Chương 22 Người trong bình Ba Tư
Huyền Trang xót xa nhìn chiếc bình: “Bần tăng không để ý đến thắng, cũng không để ý đến thua.”
Chiếc bình của vua Đại Vệ cười lạnh: “Từ khi còn ở Cao Xương ngài đã bắt đầu điều tra bí mật của ta, rồi lại một mực đuổi đến thành Toái Diệp này. Dám hỏi đại sư, mục đích của ngài là gì?”
“Thế giới Sa Bà, vạn vật rối ren. Thân ma cũng được, chúng sinh cũng được, tất cả đều được Phật chiếu cố, liên quan gì đến bần tăng?” Huyền Trang có chút buồn bã: “Bần tăng là một người phàm, có hỉ nộ ái lạc, biết đau xót biệt ly. Do đó, thứ mà bần tăng không đành lòng nhìn, cũng chính là nỗi khổ của chúng sinh trên đời này. Có một đứa trẻ như vậy, cậu bé là đệ tử của bần tăng, cậu bé là người Tát San Ba Tư, đi theo thúc thúc của mình vận chuyển Chiếc bình của vua Đại Vệ đến Trường An. Nhưng mà tại sa mạc Mạc Hạ Diên, thúc thúc của cậu bé và tộc nhân đều bị chặn đường giết sạch, cậu một thân một mình lưu lạc ở Tây Vực, tâm nguyện lớn nhất của cậu bé, chính là có thể hoàn thành sứ mệnh của gia tộc, đưa Chiếc bình của vua Đại Vệ đến Trường An, sau đó quay trở lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư. Bần tăng đã đồng ý với cậu bé, sẽ giúp cậu hoàn thành tâm nguyện, sau đó đưa cậu về Ba Tư.” Trong mắt của Huyền Trang lấp lánh nước mắt, giọng nói có phần nghẹn ngào: “Thế nhưng, cậu bé lại vùi thân trong ngọn lửa của Thiên Sơn, đến cả tro cốt của cậu bé, bần tăng cũng không tìm thấy. Sau đó, bần tăng tìm thấy một ít mảnh quần áo còn đang cháy trong ngọn lửa, để trong một chiếc hộp bằng đá, bởi vì cậu bé là tín đồ Bái Hỏa giáo, xưa nay thích sạch sẽ, cho dù có chết, cũng không muốn để di hài của mình làm bẩn gỗ, sắt và vạn vật trên thế gian này.”
Huyền Trang nói xong, ngài lấy từ trong lồng ngực ra một chiếc hộp đá, mở nắp hộp, bên trong là phần quần áo rách nát cháy đen còn sót lại. Ngài đặt chiếc hộp đá trước mặt Chiếc bình của vua Đại Vệ: "Ngài và ta đều là người phàm, người chúng ta nhớ thương và người nhớ thương chúng ta, chỉ có người thân trên cõi dời này. Bần tăng năm tuổi mẫu thân tạ thế, đến năm mười tuổi phụ thân cũng lìa bỏ cõi đời. Năm nay bần tăng ba mươi tuổi, mặc dù quy y ngã Phật, nhưng mỗi khi đêm khuya mộng tỉnh, nhớ tới người thân đã qua đời, nước mắt lại ướt đẫm gối. A Thuật năm nay mới mười tuổi, ở quê hương của cậu bé vẫn còn phụ thân đang đợi cậu quay về. Cậu bé cũng đã từng nói, cậu muốn trở về với phụ thân, nắm tay phụ thân, đi lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư. A-tạp Mã-nạp, ta truy tìm ngài, giống như đang đuổi theo giấc mộng của A Thuật. Vì đứa trẻ này, ta tình nguyện đuổi theo ngài đến chân trời góc bể. Trừ khi, ngài để cậu bé sống lại, để ta đưa cậu bé quay về dưới ánh mặt trời của Ba Tư.”
Lời nói này rất dài, Huyền Trang thì nói chậm, thế nhưng Chiếc bình của vua Đại Vệ lại kiên nhẫn lắng nghe, không hề ngắt lời. Đợi Huyền Trang nói xong, chiếc bình rơi vào trầm mặc trong thời gian dài. Huyền Trang cũng trầm mặc. Một người một vật, một tăng một yêu, dường như đang lặng lẽ nhìn nhau.
“Đại sư!” Chiếc bình của vua Đại Vệ phát ra một tiếng thở dài nặng nề: “Ta hiểu tâm tư của ngài. Nhưng người chết không thể sống lại, cho dù ta được xưng tụng là thần yêu vạn năng, nhưng cũng không có cách nào làm cho một người chết sống lại trước mặt ngài.”
“Thật sự không thể sao?” Huyền Trang có chút tiếc nuối, nước mắt từ từ rơi xuống.
“Không thể” Chiếc bình của vua Đại Vệ khẳng định chắc như đinh đóng cột, từ chối Huyền Trang, dường như trong lời nói còn có chút thương cảm: “Bi thương và thống khổ của chúng sinh, cái chết há lại là lớn nhất? Đại sư, ta kể cho ngài nghe một câu chuyện xưa lưu truyền trong Bái Hỏa giáo nhé! Ban đầu, vạn vật trong không gian vũ trụ đều không tồn tại, chỉ có thần thời gian và không gian Trát Nhĩ Vạn[120] (Zurvan Akarana) sống cô lẻ trong vũ trụ này. Năm này qua năm khác, không biết trải qua bao nhiêu thời gian, Trát Nhĩ Vạn rất cô đơn. Ngài ấy nói, ta muốn có một đứa trẻ. Thế là, ngài ấy thầm câu khẩn, cầu khẩn một nghìn năm trong vũ trụ, nhưng đứa trẻ cũng không ra đời. Ngài ấy bắt đầu hoài nghi, lời cầu khẩn như vậy có ích hay không? Đúng lúc ý nghĩ này thoáng hiện lên trong lòng ngài ấy, một cặp anh em sinh đôi được sinh ra trong bụng của ngài. Một nghìn năm thành kính đợi chờ thai nghén, giờ đây đã sinh ra Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức[121] (Holmozd), còn sự nghi ngờ trong nháy mắt lại sinh ra A Hách Lí Mạn[122] (Ahriman)…”
Trong trướng vua to lớn như khung trời, trên mặt đất vẫn còn những vết máu loang lổ từ đêm qua, tân Khả hãn của Tây Đột Quyết nằm hôn mê bất tỉnh, một vị hòa thượng ngồi xếp bằng bên cạnh Chiếc bình của vua Đại Vệ kỳ dị, nghe nó kể câu chuyện xưa thần bí ở một đất nước xa xôi. Cảnh tượng này, đột nhiên khiến cho Huyền Trang có chút ngẩn ngơ.
