đổ, cái khổ vô cùng vô tận của chúng sinh là do tự thân sinh ra, chúng khởi sinh từ chính những lòng tham, độc giận và si niệm của chúng sinh. Bần tăng Tây du Thiên Trúc, một lòng cầu thỉnh được Tam Tạng Chân Kinh của Phật pháp Đại Thừa, âu cũng là vì muốn siêu độ nhân tâm này, chứ không phải vì cầu thần, cầu Phật!”.

Khúc Trí Thịnh bấy giờ mới vỡ lẽ, quỳ mọp xuống đất: “Lòng thương xót của sư phụ, đệ tử hiểu rồi. Đệ tử trước đây si niệm quá nặng, mới dẫn đến mầm tai họa vô cùng vô tận này, đệ tử nhất định luôn tuân theo sự dạy bảo của sư phụ, lấy đời này, kiếp sau để chuộc lại tội lỗi”.

Huyền Trang mỉm cười, xoa đầu hắn, than nhẹ: “Trí Thịnh, Chiếc bình của vua Đại Vệ này có thể bị Chu Quý lợi dụng, thì cũng có thể bị một người khác lợi dụng. Vi sư có quen biết một người, mưu lược của hắn không kém Pháp Nhã, không kém Chu Quý, tầm nhìn của hắn càng không phải là chuyện mà hai người này có thể sánh kịp. Lần này Chiếc bình của vua Đại Vệ tại sao lại vừa khéo rơi vào tay Mạc Hạ Đốt? Tại sao lại lệch khỏi lộ tuyến mà nó vốn nên đi để tới được Tây Đột Quyết này? Các quốc gia hùng mạnh tranh đấu ngầm, cơ sự trong đó không phải là thứ bần tăng có thể nhìn thấu được”.

“Sư phụ, người thông minh tuyệt đỉnh mà ngài đang nói đến là ai vậy?” Khúc Trí Thịnh kinh ngạc, “trên đời này còn có người như vậy sao?”.

Huyền Trang cười khổ một tiếng, trên mặt lộ ra sự lo lắng sâu sắc, nhưng lại không trả lời.

°°°

Thống Diệp Hộ nói lời giữ lời, đến ngày thứ ba, quả nhiên đoàn đi săn kéo nhau trở về. Trước khi hắn trở về, các tiểu khả hãn, thiết, đặc cân[115] của các bộ lạc lân cận đều đổ dồn về thành Toái Diệp để tiễn chân Tống Diệp Hộ chuyển đến Hạ cung. Những người này đều mang theo hơn trăm tùy tùng và bò, dê làm lễ vật, thành Toái Diệp nhỏ hẹp nhất thời trở nên náo nhiệt.

Tối hôm đó, Thống Diệp Hộ mở tiệc ở hành cung chiêu đãi Huyền Trang và khách quý đến từ khắp nơi. Hành cung của hắn có mấy trăm doanh trướng, liếc qua một cái, liền thấy giống như những đám mây trên trời. Lều chính thêm phần to lớn, hùng vĩ không gì bằng, đủ để chứa mấy trăm người, bên ngoài trang trí tơ lụa và gấm vóc lộng lẫy, trên vách tường bên trong thì được che phủ bởi các loại vàng bạc và đồ trang sức, rực rỡ huy hoàng. Đứng trong lều trướng, đỉnh lều cao rộng khiến người ta dễ liên tưởng đến bầu trời.

Khi Huyền Trang, Khúc Trí Thịnh và Hoan Tín tới, Thống Diệp Hộ đích thân bước ba mươi bước ra ngoài trướng nghênh đón, để biểu thị sự tôn trọng đối với Huyền Trang. Đến nghênh đón cùng với hắn, không ngờ còn có cả Nê Thục và Mạc Hạ Đốt. Mạc Hạ Đốt có phần lạnh nhạt, nhưng Nê Thục thì rất vui mừng, hắn cùng Huyền Trang kể cho nhau nghe những chuyện đã trải qua mấy tháng nay. Trải qua cuộc tranh giành tình cảm của Long Sương Nguyệt Chi, Khúc Trí Thịnh và Nê Thục sau đó cũng trở thành huynh đệ, hai người ôm lấy nhau cười lớn.

Trong đại trướng có trải một chiếc chiếu dài, khách quý phải có tới mấy trăm người. Lễ nghi của người Đột Quyết đơn giản, không quá chú trọng như ở Trung Nguyên, vừa nói ăn cơm, thì dê nướng nguyên con, thịt bê vừa được chế biến lập tức bưng lên, mọi người mời rượu hò hét vui vẻ, chén rượu chạm vào nhau vang lên những tiếng đinh đinh đang đang. Lại thêm màn ca múa Đột Quyết ở chính giữa đại trướng, vô cùng huyên náo.

Huyền Trang cùng Thống Diệp Hộ ngồi ở vị trí quan khách, ngài không ăn thịt, trước mặt ngài đặt bánh Hồ, cơm, bánh sữa, đường thốt nốt, nho và các loại trái cây, ăn kèm với sữa bò và nước ép nho.

Thống Diệp Hộ theo Bái Hỏa giáo, nhưng Đột Quyết không chỉ có một tín ngưỡng, hắn cũng có hứng thú đối với Phật giáo, vì vậy Huyền Trang liền giảng về mười hai loại nhân duyên, mười loại thiện hạnh và nghiệp giải thoát Ba La Mật Đa. Thống Diệp Hộ nghe đến mức mê mẩn, vì vậy bắt đầu động tâm: “Đại sư à, ta cảm thấy ngài không cần đi Thiên Trúc nữa đâu, nơi đó khí hậu nóng ẩm, ánh mặt trời gay gắt, phơi thân người đến đen thui, cũng không có gì uy nghi cả. Đại sư dáng vẻ ngài yếu ớt, đến nơi đó chỉ sợ là bị phơi đen, chi bằng cứ ở lại Đột Quyết ta đi!”.

Đám người Nê Thục cùng cười lớn.

Huyền Trang cười khổ không thôi: “Bần tăng vì cầu đại đạo, đao thương cung tiễn còn chẳng tránh, làm sao có thể để ý đến việc da dẻ bị phơi đen chứ?”.

Đang nói thì có đạt quan tới báo: “Sứ giả Đại Đường và sứ giả Cao Xương tới!”.

Huyền Trang sửng sốt, Thống Diệp Hộ lại rất vui mừng: “Sứ giả Đại Đường tới rồi sao? Làm sao lại đến thêm một sứ giả Cao Xương vậy? Mau mời vào!”.

Chẳng bao lâu, có hai người bước vào cửa đại trướng, người đi đầu chính là Vương Huyền Sách!

Thực ra, Vương Huyền Sách đã đến Tây Đột Quyết sớm hơn Huyền Trang hai tháng, hắn là tặc soái của ‘Người Bất Lương’, gánh vác nhiệm vụ thu thập tình báo, làm xong ‘chuyện ngoài sáng’, liền dạo chơi khắp chốn ở Đột Quyết, thu thập tin tức, hôm nay vừa mới trở về.