“Trát Nhĩ Vạn cầu nguyện: ‘Ta sẽ giao thế giới cho đứa trẻ được sinh ra trước, để nó khai sáng trời đất’. A Hách Lí Mạn vội xé phần bụng của cha mình, nhảy ra nói: ‘Con chính là con của người, hãy giao thế giới cho con đi!’. Nhưng đứa trẻ trước mắt toàn than đen sì, tỏa ra mùi hôi thối khó ngửi, trong mắt còn lóe lên sự tà ác tham lam. Trát Nhĩ Vạn rất bất mãn, ngài nói: ‘Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức con của ta hẳn là hóa thân của ánh sáng và mùi thơm, con đen sì hôi thối như vậy, chắc chắn không phải là đứa trẻ ta mong chờ từ lâu’.”
“Đúng lúc này, Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức hạ sinh trong ánh sáng và hương thơm, ánh sáng rực rõ và sự trong lành của cậu khiến cho toàn bộ thế giới tràn ngập điềm tốt lành. Trát Nhĩ Vạn mỉm cười chào đón đứa trẻ này đến. A Hách Lí Mạn nói: ‘Con là đứa trẻ được sinh ra trước, cha phải giao thế giới cho con!’. Trát Nhĩ Vạn nói: ‘Các con, ta chắc chắn sẽ thực hiện lời hứa của mình, giao thế giới cho A Hách Lí Mạn được sinh ra trước. Nhưng mà, A Hách Lí Mạn, con phải biết điều này, sức mạnh và trí tuệ của Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đều hơn con, cho nên thời gian con nắm giữ thế giới chỉ có chín nghìn năm, khi thời hạn đến, Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức liền thay thế con, vĩnh viễn thống trị thế giới’.
Trát Nhĩ Vạn đưa một bó cành xanh ở trong tay mình cho Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức, nói cho cậu biết: ‘Nhi tử của ta, ta đã chờ đợi một nghìn năm cho sự ra đời của con, sau này con phải cố gắng vì ta mà chờ đợi chín nghìn năm. Bó cành xanh thần thánh này tượng trưng cho sức mạnh và sự uy nghi, con hãy quý trọng nó, câu nguyện cho tương lai!’. Nói xong, ngài tan vào trong thời gian và không gian, không bao giờ còn quay lại nữa.”
Chiếc bình của vua Đại Vệ kể xong câu chuyện này, rồi lại rơi vào sự trầm mặc, dường như đang suy nghĩ sâu xa, rất lâu sau mới hỏi Huyền Trang: “Đại sư, trong chín nghìn năm A Hách Lí Mạn thống trị thế giới này, ngài có biết đứa trẻ mà Trát Nhĩ Vạn yêu thương nhất đang ở nơi nào không?”
Huyền Trang lắc đầu.
“Đó chính là câu chuyện trong ‘Sáng Thế Ký’ do Bái Hỏa giáo của Ba Tư ghi chép lại. Trong câu chuyện, trên bầu trời tối cao có đất, nước, ánh sáng, Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức sống ở nơi đó, chờ đợi chín nghìn năm sau để tới thế giới này. Nhưng mà, trong hiện thực tàn khốc, cậu ấy lại giống như ta, bị phong ấn trong một chiếc bình nhỏ hẹp, chờ đợi sự tự do sau chín nghìn năm.” Giọng nói trongChiếc bình của vua Đại Vệ chất chứa sự buồn bã: “Cậu ấy là đứa con mà phụ thân thương yêu nhất, cậu ấy hết lòng tuân thủ lời hứa hẹn của phụ thân mình, không hề đấu tranh, không hề phản kháng, cứ mãi trầm mặc như vậy ở trong phong ấn, đợi chờ sự tự do sau chín nghìn năm. Đại sư, nỗi thống khổ lớn nhất trên đời này, không phải cái chết, cũng không phải sự ly biệt, mà là cơ thể và linh hồn của ngài bị giam cầm ở một nơi nhỏ hẹp, cô quạnh, tối tăm, sợ hãi, cô độc trải qua một đời.”
Huyền Trang nhớ tới câu thần chú Mạc Hạ Đốt từng đọc, lẩm bẩm niệm tụng: “Nhi tử của ta, ta đã đợi sự ra đời của con một ngàn năm rồi, sau đó ta lại cần con phải chờ đợi thêm chín ngàn năm nữa. Giờ đây thế giới vĩnh hằng đã tới, ta sẽ thực hiện lời hứa của mình. Ra đi, nhi tử của ta, ta sẽ giao thế giới này cho con, để con được đi lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư.” Huyền Trang chậm rãi niệm, sau đó hỏi: “Cho nên, đây chính là câu thần chú đánh thức ngài?”
“Đại sư, còn gì có thể thu hút ta hơn là sự tự do đây?” Chiếc bình của vua Đại Vệ trả lời: “Vì vậy, đại sư, ta thực sự không có cách nào khiến cho A Thuật sống lại cả.”