Một người khác là sứ giả Cao Xương, Khúc Trí Thịnh và Hoan Tín đều biết, là đô quan lang trung Cao Xương - Hứa Tông, lần này hắn đặc biệt đến thăm Huyền Trang. Nhưng Huyền Trang lại cảm thấy kỳ quái, bởi vì đô quan ở Cao Xương chuyên phụ trách việc truy nã hình sự, tương tự với hình bộ của Đại Đường. Khúc Văn Thái sao lại phái một quan viên hình bộ đi sứ Đột Quyết được chứ?

Lúc này đang ở trong tiệc rượu, Huyền Trang cũng không tiện hỏi kỹ.

Thống Diệp Hộ đặc biệt sắp xếp hai người ngồi ở bên cạnh Huyền Trang. Huyền Trang nhìn Vương Huyền Sách, mấy tháng không gặp, vị tặc soái này, làn da bị phơi đến rám đen rồi, nhưng trông hắn vậy lại càng tráng kiện hơn, tinh lực dồi dào: “Đại soái, lần này đến vương đình Đột Quyết, có thu hoạch gì lớn không?”.

Kiểu xưng hô này khiến Vương Huyền Sách hơi sửng sốt, lập tức nở nụ cười: “Đương nhiên có thu hoạch rồi. Đại Đường vừa tiêu diệt được Đông Đột Quyết, hạ quan lần này đến các bộ lạc làm khách, không khỏi được đối đãi như thượng khách. Bò dê và rượu được tặng cả mấy xe lớn, đáng tiếc, sao lại không có ai tặng mấy nữ nhân người Hồ nhỉ?”.

“A Di Đà Phật!” Huyền Trang thấp giọng tụng niệm, “Mạc Hạ Đốt cũng quá keo kiệt rồi. Đại nhân tặng hắn đại lễ như vậy, hắn lại không thể thỏa mãn sở thích của đại nhân. Thôi vậy, đợi đại nhân về đến Trường An, nhất định có thể được thăng quan tấn tước, trên đường phố Trường An, còn sợ thiếu các vũ cơ người Hồ rót rượu cho đại nhân sao?”.

Vương Huyền Sách gượng cười; “Đại sư, Mạc Hạ Đốt không hề có liên quan gì với ta hết!”.

“Vậy sao?” Huyền Trang nói, “bần tăng muốn hỏi một câu, trong chiếc bình kia có thể đựng được cả Đột Quyết?”.

Sắc mặc của Vương Huyền Sách trở nên nghiêm túc, hắn cầm bình đựng rượu trước mặt lên, lắc đầu: “Không thể! Hạ quan cho rằng, Đại Đường mời thứ được đựng trong bình này, người bằng lòng uống đương nhiên là uống say, nhưng người không bằng lòng uống, Đại Đường ta tuyệt đối không cưỡng ép”.

Huyền Trang gật đầu: “Mạc Hạ Đốt hẳn nhiên là người bằng lòng uống say rồi!”.

“Ta không ép hắn”, Vương Huyền Sách thản nhiên nói: “Hắn cướp lấy tự uống đó chứ”.

Hai người chuyện trò đầy ẩn ý, đang trò chuyện thì Thống Diệp Hộ lúc này vừa bị mọi người ép uống mấy chén đến say khướt, quay đầu hỏi: “Hai vị đang bàn luận chuyện gì vậy? Ta hình như nghe thấy tửu lượng của Đại Đường và Đột Quyết!”.

“Ha ha!” Vương Huyền Sách cười nói, “Khả hãn, hạ quan chính là đang so sánh với đại sư, tửu lượng của người Đại Đường và người Đột Quyết, ai tốt hơn”.

“Vậy đương nhiên là người Đột Quyết ta tửu lượng tốt hơn rồi!” Thống Diệp Hộ trừng mắt hét lớn, “mọi người nói có phải không?”.

Trong đại trướng đều là hào kiệt Đột Quyết, cùng đùa bỡn ồn ào.

Thống Diệp Hộ cũng say rồi, kêu to: “Xem ra sứ giả Đại Đường không tin rồi, nam nhi Đột Quyết chúng ta, có can đảm cho hắn mở rộng tâm mắt một chút không?”.

Lúc này liền có hai ba mươi quý tộc Đột Quyết đến cụng rượu với Vương Huyền Sách, Vương Huyền Sách nhất thời ngẩn ra. Tiệc rượu này còn chưa tới nửa chừng, hắn đã lâm vào cảnh miệng sùi bọt mép, bất tỉnh nhân sự.

°°°

Tiệc rượu đến lúc hoàng hôn mới kết thúc, đám người Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh trở về lều trướng của mình, Hứa Tông lập tức tìm tới thăm hỏi. Lúc này Hoan Tín cũng ở đó, Hứa Tông lén lén lút lút đánh mắt ra hiệu với Hoan Tín, Hoan Tín hiểu ý, vội vàng lui ra ngoài.

Huyền Trang có chút kinh ngạc: “Hứa đại nhân, ngài đây là vì sao chứ?”.

“Đại sư, tam hoàng tử!” Hứa Tông thấp giọng nói: “Hạ quan lần này tới đây, một là vì bệ hạ nhớ thương đại sư và tam hoàng tử, mới phái tại hạ đến thăm hai người, hai là bệ hạ sai hạ quan mang đến cho đại sư một thứ. Trước khi đi người dặn dò rất nhiều lần, thứ này chỉ có thể để đại sư và tam hoàng tử nhìn thấy”.

Khúc Trí Thịnh cảm thấy tò mò: “Thứ gì vậy?”.

Hứa Tông hít sâu một hơi, cẩn thận từng li từng tí lấy ra một hộp sắt từ trong ngực. Khúc Trí Thịnh cầm lấy, Hứa Tông vội vàng căn dặn: “Tam hoàng tử, thứ này tuyệt đối không được lật qua lật lại, chỉ có thể đặt ngang”.

Khúc Trí Thịnh ngạc nhiên: “Thứ gì vậy? Vàng bạc châu báu sao?”.

Hứa Tông cười khổ, Khúc Trí Thịnh lần mò một lúc, mở hộp ra. Hộp sắt vừa được mở ra, một mùi vôi sặc sụa đập thẳng vào mặt, Khúc Trí Thịnh hắt hơi một cái, sau đó hắn tập trung nhìn, không nhịn được mà kêu thét lên vì sợ hãi, suýt chút nữa thì lỡ tay vứt xuống đất. Ngay đến Huyền Trang thiền tâm vững vàng như núi, cũng không khỏi thay đổi sắc mặt, lông mao toàn thân dựng đứng lên.

Trong chiếc hộp sắt kia không ngờ lại chứa bốn con mắt! Là mắt người thật!

Chiếc hộp sắt đựng vôi, trên vôi trải giấy bồi thật dày, bốn con mắt bị móc ra đặt trên giấy bồi. Mặc dù có phần hơi khô, nhưng con ngươi, tơ máu và mạch máu vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng, nhìn từ mặt cắt hoàn chỉnh của huyết quản, không ngờ là bị người ta dùng dao sắc móc ra từ trong hốc mắt!

“Đây… đây là mắt của ai vậy?” Huyền Trang vô cùng hoảng sợ, “Bệ hạ tại sao lại tặng bần tăng thứ này?”.

Hứa Tông thấy trên mặt Huyền Trang có chút tức giận, vội vàng giải thích: “Đại sư xin bớt giận, con mắt này không phải là móc từ trên cơ thể người sống, mà là móc trên cơ thể người chết. Bệ hạ có dặn dò, vật này nhất định phải để đại sư tận mắt nhìn thấy, nói người nhìn cái là hiểu”.

“Bần tăng không hiểu, bệ hạ tại sao lại móc bốn con mắt từ trên cơ thể của người chết?”, Huyền Trang biết Khúc Văn Thái đối với con dân không hề tàn bạo, ngược lại còn là một vị quốc vương nhân từ hiếm có của Tây Vực, nhưng đối với hành động này của ông ta, ngài cũng cảm thấy khó có thể chấp nhận được.

“Đại sư, bốn con mắt này thuộc về bốn người khác nhau.” Hứa Tông chỉ vào chiếc hộp sắt, thấp giọng nói, “hai cái bên này, là của những người lưu vong Tùy Tân chết trong giếng mương, hai cái bên này là của kỵ sĩ Yên Kỳ bị Chiếc bình của vua Đại Vệ giết chết ở ngoài thành Cao Xương hôm đó!”.

Trong lòng Huyền Trang nhất thời dấy lên dự cảm khác thường.

“Hứa đại nhân, tại sao phụ vương lại móc mắt của bọn họ ra vậy?” Khúc Trí Thịnh lúc này mới bình thản đặt câu hỏi. Hai sự kiện được nhắc tới hắn đều đã tự thân trải nghiệm, dĩ nhiên cảm thấy vô cùng quen thuộc, nhưng đối với hành động của Khúc Văn Thái, hắn lại thấy vô cùng khó hiểu.

Hứa Tông không nói gì, cẩn thận từng li từng tí lấy tờ giấy bồi từ trong chiếc hộp ra, đặt bốn con mắt lên trên bàn, sau đó lấy ra từ trong ống tay áo một khối gì đó màu đen nhánh.

“Đây là cái gì?” Khúc Trí Thịnh hỏi.

“Nam châm” Hứa Tông đặt nam châm lên mặt trên của một con mắt, rồi nói: “Đại sư, tam hoàng tử, mời xem!”.

Hắn cầm nam châm hơ qua phía trên con mắt đó, sau một lúc, điều họ không ngờ được là từ trong con ngươi của con mắt kia lại có một điểm nhỏ màu đen đang từ từ nhúc nhích, khiến hai người nhìn mà lạnh sống lưng. Hứa Tông từ từ nhấc cao khối nam châm lên, chỉ thấy trong con mắt đó có một cây kim dài mảnh từ từ trồi lên! Cây kim này mảnh như sợi tóc, dài chừng hai tấc, màu trắng bạc, nhưng nếu nam châm có thể hút nó ra, vậy thì chắc hẳn nó phải được làm từ sắt rồi.

Hứa Tông cầm chiếc châm bạc trên tay, bưng đến trước mặt Huyền Trang: “Mời đại sư xem!”.

Huyền Trang sớm nhìn đến ngây người rồi, trái tim đập loạn thình thịch: “Hứa đại nhân, chuyện này là như thế nào vậy?”.

“Chắc hẳn đại sư cũng biết, khi ngài rời khỏi Cao Xương, bệ hạ đang thu gom thi thể những binh sĩ tử trận của liên quân ba nước, định gửi trả lại Yên Kỳ, làm dịu quan hệ đôi bên một chút.” sắc mặt Hứa Tông đột nhiên trở nên khó coi, giọng nói cũng mang theo ý sợ hãi, “hạ quan là đô quan lang trung, bệ hạ liền giao việc này cho hạ quan. Ở ngoài thành Cao Xương, tổng cộng thu gom được một ngàn ba trăm hai mươi sáu cỗ thi thể. Bởi vì là chết trận, tình trạng thê thảm thật không nỡ nhìn, nếu không phải tay chân đứt lìa, thì cũng là đầu lìa khỏi xác. Bệ hạ nhân từ, lương thiện, nói rằng sợ thân sinh và thê tử của những tử sĩ ấy nhìn thấy bộ dạng thê thảm của họ sau khi chết, trong lòng càng thêm đau buồn, liền lệnh cho hạ quan chỉnh đốn lại cho tốt, sau đó mới đưa vào quan tài!”.

Huyền Trang xúc động bùi ngùi, hành động này của Khúc Văn Thái tuyệt đối không phải là giả nhân giả nghĩa, bất luận là đối với quan viên Cao Xương hay là bách tính bình thường, ông ta đều chăm sóc, quan tâm, yêu thương, thậm chí đối với những người ở vương quốc khác đến xâm lược Cao Xương cũng có thể suy nghĩ chu đáo đến vậy, bản tính của người này lương thiện đến mức nào chứ? Nhưng tại sao lại bạo ngược thê tử của mình đến nông nỗi này? Lòng người phức tạp, thật là khó có thể suy xét.

“Khi hạ quan chỉnh đốn thi thể, phát hiện ra chín cỗ thi thể không có vết thương.” Hứa Tông cười khổ: “Tam hoàng tử cũng biết, hạ quan phụ trách hình luật, xưa nay mánh khóe khám nghiệm thi thể đều làm qua rất nhiều rồi, lúc đó hạ quan liền cảm thấy hơi kỳ lạ, muốn làm rõ nguyên nhân cái chết của họ, liền lập tức tiến hành khám nghiệm chín cỗ thi thể đó”.

Khúc Trí Thịnh nói chen vào: “Chín người này, một người trong số đó là do nuốt cỏ nhiệt na, rồi hít phải bột phấn, trúng độc mà chết. Tám cỗ thi thể còn lại là bị ma quỷ trong Chiếc bình của vua Đại Vệ giết chết”.

“Đến giờ thì hạ quan cũng nắm rõ được tình hình, nhưng lúc ấy hạ quan không hề hay biết gì!” Hứa Tông than vắn thở dài, “kết quả vừa khám nghiệm…”.

“Đại nhân liền phát hiện ra toàn thân bọn họ không có thương tích, nhưng trên con ngươi lại xuất hiện một điểm xuất huyết bé bằng hột gạo”, Huyền Trang nói ra kết quả khám nghiệm của hắn.

Hứa Tông lấy làm kinh hãi: “Đại sư thật đúng là thần nhân! Chính xác là vậy!”.

Huyền Trang cười khổ: “Hôm đó khi bọn họ mới vừa chết, bần tăng cũng có kiểm tra sơ bộ trên chiến trường, phát hiện ra con ngươi của những người này có tụ máu. Nhưng lúc đó không hề suy nghĩ sâu thêm. Đại nhân chắc hẳn ngài đã mổ con mắt của họ ra, rồi phát hiện chiếc châm bạc bên trong phải không?”.

“Không sai!” Hứa Tông nhìn chiếc châm bạc này, có chút trầm trọng: “Mời đại sư xem, chiếc châm bạc này được làm từ thép Ô Tư thượng hạng, bên trong thật không biết có pha lẫn với thứ gì khác không, mảnh như sợi tóc. Sau khi bị bắn vào mắt, kim tiến thẳng vào trong não, khiến người ta chết ngay tại chỗ. Đây chính là chân tướng chuyện Chiếc bình của vua Đại Vệ giết người!”.