Trong mắt Huyền Trang tràn đầy nước mắt: “Nhưng mà, ta thật sự rất yêu mến đứa trẻ đó, cậu bé thông minh, dũng cảm, có tấm lòng nhân hậu, cậu bé là người đáng quý nhất trên đời. Ta muốn nắm tay cậu bé, dẫn cậu bé đi dưới ánh mặt trời của Ba Tư, giao trả cậu bé cho phụ thân của cậu.”
Chiếc bình của vua Đại Vệ giống như đang run lên, khói mù phía ngoài thân bình chầm chậm lượn lờ, vô cùng bất ổn, dường như có một thứ sức mạnh như muốn nổ tung, lại như đang vùng vẫy. Huyền Trang yên lặng nhìn, nước mắt không ngừng chảy xuống.
Lúc này, Chiếc bình của vua Đại Vệ đột nhiên xảy ra biến hóa kỳ dị, hoa văn biến đổi xen kẽ, thân bình bỗng nứt ra một lỗ hổng, lặng lẽ tách ra hai bên. Trong khói mù lượn lờ, một khối thịt từ trong bình lăn ra ngoài, sau khi rời khỏi bình, một đôi bàn tay từ từ nhô ra khỏi khối thịt ấy, sau đó là đôi chân, và tiếp theo là chiếc đầu thò ra, trở thành một cơ thể người hoàn chỉnh, trần như nhộng đứng trước mặt Huyền Trang.
“Sư phụ!” Người nọ nói.
Người đi ra từ trong chiếc bình đó, lại chính là A Thuật đã chết từ lâu!
“A Thuật!” Huyền Trang run rẩy đi tới, ôm cậu vào trong lòng, khóc nức nở.
A Thuật lẳng lặng chảy nước mắt, cắn răng, cố gắng để bản thân không phát ra tiếng. Hai người cứ ôm nhau như vậy, rất lâu sau, Huyền Trang mới bình tĩnh trở lại, quan sát A Thuật cẩn thận, cơ thể cậu bé gầy gò, nước da trắng bệch, thân hình của cậu chừng bốn thước, thật sự không biết làm thế nào mà chui vừa vào trong chiếc bình!
“Sư phụ, hiện giờ người biết rõ bí mật của Chiếc bình của vua Đại Vệ rồi đúng không?” A Thuật lau nước mắt, mỉm cười: “Con chính là người sống trong chiếc bình mà bốn trăm năm trước Tát San Ba Tư đã truyền thừa lại qua các đời quốc vương đó!”
“Người trong bình…” Huyền Trang còn chưa hết chấn động, lầm bầm nhắc lại.
“Đúng vậy!” A Thuật thê lương khôn xiết: “Ở Ba Tư, quả thực có một Chiếc bình của vua Đại Vệ phong ấn ma quỷ. Đây chỉ là chuyện xưa và truyền thuyết. Sau khi A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ đệ nhất sáng lập ra Tát San Ba Tư, để khiến các quốc gia khác kinh sợ, ngài ấy bí mật triệu tập thợ thủ công, tốn mấy năm, đúc ra Chiếc bình của vua Đại Vệ. Người đừng thấy nó nhỏ mà coi thường, trông vậy nhưng toàn thân nó chỗ nào cũng là cơ quan mật, có thể khống chế khói đen, có thể phun ra lửa, có thể chảy ra máu tươi, lại càng có thể phóng châm bạc và chất độc giết người ta một cách vô hình. Thế nhưng, thiếu sót đáng tiếc nhất của nó chính là không có được tư duy giống như ma quỷ thật sự để có thể trả lời con người. A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ đệ nhất nảy ra một ý tưởng đáng kinh ngạc, để một người tinh thông thuật Du Già thu nhỏ thân thể, nấp trong bình, điều khiển cơ quan, như thế, một người có thể sánh ngang với ma quỷ thật sự liền xuất hiện. Đó chính là ‘người trong bình’! Bốn trăm năm nay, ‘người trong bình’ ở mỗi triều đại đều có người kế nhiệm luân phiên, bọn họ có thể uốn cong người giống như cục bột mì nấp trong bình, mấy tháng không ăn không uống, thậm chí còn không cần hít thở. Những người này là vũ khí tối thượng của các triều đại hoàng đế Ba Tư, bọn họ trốn ở trong bình giả danh ma quỷ, kích thích dục vọng từ sâu thẳm cõi lòng con người để phục vụ cho hoàng đế, truy sát các đại thần và tướng quân bất trung với hoàng đế, mê hoặc thần dân tận hiến với Tát San Ba Tư. Sư phụ, con chính là ‘người trong bình’ của triều đại này.”
“Chẳng lẽ…” Huyền Trang khó tin: “Mấy tháng này bị Mạc Hạ Đốt mang đi, con vẫn luôn trốn ở trong bình?”
“Đâu chỉ mấy tháng này?” Trong nụ cười của A Thuật tràn đầy sự đau khổ: “Sư phụ, tuổi của con còn lớn hơn người, năm nay con ba mươi tám tuổi rồi. Năm đó khi con mới lên tám tuổi, liền bị phụ thân bỏ vào trong bình, cho tới bây giờ, tính ra cũng được ba mươi năm rồi.”
Huyền Trang bị một chuỗi thông tin liên tiếp làm cho kinh hãi, ngài nhìn A Thuật một lượt từ trên xuống dưới: “Con., như vậy mà đã ba mươi tám tuổi rồi sao? Lẽ nào con là… người lùn?”
“Vốn dĩ con không phải là người lùn.” A Thuật nhìn cơ thể trần truồng của mình, lẩm bẩm: “Nhưng mà, để con có thể ẩn náu trong chiếc bình, phụ thân con liền dùng thuốc, biến con thành người lùn.”
Huyền Trang bỗng nhiên tỉnh ngộ, từ khi tiếp xúc với A Thuật ở sa mạc Mạc Hạ Diên, ngài cảm thấy đứa trẻ này quá mức trưởng thành, chẳng những thông suốt mọi thứ từ phong tục tập quán của Tây Vực, chính trị quân sự, ngôn ngữ các quốc gia, đến cả nhân tình thế sự cũng tinh thông như vậy. Khi đó, ngài chỉ cho rằng là người Túc Đặc có lẽ vì muốn đào tạo ra những đứa trẻ biết buôn bán, cho nên A Thuật mới già dặn như vậy. Bây giờ ngài mới hiểu ra, đó là bởi người ta đã ba mươi tám tuổi rồi.
“Vậy phụ thân của con là…” Huyền Trang dè dặt hỏi: Người trong bình của đời trước?”
“Không!” A Thuật chậm rãi nói: “Người là hoàng đế Tát San Ba Tư của triều đại này, Khố Tư Lỗ đệ nhị.”
“Sao cơ?” Huyền Trang mắt trợn mồm há.
“Sư phụ!” A Thuật cười cười, nước mắt từ từ tuôn ra: “Bốn mươi năm trước, phụ vương của con chính tay giết chết phụ thân của mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ, trở thành vương của Tát San Ba Tư. Sở dĩ ông ấy dám đảo chính, là bởi vì người trong bình đã phản bội Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ, đầu phục ông ấy. Tát San Ba Tư bốn trăm năm nay, có rất nhiều ví dụ như vậy, hoàng đế chưa từng chết trong tay người ngoại tộc, mà đều là do sự phản bội từ Chiếc bình của vua Đại Vệ, sau đó bị nhi tử của mình giết chết. Cho nên, sau khi phụ vương của con lên làm hoàng đế, liền lựa chọn một trong số các nhi tử của ông ấy để làm người trong bình. Con sinh thứ sáu là hoàng tử của Ba Tư. Năm đó, con mới hai tuổi, được phụ vương con lựa chọn, thông báo với bên ngoài là con chết non, sau đó bắt đầu bí mật huấn luyện cho con thuật Du Già, để con biến thành người lùn.”
“Sao ngài ấy có thể tàn nhẫn như vậy?” Huyền Trang tức giận không thể kiềm chế được.
“Tàn nhẫn ư?” A Thuật ngồi trên thảm, nhìn hư không ở phía trước mặt: “Trước hai tuổi, con không có ký ức. Nói cách khác, ngay khi con sinh ra lập tức tiếp xúc với sự huấn luyện này, cho rằng con người từ khi sinh ra đã có dáng vẻ như vậy, nên cơ thể đường đường bốn thước lại có thể biến hóa thành một viên thịt, hơn nữa, còn phải trần truồng như nhộng trốn ở trong chiếc bình nhỏ hẹp này. Và, mấy tháng không ăn không uống, cũng không cần hô hấp. Con căn bản chưa từng nhìn thấy thế giới bên ngoài, lại càng chưa từng nhìn thấy cây xanh, cỏ tươi, phòng ốc và những đám người bận rộn với cuộc sống. Những năm này, con chỉ khát khao được nhìn thấy một thứ, đó là ánh mặt trời. Bời vì trong ký ức của con vẫn còn sót lại một hình ảnh, thân thể trần truồng chạy băng băng dưới ánh mặt trời, ánh nắng ấm áp chiếu rọi lên cơ thể của con, nó không lạnh lẽo như chiếc bình đồng này, nó ấm áp, tự do, nó khiến con có thể nhìn thấy những nơi rất xa, nó có thể làm bốc hơi hết những giọt mồ hôi trên cơ thể của con, khiến cả người con cảm thấy rất thoải mái. Sau đó, con nói cho phụ vương nghe ý nghĩ này, phụ vương hứa với con, đợi ông ấy ước hết ba điều ước, con sẽ được tự do, sống dưới ánh mặt trời của Ba Tư.”
“Sư phụ!” A Thuật toét miệng: “Phụ vương con đã chờ đợi hai năm cho sự ra đời của con, con thì vì ánh mặt trời và sự tự do mà chờ đợi ba mươi năm. Lời người vừa niệm lúc nãy, con xem như là câu thần chú đánh thức con, là lời nhắc nhở suốt từng giây từng phút gửi đến phụ vương của con, lời hứa của ông ấy, con vẫn đang chờ.”
“A Thuật!” Huyền Trang cầm tay của cậu, nghẹn ngào khóc nức nở.
A Thuật cũng khóc, cậu ôm cổ Huyền Trang gào khóc sướt mướt, tựa hồ như muốn trút hết những bi thảm, thê lương, thống khổ và xót xa suốt cả đời trong lần khóc này.
Huyền Trang năm nay ba mươi tuổi, cũng dành gần hai mươi năm để hành tẩu tham học, ngài từng chứng kiến cảnh tượng sụp đổ của một đế quốc, nhìn thấy những tai họa do lòng tham và dục vọng của con người gây ra, thậm chí còn nhìn thấy những người vô tội bị Thôi Giác bắt tới địa ngục Nê Lê, tình cảnh bi thảm bị cột vào trên bánh răng, bị cắt lưỡi lột da. Thế nhưng chưa bao giờ có chuyện gì mang tới cho ngài sự chấn động lớn như hiện tại. Một vị hoàng tử Ba Tư, từ nhỏ đã bị ép uống thuốc biến thành người lùn, nhét vào trong một chiếc bình chỉ cao hai thước, phải sống trong đó suốt ba mươi năm! Mới chỉ nghĩ một chút, liền cảm thấy sởn gai ốc, tâm can như thắt lại.