Huyền Trang trầm mặc một hồi lâu, hỏi: “Những lưu nhân Tùy chết trong giếng ngầm cũng là chết như vậy sao?”.

Hứa Tông gật đầu, cầm nam châm hơ trên một con mắt khác, quả nhiên, lại một cây châm bạc nhô lên khỏi con mắt đó.

“Sau khi hạ quan bẩm báo chuyện này với bệ hạ, người liền phái hạ quan đi đào thi thể của đám người lưu vong kia lên để khám nghiệm, quả nhiên cũng thu về kết quả tương tự.” Hứa Tông nói: “Sau khi biết được bí mật về Chiếc bình của vua Đại Vệ, bệ hạ vô cùng lo lắng cho đại sư, vì vậy mới lệnh cho hạ quan mang theo mấy con mắt này, ngày đêm lên đường tới Đột Quyết gặp ngài, nói cho ngài nghe bí mật này. Bệ hạ nói, Chiếc bình của vua Đại Vệ quá nguy hiểm, đại sư nhất định phải đặt an nguy của bản thân lên hàng đầu, tuyệt đối không thể tự dấn thân vào nguy hiểm”.

“Đa tạ Hứa đại nhân”, Huyền Trang lúc này mới hiểu tại sao Khúc Văn Thái lại phái một quan viên hình sự đi sứ Tây Đột Quyết, vội vàng chắp tay cảm tạ, “sau khi về đến Cao Xương, xin ngài thay bần tăng tạ ơn bệ hạ. Nhờ ngài chuyển lời giúp rằng, trong lòng bần tăng cũng đã có tính toán, xin ngài ấy yên tâm”.

Hứa Tông gật đầu: “Đại sư nếu đã biết về sự hung hiểm trong chuyện này, vậy trách nhiệm của hạ quan cũng coi như hoàn thành rồi. Ngày mai hạ quan sẽ cáo từ Khả hãn Thống Diệp Hộ, nhanh chóng trở về Cao Xương phục mệnh”.

Sau khi Hứa Tông rời khỏi lều, Khúc Trí Thịnh không nhịn được nói: “Sư phụ, Chiếc bình của vua Đại Vệ kia quả nhiên giống như người nói, vẫn là âm mưu của con người! Nhưng… đây rốt cuộc là chuyện gì vậy? Lúc nó giết chết người Yên Kỳ thì không nói, nhưng hôm đó khi ở trong giếng mương, rõ ràng chỉ có ba người là đệ tử, ngài và A Thuật, vậy những lưu nhân kia là do ai giết hại?”.

“Hôm đó con cũng ở hiện trường, con có cách nhìn như thế nào?”, Huyền Trang hỏi.

Khúc Trí Thịnh hít sâu một hơi: “Sư phụ, vừa rồi ở trong tiệc rượu, người và Vương Huyền Sách nói chuyện, đệ tử cũng nghe thấy. Đệ tử cho rằng chuyện này chắc chắn là do Vương Huyền Sách làm!”.

“Ồ?” Huyền Trang mỉm cười khích lệ, “con phân tích xem nào!”.

“Mấy ngày trước, sư phụ từng nói với đệ tử, người có quen một người, mưu lược của hắn không dưới công công, tầm nhìn của hắn lại còn rộng hơn công công”, Khúc Trí Thịnh vốn không phải người tầm thường, chỉ là gặp phải Long Sương Nguyệt Chi nên mới có chút ngớ ngẩn, trải qua rèn luyện mấy tháng nay dường như phần nào khôi phục lại sự nhạy bén nên có của hoàng tử một nước, “đệ tử từng nghe nói, ở Đại Đường có một trí giả, tên là Ngụy Trưng, là trọng thần của Hoàng đế. Người mà người nói đến chắc hẳn là hắn phải không?”.

Huyền Trang rất vui mừng: “Trí Thịnh, con có thể đoán được ra hắn, trí tuệ của con cũng thuộc diện bất phàm đó!”.

Khúc Trí Thịnh gãi đầu, có chút ngượng ngùng: “Đều là do sự chỉ bảo của sư phụ. Mấy ngày nay đi cùng với người, đệ tử cũng hiểu thêm về một số chuyện của Đại Đường, đặc biệt là khi nghe người đối đáp với Vương Huyền Sách, dễ dàng nhận thấy, Đại Đường đối với Tây Vực, đối với Tây Đột Quyết, cũng rất có dã tâm. Vậy thì, nội loạn của Tây Vực và Tây Đột Quyết có lợi cho ai chứ? Dĩ nhiên chính là Đại Đường! Chiếc bình của vua Đại Vệ vốn là món quà mà Tát San Ba Tư dâng tặng cho hoàng đế Đại Đường, thứ này tràn đầy ma lực, chúng sinh trên đời, ai không có dục vọng chứ? Ai không muốn có được? Chỉ e là hoàng đế Đại Đường vì muốn khiến Tây Vực nội loạn, cố ý muốn dùng chiếc bình này khuấy động phong ba bão táp ở Tây Vực. Vì vậy, Ngụy Trưng mới phái Vương Huyền Sách giả lấy danh nghĩa đi sứ khiến cho Chiếc bình của vua Đại Vệ gieo rắc tai họa, làm loạn Tây Vực! Bằng không, đường đường là sứ giả Đại Đường, tại sao lại phải đi sứ bí mật chứ?”.

Huyền Trang không ngờ Khúc Trí Thịnh phân tích một hồi, suy luận lại không sai khác là mấy so với sự thật, không khỏi khen ngợi.

Khúc Trí Thịnh rất vui mừng, tiếp tục phân tích: “Vương Huyền Sách này, trước đây vẫn luôn nằm vùng ở vương thành Cao Xương, tại sao hắn lại muốn cứu đám lưu nhân kia? E rằng hắn sớm đã biết sự tồn tại của thế lực này, thậm chí còn mua chuộc được họ. Hôm đó, chúng ta bị đám lưu nhân truy bắt, đại sư là cao tăng Đại Đường, Vương Huyền Sách không dám để ngài xảy ra chuyện ngoài ý muốn, mới dùng thủ đoạn bí mật, âm thầm giết chết mấy lưu nhân kia, giúp chúng ta thoát nạn!”.

“Ừm!” Huyền Trang gật đầu liên tiếp, “vậy thì ở ngoài thành Cao Xương thì sao? Lúc ấy Vương Huyền Sách không hề có mặt ở đó!”.

“Chuyện này… đúng vậy, lúc đó ngoại trừ đệ tử và ngài, Sương Nguyệt Chi, A Thuật, công công, thì chỉ có liên quân ba nước kia thôi…” Khúc Trí Thịnh có chút im lặng, suy nghĩ một chút, đột nhiên lại nhanh trí, nói: “Sư phụ, người đừng quên, Nê Thục là huynh đệ kết nghĩa của hoàng đế Đại Đường!”.