“Con vẫn luôn ở trong chiếc bình chờ đợi điều ước thứ ba của phụ vương, thế nhưng người lại không hề ước nguyện.” A Thuật ngây người nhớ lại: “Sau đó cuối cùng con cũng hiểu ra, hoàng đế của các triều đại Ba Tư từ trước đến nay chưa bao giờ ước điều ước thứ ba, sự chờ đợi của con được định trước là công toi, con cũng đã buông xuôi, quyết định sống trong chiếc bình này. Cho đến mấy năm trước, hoàng đế Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược và người Đột Quyết ngấm ngầm liên thủ, theo thế gọng kìm từ hai hướng đông tây tấn công, Tát San Ba Tư đối mặt với họa mất nước, ngay cả cung điện Hải Nhĩ Vượng mà phụ vương thích nhất cũng bị đốt trụi. Vì vậy, cuối cùng phụ vương cũng tới tìm con, nói ông ấy sắp thực hiện lời hứa, chờ con hoàn thành điều ước cuối cùng của ông ấy, thì sẽ để cho con tự do. Và con hỏi điều ước cuối cùng của ông ấy là gì, ông ấy nói, sẽ đưa con và Chiếc bình của vua Đại Vệ đến Đại Đường ở xa vạn dặm, tặng cho hoàng đế Lý Thế Dân. Sau đó, để con mê hoặc Lý Thế Dân xuất binh đến Tây Đột Quyết, như vậy, ông ấy có thể toàn tâm toàn ý đối phó với Hi Lạp Khắc Lược.”
“Nhưng mà…” Huyền Trang nghi hoặc: “Sao phụ vương con có thể khẳng định là con có thể mê hoặc được hoàng đế Đại Đường xuất binh?”
A Thuật tự tin cười cười: “Sư phụ, người còn chưa hiểu sao? Khi con ở trong chiếc bình này, con chính là ma quỷ thật sự, không gì mà con không làm được. Trong lòng bất cứ người nào cũng đều có dục vọng, khi hoàng đế Đại Đường nhìn thấy một chiếc bình có thể đối thoại với mình, bày ra đủ thứ thần kỳ, còn ai có thể nghi ngờ nữa chứ?” Cậu chỉ vào Mạc Hạ Đốt đang nằm hôn mê bất tỉnh ở dưới đất: “Người nhìn ông ta đi, đó chính là một ví dụ.”
Huyền Trang trong lòng nặng nề, đây là sự thật mà ngài không có cách nào để phản bác lại. Cho dù Lý Thế Dân có anh minh đến đâu, cơ trí đến nhường nào, thì vào khoảnh khắc ngài ấy nhìn thấy Chiếc bình của vua Đại Vệ, có lẽ cũng không kìm nén được những dục vọng từ tận đáy lòng. Từ đó liên bị A Thuật khống chế. Sự cao minh của A Nhĩ Đạt Hi Nhĩ đệ nhất chính là ở đó, ngài ấy đã hoàn toàn nhìn thấu dục vọng của con người và chúng sinh.
Nghĩ tới đây, Huyền Trang không khỏi vui mừng, may mà đám người Phòng Huyền Linh, Đỗ Như Hối và Ngụy Trưng học Nho gia, không chấp nhận được chuyện quái dị, bạo lực, phản loạn, quỷ thần… mới tình nguyện mạo hiểm ngăn cản Chiếc bình của vua Đại Vệ ở Tây Vực, nếu không thì, ngày mà Chiếc bình của vua Đại Vệ tới được Trường An, e rằng đó cũng là lúc thiên hạ Đại Đường đại loạn.
“Thế là, phụ vương con phái thần tử A Lí Bố Gia Tư Đinh ở trong triều làm sứ giả, bí mật mang theo Chiếc bình của vua Đại Vệ thông quan vượt Con đường Tơ lụa đưa đến Trường An”, A Thuật chìm đắm trong hồi ức xa xôi: “Con đường này của chúng con, đi hơn vạn dặm, tốn gần một năm, con trốn ở trong Chiếc bình của vua Đại Vệ, cách xa quê nhà và người thân, đi tới một đất nước lạ lẫm. Những gì mà con theo đuổi, chính là một ngày nào đó có thể trở lại Ba Tư, đi dưới ánh mặt trời của quê hương. Thuật Du Già của con có thể không ăn không uống, không hít thở, ngủ ba tháng. Lâu rồi thì con nhất định phải ra khỏi bình, uống một ít nước trong, ăn một chút đồ ăn. Gia Tư Đinh cũng không biết bí mật của con, con chỉ có thể lén lút đi ra ngoài vào buổi đêm khi bọn họ đã ngủ. Ngày hôm đó, chúng con đi đến sa mạc Mạc Hạ Diên, đi thêm mấy ngày nữa là có thể tiến vào biên giới của Đại Đường. Tối hôm đó, chúng con và người Yên Kỳ cắm trại bên hồ ở sa mạc, thế là con mới chui từ trong bình ra, định uống một chút nước trong, ăn một ít đồ ăn, chuẩn bị chào đón thách thức của đất nước xa lạ này. Nhưng mà…” A Thuật cười khổ: “Khi con đi ra ngoài, lại bị Gia Tư Đinh vô tình nhìn thấy.”
“Hả?” Huyền Trang tỉnh ngộ: “Thì ra, trong bình có quỷ, chính là có ý này!”
Huyền Trang khi đó không rõ ý nghĩa trong lời nói của Gia Tư Đinh, sau khi nghe được truyền thuyết về Chiếc bình của vua Đại Vệ, ngài còn tưởng rằng Gia Tư Đinh đang cảnh cáo ngài, trong chiếc bình có phong ấn ma quỷ. Khi đó cũng không nghiên cứu kỹ, bây giờ nghĩ lại, Chiếc bình của vua Đại Vệ phong ấn ma quỷ, tất cả người Ba Tư đều biết, nhưng Gia Tư Đinh trước khi chết lại nói như vậy? Có lẽ, là Gia Tư Đinh mang theo Chiếc bình của vua Đại Vệ vượt vạn dặm tìm đến Đại Đường, thế nhưng đêm hôm đó lại trông thấy một đứa trẻ từ trong đó đi ra, phát hiện này khiến cho ông ta chấn động và sợ hãi. Mặc dù ngay sau đó đã bị Khúc Đức Dũng giết chết, nhưng ông ta từ đầu đến cuối vẫn nhớ mãi không quên chuyện này, cho nên trước khi lâm chung mới nhất định phải nói với Huyền Trang.