Huyền Trang lại chưa từng nghĩ đến phương diện này, nhất thời sửng sốt: “Con muốn nói là Nê Thục và Vương Huyền Sách liên thủ sắp đặt sao? Làm sao có thể được? Hắn là thiết của Tây Đột Quyết, làm sao có thể làm ra chuyện gây tai họa cho Tây Vực, gây nguy hiểm cho Tây Đột Quyết được?”.

Khúc Trí Thịnh cười lạnh: “Sư phụ, người tham Phật, ít được chứng kiến những màn tranh đấu chính trị như thế này. Đệ tử mặc dù không có tiến bộ, nhưng từ nhỏ sinh ra và lớn lên trong thâm cung, từng chứng kiến rất nhiều rồi. Ngài nghĩ tới Khả hãn Đột Lợi của Đông Đột Quyết thì sẽ hiểu”.

Huyền Trang cũng yên lặng không nói. Đột Lợi là cháu trai của Hiệt Lợi, ban đầu đối địch với Lý Thế Dân, sau đó Lý Thế Dân áp dụng chính sách dụ dỗ, kết thành huynh đệ với Đột Lợi. Đột Lợi vì thế mà âm thầm đầu quân cho Đại Đường, cắt đứt với Hiệt Lợi, mới dẫn đến chuyện Hiệt Lợi bị bắt, Đông Đột Quyết bị diệt.

Hai người đang trò chuyện, Hoan Tín bước vào bẩm báo: “Đại sư, A Sử Na Nê Thục tới bái kiến!”.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, Khúc Trí Thịnh nhảy dựng lên: “Nê Thục này cũng biết điều thật, không ngờ lại đoán được mà mò tới đây rồi. Đệ tử đi gặp…!”.

Còn chưa kịp nói xong, Khúc Trí Thịnh đã xông ra ngoài nhanh như gió. Huyền Trang không kịp ngăn cản, đang định đứng lên thì lại thấy nặng lòng mà ngồi xuống, cũng không biết tại sao sự sợ hãi khó nói đối với Chiếc bình của vua Đại Vệ lại càng ngày càng nhiều hơn. Ngài nhìn chiếc hộp sắt trên rương gỗ, bốn con mắt đang lặng lẽ nhìn thẳng vào ngài, tựa như muốn nói lên một bí mật cực kỳ đáng sợ, Huyền Trang không khỏi rùng mình một cái. Ngài đột nhiên có một loại dự cảm chẳng lành, những phỏng đoán trước đây của mình, e chừng toàn bộ đều sai cả rồi.

Lúc này, ngoài cửa vang lên tiếng hét lớn của Khúc Trí Thịnh. Vị hoàng tử này cũng quá dễ kích động rồi, vừa ra khỏi cửa liền cãi nhau với Nê Thục: “Ăn nói hàm hồ? Hừ, không cần ngươi rút đao, nếu như ta đoán sai, không cần ngươi động đao, ta lập tức tự sát để tạ tội!”.

“Được, nói ra lý do của ngươi đi!” Giọng nói tức giận của Nê Thục truyền tới.

Ngay sau đó lại nghe thấy tiếng của Khúc Trí Thịnh: “Ngươi là chủ của mười bộ lạc, ở Tây Đột Quyết là tiểu khả hãn quyền uy một phương. Ngươi dám nói, ngươi không có dã tâm đối với vị trí đại khả hãn hay sao? Nếu Tây Đột Quyết xảy ra nội loạn, Thống Diệp Hộ chết đi, người có thực lực mạnh nhất Tây Đột Quyết chính là ngươi và Mạc Hạ Đốt. Đến lúc đó, việc ngươi trở thành đại khả hãn của Tây Đột Quyết, không còn là chuyện gì khó khăn nữa”.

“Nói láo!” Nê Thục giận dữ nói, “họ Khúc kia, đầu ngươi bị lừa đá rồi sao? Ta dẫn đầu liên quân ba nước là vì cứu Sương Nguyệt Chi, việc gì phải làm ra chuyện như vậy, khiến đại quân thảm bại, bản thân còn bị bắt làm tù binh? Ngươi động não nghĩ xem!”.

“Ha ha! Nê Thục, trong mắt ngươi, là Sương Nguyệt Chi quan trọng hay là khả hãn Đột Quyết quan trọng, cái đó còn khó nói lắm!” Khúc Trí Thịnh cười lạnh, nói: “Ngươi và Vương Huyền Sách vốn dĩ muốn đưa Chiếc bình của vua Đại Vệ đến Tây Đột Quyết, gây nên tai họa loạn lạc, mắt thấy chân tướng của nó giờ đây bị đại sư chọc thủng, không ai còn tin tưởng nữa, nên mới diễn một màn kịch hay, khiến Chiếc bình của vua Đại Vệ lại một lần nữa phát ra ma lực, dẫn dụ Mạc Hạ Đốt mắc câu! Còn về liên quân thảm bại ấy mà… hắc hắc, cho dù liên quân ba nước có chết hết, thì có liên quan quái gì đến ngươi đâu chứ?”.

“Ngươi…” Mặc dù đang trong trạng thái kích động, nhưng Khúc Trí Thịnh vẫn phân tích rõ ràng mạch lạc như thường, nói cho Nê Thục cứng họng líu lưỡi, không có cách nào phản bác lại, “ta lấy dòng họ A Sử Na cao quý ra để thề, Nê Thục ta trung thành với Đột Quyết, trung với Đại hãn!”.

“Hắc hắc!” Khúc Trí Thịnh vẫn không hề buông tha, “lẽ nào Đột Lợi bất trung với Đông Đột Quyết sao? Ngươi và Lý Thế Dân là quan hệ huynh đệ, đây cũng là sách lược Lý Thế Dân đã lựa chọn lúc trước. Nê Thục, ngươi chẳng qua cũng chỉ là một Đột Lợi thứ hai mà thôi!”.

“Ta phải quyết đấu với ngươi!”, Nê Thục lớn tiếng gào thét.

Huyền Trang mắt thấy hai người cãi nhau to tới không thể can được, vội vàng đi ra ngoài, nhất thời sợ đến nhảy dựng lên, chỉ thấy Nê Thục tức đến độ cả người như muốn bùng nổ, loan đao thậm chí đang kề bên cổ của Khúc Trí Thịnh.

Thấy Huyền Trang bước ra, Nê Thục tức giận hỏi: “Đại sư, ngài có biết tại sao Khúc Trí Thịnh lại chỉ trích ta không?”.

“Bần tăng biết!” Huyền Trang bình tĩnh nói.

Nê Thục sửng sốt, thu đao lại: “Đại sư, ngài cũng nghĩ như vậy sao?”.

“Bần tăng chưa từng nghĩ như vậy”, Huyền Trang thản nhiên trả lời, “có điều nhân quả tuần hoàn, chính là thiên đạo. Cho dù sự thật có là như vậy đi chăng nữa, bần tăng cũng tuyệt đối không khinh thường ngài”.

“Nhưng ta lại khinh thường chính bản thân mình!” Nê Thục bình tĩnh trở lại, “Đại sư, ta biết, giữa ta và Khả hãn Thống Diệp Hộ có ác cảm rất lớn với nhau. Bộ lạc mười họ của ta mấy năm nay nhân khẩu nhiều lên, vùng đất lại càng ngày càng rộng lớn, điều đó khiến Đại hãn nghi kỵ. Tính tình ta kiêu ngạo, cũng nhiều lần mạo phạm tới ông ấy, nhưng đó là chuyện nội bộ của Đột Quyết ta, và ta chưa từng nghĩ tới sẽ mượn sức mạnh của người ngoài để tư lợi cho mình. Hôm nay đứng trước mặt của đại sư, ta nguyện thề với tộc Sói, bất luận Thống Diệp Hộ đối xử với ta như thế nào, ta tuyệt đối không bao giờ phản bội ông ta! Xin đại sư làm chứng!”.

“Nê Thục, ngài không cần phải thề!” Huyền Trang cười khổ, “bần tăng mặc dù không hiểu chính trị, nhưng cũng biết vô tình nhất chính là gia đình đế vương, Đột Quyết nội đấu kịch liệt, ngài làm như vậy chẳng khác nào tự trói tay chân mình”.

“Cho dù bị Thống Diệp Hộ giết chết, ta cũng không thể chịu để người khác vu oan được!”, Nê Thục lớn tiếng nói.

Nghe hắn nói như vậy, Khúc Trí Thịnh cũng có chút hoài nghi về phán đoán của mình: “Nê Thục, ngươi thật sự không có liên quan gì đến Chiếc bình của vua Đại Vệ ư?”.

“Được, được, được!” Nê Thục tức đến mức muốn phát điên rồi, “Khúc Trí Thịnh, Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở trong tay Mạc Hạ Đốt, doanh trướng của hắn lại gần đây, ta đưa ngươi đi, bắt hắn mang Chiếc bình của vua Đại Vệ ra tặng cho ngươi, được rồi chứ!”.

“Nếu hắn không đưa thì sao?” Khúc Trí Thịnh hỏi.

“Lão tử đem quân tới tiêu diệt hắn!” Nê Thục hét lớn.

Huyền Trang vội vàng ngăn lại, nhưng Nê Thục bị Khúc Trí Thịnh chọc giận, sống chết không nghe, lập tức gọi mấy chục binh sĩ thân cận, hắn quyết không nói gì thêm mà chỉ mời ngài lên ngựa, một đoàn người ầm ầm phi về phía ngoài thành.

Lều trướng của Mạc Hạ Đốt không ở trong thành Toái Diệp, dù sao thành trì này cũng quá nhỏ, Thống Diệp Hộ lại chiếm hơn phân nửa rồi, các quý tộc Đột Quyết ở phụ cận liền nhao nhao hạ lều trướng bên ngoài thành, dù sao thì bọn họ cũng đã quen với việc di chuyển tìm đến nơi có nguồn nước và đồng cỏ.

Mạc Hạ Đốt dựng doanh trướng bên một hồ nước ngoài thành, hắn dẫn theo hơn ngàn Phụ ly binh, mấy chục doanh trướng nối liền nhau thành một mảnh. Lúc này sắc trời càng lúc càng tối, màn đêm bao phủ thảo nguyên. Hóa ra quý tộc Đột Quyết bởi vì cần chăn thả nên đều thích phân tán ra để đóng quân, chiếm giữ một bãi cỏ lớn, khoảng cách giữa hai tộc tương đối xa, nhưng mọi người đều di chuyển trên cùng một con đường, nên dọc đường đi nhóm Nê Thục bắt gặp ba nhóm quý tộc Đột Quyết khác đang dẫn theo tùy tùng đi qua, không ngờ cả bốn nhóm lại đi cùng một hướng.

Nê Thục bảo binh sĩ thân cận của mình đi hỏi, chẳng ngờ nơi đám người kia tìm đến lại là chỗ của Mạc Hạ Đốt. Mới đầu, Nê Thục cho rằng những quý tộc này đến để thăm hỏi Mạc Hạ Đốt nên không để tâm lắm, không ngờ đi được chưa đầy mười dặm, lại gặp được kỳ cân và tiểu khả hãn của bảy tám bộ lạc. Nê Thục lúc này mới biết sự tình có phần bất ổn, quan hệ của Mạc Hạ Đốt có tốt đến mấy cũng không có khả năng khiến nhiều bộ lạc cùng tìm đến bái kiến hắn như vậy.

“Đại sư, sự tình có vẻ bất ổn.” Khi còn cách doanh trướng của Mạc Hạ Đốt khoảng hai ba dặm, Nê Thục bất ngờ ghìm cương ngựa lại.

Huyền Trang gật đầu: “Bần tăng cũng nhìn ra rồi. Nê Thục, chúng ta đừng tùy tiện xông vào thì hơn”.

Nê Thục lúc này đã bình tĩnh trở lại, hắn hiểu, những nhân vật có địa vị như hắn và Mạc Hạ Đốt một khi khai chiến, điều đó có nghĩa là nội loạn của Đột Quyết cũng bắt đầu. Hắn suy nghĩ trong giây lát: “Đại sư, chi bằng chúng ta lẻn vào trước đi. Xem xem Mạc Hạ Đốt này rốt cuộc đang giở trò quỷ gì”.

Mọi người bàn bạc một chút, Nê Thục tìm một binh sĩ thân cận bảo hắn giả mạo là Kỳ cân của bộ lạc Nỗ Thất Tất, nghênh ngang tới trước doanh trại. Phụ ly binh của Mạc Hạ Đốt vừa hỏi, không khỏi mừng rỡ: “Người của bộ lạc Nỗ Thất Tất cũng tới tới sao? Mau mau mời vào, mọi người đều đang đợi đó!”.

Thậm chí đến hỏi cũng không thèm hỏi.

Đám người Nê Thục đưa mắt nhìn nhau, không ngờ lại có thể lẻn vào dễ dàng như vậy. Lúc này ngoài cửa lại có đội ngũ của một bộ lạc tới, mọi người cũng không nói gì, liền đi theo bộ lạc kia, phóng ngựa chạy trong doanh trướng. Không được bao lâu liền tới bên bờ hồ. Chỉ thấy trên bờ hồ đèn đuốc sáng trưng, tiếng người huyên náo, có chừng hơn ngàn người đang tụ tập với nhau, mọi người đang vây quanh từng đống lửa, nướng thịt bò, thịt dê, uống rượu và nói chuyện.

Nê Thục hít vào một hơi khí lạnh: “Mạc Hạ Đốt rốt cuộc muốn làm gì? Lại mời hơn hai mươi bộ lạc tới thế này!”.

Trong đám người lộn xộn, nhất thời lại không tìm được Mạc Hạ Đốt, đám người Nê Thục liền tìm một nơi, vây quanh đống lửa, vừa ăn thịt dê nướng nguyên con, vừa chờ đợi.

Nửa canh giờ sau, đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa nặng nề, từng đội Phụ ly binh giơ đuốc, phi ngựa tới, Mạc Hạ Đốt mặt mày hớn hở, thúc ngựa chạy tới bên hồ, nhảy xuống ngựa. Đám người ồn ào xung quanh lập tức yên tĩnh lại.