“Khi đó con không hề phát hiện ra ông ta, nên đã lén lút chạy đến bên hồ uống nước. Không ngờ lúc này Khúc Đức Dũng dẫn người tới giết hết sứ giả Yên Kỳ, chúng con trở thành người vô tội gặp tai họa, Gia Tư Đinh cũng bị bắn chết.” A Thuật kể lại chuyện này, có chút suy sụp tinh thần: “Mặc dù bí mật của con may mắn không bị tiết lộ ra ngoài, nhưng… nhưng con không thể trở về trong bình được nữa!”
Huyền Trang không khỏi tức cười.
Chuyện này nói tới thật quá hoang đường. Một sách lược động trời ảnh hưởng đến kết cấu thế giới, liên quan đến sinh tử tồn vong của mấy đế quốc cường đại nhất là Bái Chiêm Đình, Tát San Ba Tư, Tây Đột Quyết, Đại Đường, vậy mà vì một lần tình cờ, ma quỷ lại không trở về được trong bình, chiếc bình cũng không có cách nào tìm đường đến Đại Đường được nữa!
“Cho nên, con chỉ có thể đi theo dấu vết Chiếc bình của vua Đại Vệ, tìm kiếm thời cơ, dự định chui vào bình vua.” A Thuật cười khổ không thôi: “Đêm hôm đó, sau khi gặp sư phụ, con liền đi theo sư phụ đến Tây Vực. Không ngờ sau đó Chiếc bình của vua Đại Vệ lại lưu lạc đến Cao Xương, rồi bị Chu Quý lợi dụng, bày ra mưu kế ma quỷ trong Chiếc bình của vua Đại Vệ hiện thân, khi đó đến con cũng kinh ngạc không thôi.”
Huyền Trang cười khổ: “Khi ta gặp con, không phải là không nghĩ tới việc trong đó có nội tình phức tạp như vậy.”
“Sư phụ” A Thuật có chút tò mò: “Nghe ý tứ trong cuộc đối thoại vừa rồi, hẳn là người đã biết rõ con trốn ở trong bình. Người làm thế nào mà phát hiện ra vậy?”
“Đó chỉ là sự suy đoán.” Huyền Trang thành thật trả lời: “Suy đoán này quá đáng sợ, bản thân bần tăng cũng không dám tin, một mực cố gắng nghĩ sang hướng khác. Thế nhưng càng nghĩ càng thấy cũng chỉ có khả năng con trốn ở trong chiếc bình mới có thể giái thích được. A Thuật, còn nhớ không? Khi ta gặp con ở sa mạc Mạc Hạ Diên, con không mặc quần áo.”
“Đúng vậy”, A Thuật nhìn cơ thể trần truồng của mình: “Trốn trong bình, không gian nhỏ như vậy, làm sao có thể mặc quần áo được?”
“Nhưng khi đó là ban đêm, tiết trời lại lạnh, một đứa trẻ nhảy xuống hồ bơi lội, quần áo của nó đâu?” Huyền Trang hỏi: “Sau đó bần tăng tìm kiếm kỹ càng, cũng không tìm thấy quần áo của con. Buộc lòng phải dùng một tấm da dê quấn lấy chân của con.”
A Thuật có chút cảm động, nói: “Sư phụ, cũng chính khoảnh khắc đó, con cảm thấy người là người mà con có thể tin cậy nhất. Con đã lớn như vậy, chưa từng có người nào đối đãi với con tốt như thế, bao gồm cả phụ vương của con trong đó.”
Cậu từ từ ngả vào trong lòng Huyền Trang, mặc dù đã ba mươi tám tuổi rồi, nhưng cậu vẫn quyến luyến người lớn như một đứa trẻ. Huyền Trang xoa đầu của cậu, nói: “Còn có một lần, khi chúng ta nghỉ lại thành Y Ngô, con đi ám sát Khúc Trí Thịnh.”
A Thuật gật đầu: “Đúng, con muốn đoạt lại chiếc bình.”
“Nhưng con đã giết ba người hộ vệ của ngài ấy.” Huyền Trang có ý trách cứ: “Những hộ vệ đó cả người không có chỗ nào bị thương, đến nguyên nhân vì sao chết cũng không tra ra được. Sau đó con nói cho ta biết, con dùng gạch đập vào ót của bọn họ. A Thuật, con là một đứa trẻ chưa đến mười tuổi, làm sao có thể đập chết ba người hộ vệ thân trải qua trăm trận đánh? Hơn nữa, nếu như đập vào ót, lẽ nào Khúc Đức Dũng không nhìn ra? Trừ phi con dùng kim bạc đâm chết họ.”
A Thuật lúng túng nói: “Là con dùng kim bạc đâm chết họ. Khi đó người hỏi con, con thuận miệng bịa một lý do, không nghĩ nhiều như vậy.”
“Rồi về sau chính lần chúng ta chạy trốn trong giếng mương.” Huyền Trang nhớ lại: “Khi đó, trong giếng mương khắp nơi đều là dân lưu vong, vì sao con đi tới chỗ nào, dân lưu vong ở nơi đó liền mất mạng? Khúc Trí Thịnh nghi ngờ là Vương Huyền Sách âm thầm mua chuộc nội ứng trong đám người lưu vong để giúp đỡ chúng ta. Lý do này đương nhiên cũng có phần hợp lý. Thế nhưng bần tăng thấy rất khó tưởng tượng, một người lưu vong bình thường, sao có thể đưa người của mình vào chỗ chết một cách im lặng như thế được. Vài ngày trước, Khúc Văn Thái đưa tới cho ta hai con mắt của những người lưu vong chết dưới giếng mương, trong con mắt đó, ta nhìn thấy một cây kim bạc.”