Bên hồ sớm đã đắp một đài đất, Mạc Hạ Đốt nhảy lên trên đấy, hướng ra bốn phía xoa ngực thi lễ: “Ta, nhi tử của Khả hãn Đạt Đầu, anh trai của Khả hãn Đô Lục, bá phụ của Khả hãn Xạ Quỹ, cũng là bá phụ của Thống Diệp Hộ! Ta, từng hầu hạ bốn vị khả hãn, giúp đỡ Khả hãn Đạt Đầu xây dựng lên Tây Đột Quyết, ở phương tây đánh bại Bái Chiêm Đình, ở phương đông, đánh bại Đông Đột Quyết và Đại Tùy, ở phương nam, đánh bại Tát San Ba Tư!”.

Phía dưới có người cười to ồn ào: “Đại thiết, ngài là con cháu của A Sử Na, mọi người đều biết ngài”.

Lại có người hô lên: “Đúng vậy, Đại thiết Mạc Hạ Đốt, ngài mời chúng tôi tới để coi Chiếc bình của vua Đại Vệ, chứ không phải tới để làm quen với ngài đâu! Mau mang Chiếc bình của vua Đại Vệ ra đây đi!”.

Đám người Nê Thục và Huyền Trang lúc này mới chợt hiểu, hóa ra tối nay Mạc Hạ Đốt mời nhiều bộ lạc như vậy là để khoe khoang về Chiếc bình của vua Đại Vệ.

“Để ta trút hết nước đắng trong lòng đã!” Mạc Hạ Đốt có chút tức giận, tiếp tục hô, “mọi người đều biết, ta là con cháu của A Sử Na, giống như một con hùng ưng bao vây trời xanh bảo vệ thảo nguyên của người Đột Quyết. Nhưng hôm nay, sau khi Đông Đột Quyết diệt vong, các bộ lạc nhân cơ hội đánh xuống phía đông chiếm đoạt đồng cỏ, lại không có phần của Mạc Hạ Đốt ta!”.

Lời này vừa nói ra, mọi người đều im lặng.

Huyền Trang có chút không hiểu, Nê Thục giải thích với ngài, hóa ra, sau khi Đông Đột Quyết bị diệt, các đại bộ lạc bị Đại Đường đánh cho chạy tứ tán khắp nơi. Thống Diệp Hộ nắm bắt tình thế, lập tức mệnh lệnh đại quân Tây Đột Quyết tiến về phía đông, chém giết chiếm địa bàn trước kia từng thuộc về Đông Đột Quyết. Đây cũng là nguyên nhân Thống Diệp Hộ khi nhìn thấy Huyền Trang lại vui mừng như thế. Cuộc làm ăn không vốn vạn lời, chỉ cần quân đội Tây Đột Quyết vừa xuất hiện, gần như không cần giết chết người nào, ngựa nào, cũng có thể chiếm được một bãi cỏ xanh rộng lớn, dòng sông, núi tuyết, thậm chí cả con dân. Cả Tây Đột Quyết đều sôi sùng sục, các bộ lạc nhao nhao yêu cầu xuất binh, nhưng Thống Diệp Hộ lại chỉ cho phép các bộ lạc thân cận với mình xuất binh, đối với những bộ lạc không thân, nghi kỵ và thực lực lớn, hết thảy đều không cho phép. Giống như những người thực lực vốn lớn mạnh như Mạc Hạ Đốt và Nê Thục thì đều không có phần, việc này có vẻ khiến cho Mạc Hạ Đốt vô cùng tức giận.

“Nhưng, thần Thiên Lang đứng cùng ta!” Mạc Hạ Đốt lớn tiếng kêu to, “Bởi vì, thần Thiên Lang đã ban cho Mạc Hạ Đốt ta Chiếc bình của vua Đại Vệ có ma lực nhất trên thế gian!”.

Hắn vung tay lên, bốn tên dũng sĩ khiêng Chiếc bình của vua Đại Vệ đi lên đài đất, đặt nó trên mặt đất. Bốn phía đèn đuốc sáng trưng, Chiếc bình của vua Đại Vệ tỏa ra ánh sáng thần bí, thân bình được chạm rỗng sặc sỡ mê ly, tràn đầy thần tính và mê hoặc. Những tiểu khả hãn, Kỳ cân này chen lấn xô đẩy nhau chạy tới dưới đài đất, ngắm nhìn Chiếc bình của vua Đại Vệ một cách tỉ mỉ, vẻ mặt say mê, ngưỡng mộ không thôi.

“Đại thiết Mạc Hạ Đốt”, có người hỏi: "Chiếc bình của vua Đại Vệ này thật sự có ma lực sao?”.

“Đúng vậy!” Một người khác hoài nghi, “thật sự có thể ước ba điều ước bất kỳ sao?”.

Mạc Hạ Đốt cười lớn: “Ở đây, có không ít người năm đó từng cùng ta tiến đánh Tát San Ba Tư, lẽ nào truyền thuyết về chiếc bình này, các người chưa từng nghe nói đến sao?”.

“Mạc Hạ Đốt, ngài ước cho chúng ta xem đi!” có người hô lên.

Đôi mắt hẹp dài của Mạc Hạ Đốt lạnh lùng nhìn chằm chằm vào đám người, đợi bọn họ huyên náo xong, mới chậm chạp hỏi: “Nếu như là thật, các người có bằng lòng tiếp nhận ta là đại khả hãn của Đột Quyết không?”.

Lời này vừa nói ra, mọi người đều sợ đến ngây người. Khúc Trí Thịnh hoảng sợ: “Hắn lại muốn làm phản!”.

“Câm miệng!” Nê Thục thấp giọng nói: “Hắn có ý định này từ lâu rồi!”.

Trên đài đất Mạc Hạ Đốt tiếp tục nói chậm rãi: “Chư vị, Chiếc bình của vua Đại Vệ chỉ có hai kết quả, là thật hoặc là giả. Đợi một lát nữa ta tự nhiên chứng minh cho các vị xem. Nếu như nó là giả, các vị hãy xông lên, mỗi người một đao chém chết ta, dâng lên cho Thống Diệp Hộ, đổi lấy một mảnh đồng cỏ, một đời giàu sang. Nếu như nó là thật, vậy thì ta có thể ước bất cứ điều gì, trở thành người có quyền lực nhất trên thế giới này, chư vị đi theo ta, thì có tổn thất gì đâu?”.

Lời này cực kỳ có lý, mọi người bắt đầu nhỏ tiếng bàn luận. Một lúc lâu sau, mới có người nói: “Đại thiết, nếu như Chiếc bình của vua Đại Vệ thật sự có thể thực hiện điều ước, chúng tôi dĩ nhiên bằng lòng đi theo ngài. Nhưng điều ước của ngài nói ra có thành hiện thực hay không, nhất định phải để chúng tôi tận mắt chứng kiến”.

“Điều này là tất nhiên”, Mạc Hạ Đốt ha ha cười lớn, “một khi ta đưa ra điều ước, chiếc bình này chắc chắn lập tức thực hiện điều ước đó.” Mọi người đều cảm thấy hiếu kỳ, yên lặng chờ đợi, Mạc Hạ Đốt giễu cợt nhìn đám người phía dưới đài: “Hôm nay, ta mời các vị đến để cùng thưởng thức thần tích về Chiếc bình của vua Đại Vệ, các người đều bằng lòng đến, ta cảm thấy rất vui. Nhưng ta cũng biết, trong số các vị, có vài người là người của Thống Diệp Hộ, tới nơi này chỉ là muốn thăm dò tin tức của ta, rồi về báo cáo cho Thống Diệp Hộ. Những người này, ta không biết là ai, nhưng Chiếc bình của vua Đại Vệ nhất định biết. Điều ước đầu tiên của ta chính là bảo Chiếc bình của vua Đại Vệ tìm ra những kẻ đó, giết hết!”.