Huyền Trang nhớ tới cảnh tượng ngày hôm ấy, không kìm nổi mà run lên. Chuyện này nghĩ thế nào cũng thấy kỳ lạ, trong giếng ngầm tối tăm, dân lưu vong bao vây chặn đánh khắp nơi, một đứa trẻ chạy đến trước mặt bọn họ, cười nói: “Sư phụ, nơi này không có người.”
Những người lưu vong kia chắc chắn sẽ ngây người. Lẽ nào chúng tôi không phải người sao?
Lập tức mắt của bọn họ có lẽ chỉ nhìn thấy một tia sáng màu bạc, hoặc là không nhìn thấy gì cả mà cứ thế gục chết trong câm lặng. Nơi này, thật sự không có người. Những nơi mà đứa trẻ này đi qua, liên tiếp hô: “Sư phụ, nơi này không có người.”
Người nhìn thấy cậu cứ thế gục chết hết cả.
“Con có còn nhớ hay không? Chính biến ngày hôm đó, mấy câu Tiết tiên sinh trước khi chết đã nói với vương phi?” Huyền Trang hỏi.
“Vâng.” A Thuật gật đầu: “Nhớ rõ ạ! Hình như có liên quan đến người, con nhớ sau khi vương phi nghe xong, liền sợ hãi nhìn người.”
“Nó không liên quan tới ta, mà là liên quan tới con.” Huyền Trang thở dài: “Sau này, khi vương phi thỉnh cầu ta hợp táng thỉ thể của người và Khúc Đức Dũng, coi như là điều kiện để người nói cho ta biết câu nói kia. Người nói, hôm đó, những nơi mà con đi qua trong giếng mương, lưu nhân đều mất mạng. Khi đó, Tiết tiên sinh và một lưu nhân khác cũng nhìn thấy, sau đó vì sao bọn họ không dám đuổi theo ư? Bởi vì đối với bọn họ, con là ma quỷ thật sự.”
“Thì ra là như vậy!” A Thuật có chút rầu rĩ không vui: “Ngay từ lúc đó, người đã nghi ngờ con rồi sao?”
“Không có!” Huyền Trang lắc lắc đầu: “Khi đó ta tuyệt đối không ngờ tới việc con là người trong bình. Ta chỉ cho là, con có một thủ đoạn có thể giết người trong vô hình. Cho đến lần nọ khi ở ngoài thành Cao Xương, ngay trước mặt Nê Thục, con bắn chết mấy binh sĩ của liên quân ba nước, một lần nữa dựng lên truyền thuyết ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ, lúc đó ta mới biết, nhất định con có một mối quan hệ sâu sắc nào đó với Chiếc bình của vua Đại Vệ.”
A Thuật thở dài: “Sư phụ, con cũng là bất đắc dĩ thôi! Tên Chu Quý kia tự cho là mình thông minh, tự đạo diễn ra một âm mưu về Chiếc bình của vua Đại Vệ, cuối cùng lại bị người bóc kén kéo tơ, phơi bày ra giữa ban ngày ban mặt. Mọi người đều không tin vào ma lực của Chiếc bình của vua Đại Vệ nữa, vậy nếu như con lại chui vào trong đợi đưa đến Đại Đường, thì lúc ấy nó còn có ý nghĩa gì nữa? Cho nên, lần Khúc Trí Thịnh suýt bị điên đó, con giúp Chu Quý cướp bình vua từ trong lồng ngực của hắn, rồi lén lút khởi động cơ quan trong chiếc bình, chiếc bình tỏa ra khói mù. Con lại âm thầm giết kỵ binh của Nê Thục.”
“Cho nên, A Thuật, khi đó ta đã nghi ngờ quan hệ của con và Chiếc bình của vua Đại Vệ rồi.” Huyền Trang nói: “Cho đến lò luyện Thiên Sơn, con ôm chiếc bình lăn xuống vách núi, chiếc bình yên lành, con thì hoàn toàn không có tung tích. Lúc đầu ta đoán chừng con có thể đã rơi vào trong lò lửa hóa thành tro tàn, trong lòng vô cùng buồn bã.
Thế nhưng, khi đến Tây Đột Quyết, lại nghe thấy thông tin Chiếc bình của vua Đại Vệ gây chuyện, ta biết ngay, con nhất định vẫn chưa chết.”
“Tại sao?” A Thuật tò mò hỏi.
“Bởi vì, nếu như con chết rồi, ai có thể điều khiển Chiếc bình của vua Đại Vệ được đây?” Huyền Trang nói: “Mạc Hạ Đốt sao? Ông ta là một người thô tục, nhất định không có tài trí như Chu Quý. Hơn nữa, đêm qua khi ở nơi đóng quân của Mạc Hạ Đốt, ta đã tận mắt chứng kiến uy lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ, còn mạnh hơn gấp trăm lần so với ở trong tay Chu Quý, đó càng không phải thứ mà người bình thường có thể điều khiển được.”
“Đúng vậy!” A Thuật gật đầu: “Cơ quan trong Chiếc bình của vua Đại Vệ vô cùng phức tạp, Chu Quý không hiểu, mà có thể làm được đến trình độ kia cũng là rất hiếm thấy rồi.”
“Quan trọng hơn cả là ta nghe thấy câu thân chú của Mạc Hạ Đốt.” Huyền Trang nhìn cậu, chậm rãi đọc: ‘“… Ra đi, nhi tử của ta, ta sẽ giao thế giới này cho con, để con được đi lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư’. A Thuật, con từng nói với ta việc muốn được đi lại dưới ánh mặt trời của Ba Tư rất nhiều lần rồi, đó là mong ước bấy lâu nay của con. Cho nên ta liền mạnh dạn suy đoán, khi một người và một chiếc bình cùng lăn xuống sườn núi, người biến mất rồi, mà chiếc bình vẫn còn, vậy nên, nếu người đó không chết thì nhất định là đã chui vào trong bình.”