Đám người dưới đài không khỏi đưa mắt nhìn nhau, càng có vài người lộ ra vẻ mặt sợ hãi.

Trong tay Mạc Hạ Đốt cầm một cây đao bạc, cắt một đường trên ngón tay của mình, chậm rãi nhỏ máu tươi vào trong ấn giám hình ngôi sao sáu cánh của chiếc bình, ngay sau đó cả chiếc bình liền hiện ra cảnh tượng mà đám người Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh rất quen thuộc, một sợi tơ máu đỏ nhanh chóng di chuyển trên thân bình, trong nháy mắt lập tức phủ kín lên hoa văn trên thân bình, chiếc bình tỏa ra ánh sáng đỏ ma quái, giống như yêu ma mở ra vô số con mắt.

Những tiểu khả hãn và Kỳ cân này lần đầu tiên nhìn thấy cảnh tượng đó, rối rít kinh hãi lùi về phía sau, kính sợ không thôi. Mạc Hạ Đốt giơ hai tay lên cao, trong miệng niệm một tràng tiếng cổ khó hiểu, Huyền Trang nghe lại không hiểu. Nê Thục thấp giọng nói: “Đại sư, đây là tiếng Ba Tư cổ!”.

“Hắn đang nói gì thế?” Huyền Trang hỏi.

Nê Thục cẩn thận lắng nghe, nhíu mày: “Ta cũng không hiểu tiếng Ba Tư lắm, chỉ có thể nghe được đại khái. Đây hình như là một câu thần chú, ý nghĩa là, ‘Nhi tử của ta, ta đã đợi sự ra đời của con một ngàn năm rồi, sau đó ta lại cần con phải chờ đợi thêm chín ngàn năm nữa. Giờ đây thế giới vĩnh hằng đã tới, ta sẽ thực hiện lời hứa của mình. Ra đi, nhi tử của ta, ta sẽ giao thế giới này cho con, để con được đi lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư’.”

“Cái gì?” Sắc mặt Huyền Trang lập tức thay đổi, “ngài nói lại một lần nữa xem?”.

Nê Thục có chút không hiểu, lại đọc thêm một lần nữa, toàn thân Huyền Trang run rẩy, nhắm mắt lại không nói, trong miệng thầm niệm kinh. Nê Thục còn muốn hỏi lại, đột nhiên xảy ra hiện tượng dị thường, từ trong thân Chiếc bình của vua Đại Vệ đột nhiên bốc lên một luồng khói đen nhánh, luồng khói như gió lốc quấn quanh thân bình, cuồn cuộn bắt đầu khởi động, tựa như có ma quỷ bên trong đang giãy giụa muốn ra.

Cảnh tượng này Khúc Trí Thịnh từng nhìn thấy nhiều rồi, không khỏi cười lạnh: “Hừ, vẫn là mánh khóe giống công công…”.

Nhưng tiếng cười của hắn còn chưa dứt thì trong đám khói đen kia đột nhiên phù phù phù bắn ra năm cỗ mây mù, nhanh chóng lớn lên và lan ra giữa không trung. Lúc này xem ra, chiếc bình kia giống như một con bạch tuộc, đang vươn những xúc tu dài của nó ra. Khi Khúc Trí Thịnh đang trợn mắt há mồm, xúc tu bằng mây mù kia đột nhiên dài ra, bắn vào trong đám người phía dưới đài, mọi người nhất thời kinh hãi chạy tán loạn, đợi mọi người đều tản ra hết rồi, quay đầu nhìn lại, mới phát hiện dưới đài còn có năm người đứng bất động. Xúc tu mây mù kia, không ngờ lại vươn vào trong miệng và mũi của bọn họ, gắng sức chui vào trong!

Lúc này ngay cả Huyền Trang cũng kinh hãi, chuyện này quả thực là điều mà con người không thể nào giải thích được, hoàn toàn là thủ đoạn của ma quỷ! Bờ hồ hơn ngàn người chứng kiến cảnh tượng ấy đều chết lặng, chỉ có tiếng ngựa phun mũi phì phì, chỉ có tiếng nước hồ vỗ vào bờ, chỉ có tiếng lửa trại và đuốc cháy xì xèo. Trong sự tĩnh lặng như cái chết, tiếng kêu từ xa xưa nhỏ đến mức khó mà nhận ra, lại như sấm sét bên tai mọi người.

Kẻ khởi xướng đứng ở trên đài là Mạc Hạ Đốt cũng bị hù dọa, ngây ngốc nhìn chiếc bình, toàn thân run rẩy.

“Ha ha ha ha…” Làn khói bao phủ Chiếc bình của vua Đại Vệ đột nhiên phát ra những tiếng cười trầm muộn, đám khói run rẩy, giống như sự run rẩy của một người khổng lồ đang cười lớn, “Chủ nhân tôn kính của ta, ước nguyện của ngài đã được hoàn thành. Nếu như không có dặn dò gì khác, ta phải tiếp tục ngủ say cho đến khi ngài gọi ta tỉnh dậy lần nữa!”.

“Không…” Đột nhiên phía dưới có một Kỳ cân lớn tiếng gào thét, “Mạc Hạ Đốt, là ông đang nói chuyện sao?”

Sắc mặt Mạc Hạ Đốt trắng bệch, sợ hãi nhìn Chiếc bình của vua Đại Vệ, vừa lăn vừa bò nhảy xuống khỏi đài đất, đứng ở trong đám người nhìn Chiếc bình của vua Đại Vệ: "Không phải ta! Không phải ta!".

“Chủ nhân của ta, hãy nhớ thực hiện lời thề của ngài đó!” Chiếc bình của vua Đại Vệ phát ra một tiếng thở dài. Mọi người cẩn thận lắng nghe, giọng nói kia hiển nhiên đến từ chiếc bình, không phải là Mạc Hạ Đốt đang đứng bên cạnh họ lên tiếng.

Ngay sau đó đám sương mù ngưng tụ lại, xúc tu mây mù trong miệng trong mũi năm người kia cũng thu về, cả đám khói ngưng thành một đám nhỏ, sau đó biến mất không thấy nữa. Phần thân của chiếc bình sáng rõ, hiển lộ ra trước mặt mọi người, rồi sau đó lại biến thành chiếc bình cao cổ màu vàng đồng bình thường.

Năm người đứng dưới đài ngã quỵ xuống, sắc mặt đen ngòm, hiển nhiên đã tắt thở.

Chú Thích

[115] Theo Chu thư - Đột Quyết truyện, quan chức của Đột Quyết có hai mươi tám đẳng, theo thứ tự là: Diệp hộ, Thác thiết, Đặc cần, Sĩ lợi phát, Kỳ cân…