“Thì ra, mong ước của con chính là thứ khiến cho con bị bại lộ trước sư phụ.” Trong mắt A Thuật dần dần có nước mắt chảy xuống, cậu nhìn lên mái che trên đỉnh rêu, ánh nắng xuyên thấu qua tơ lụa, xuyên vào vương trướng: “Không biết ánh mặt trời của Ba Tư có gì khác với Tây Vực không?”
“Chắc chắn là rất đẹp!” Huyền Trang nhìn lên mái che, lẩm bẩm nói: “A Thuật, hãy để ta nắm tay của con, đưa con trở lại Ba Tư nhé!”
A Thuật rơi vào trạng thái giằng xé tâm lý, biểu hiện trên mặt liên tục biến đổi, dễ nhận thấy nội tâm mâu thuẫn bất định, Huyền Trang một tay vân vê chuỗi tràng hạt, vẻ mặt tràn đầy kỳ vọng.
“Không!” Cuối cùng lại A Thuật lắc đầu: “Con nhất định phải hoàn thành sứ mệnh phụ vương giao cho con, nếu không làm sao con có thể quay trở về bên cạnh ông ấy được?”
“Sứ mệnh của con đã hoàn thành rồi!” Huyền Trang khuyên bảo: “Mặc dù con không khiến cho Đại Đường xuất binh, nhưng cũng khiến cho Tây Đột Quyết rơi vào nội loạn. Nguy cơ ở phía tây bắc của Ba Tư đã được giải trừ, kết quả là như nhau.”
“Nội loạn của bọn họ vẫn chưa đủ.” A Thuật lắc đầu: “Địa vị của Mạc Hạ Đốt hiện giờ chưa vững chắc, ngoại trừ Nê Thục, ông ta còn có một kẻ địch đáng sợ hơn rất nhiều, đó là quốc vương của Thổ Hỏa La, Đát Độ Thiết. Hắn ta là trưởng tử của Thống Diệp Hộ, trong tay lại có đại quân, một khi hắn ta biết tin về cái chết của phụ vương mình, nhất định sẽ dẫn binh đến báo thù, Đát Độ Thiết và Nê Thục liên thủ, Mạc Hạ Đốt chắc chắn bị đánh cho tan tác.”
“Đát Độ Thiết?” Huyền Trang suy nghĩ một chút, đột nhiên nhớ lại: “Có phải trưởng nữ của Khúc Văn Thái được gả cho ngài ấy?”
“Chính là hắn ta!” A Thuật nói: “Vùng Thổ Hỏa La vốn bị người Áp Đạt chiếm cứ, ba mươi năm trước, sau khi Thống Diệp Hộ tiêu diệt Áp Đạt, liền phái trưởng tử của mình đi thống trị Thổ Hỏa La. Trưởng nữ của Khúc Văn Thái, chính là Khả hạ đôn của Đát Độ Thiết[123]. Sư phụ, con nhất định phải đi giết hắn, phải khiến cho người Đột Quyết như rắn mất đầu, hoàn toàn bị chia rẽ.
“Cái gì?” Huyền Trang kinh ngạc: “A Thuật, không được! Việc này tuyệt đối không được! Khúc Văn Thái có ân đối với ta, làm sao con… làm sao con có thể giết hiền tế của ngài ấy?”
Trên người Huyền Trang vẫn còn mang bức thư tự tay Khúc Văn Thái viết cho Đát Độ Thiết, nhờ hắn ta chăm sóc Huyền Trang.
A Thuật mỉm cười nói: “Sư phụ, con rất thích người nói như vậy. Người đã đối xử với con như người thân rồi. Nhưng mà, lời hứa của con với phụ vương nhất định phải hoàn thành, đợi giết được Đát Độ Thiết, con sẽ trở lại Ba Tư. Cho dù không được làm hoàng tử nữa, có thể làm một người bình thường cũng được. Sư phụ, con nghe nói trên đời này có một gánh xiếc, vai hề ở đó rất thích dùng người lùn. Con muốn làm một chú hề, mỗi ngày đều cười vui dưới ánh mặt trời.”
“Nhưng mà…” Huyền Trang còn muốn nói nữa, A Thuật đột nhiên phất tay tạo ra một làn khói mù, khói mù lượn lờ chui vào miệng vào mũi Huyền Trang, ngài chỉ cảm thấy đầu óc choáng váng, trước mắt lập tức tối sầm, ngã lăn xuống đất, hôn mê bất tỉnh.
A Thuật ôm ngài lên, đặt trên một chiếc thảm dày, còn kê thêm một cái đệm dưới đầu ngài, để ngài nằm thoải mái một chút. A Thuật quỳ gối bên cạnh Huyền Trang, lẳng lặng ngưng mắt nhìn ngài, nước mắt chảy xuống từ khóe mắt: “Sư phụ, vĩnh biệt người, sau này khi người tới phía Tây, nếu như người muốn đến Ba Tư, người sẽ là vị khách tôn quý nhất của con. Khi đó, con nhất định sẽ hóa trang thành một chú hề, khiến cho người quên đi sầu lo, vui vẻ mỗi ngày.”
A Thuật đứng dậy, nhìn Mạc Hạ Đốt hôn mê trên mặt đất, phất tay quăng ra một làn khói mù, thấp giọng nói: “Mạc Hạ Đốt, tỉnh dậy đi!”
°°°
A Thuật dùng một thứ khói mê không biết là làm từ gì, vô cùng lợi hại. Khiến cho Huyền Trang mê man suốt mười ngày mới tỉnh lại.
Khi tỉnh lại, ngài đang ở trong lều lớn lúc đầu của mình, Khúc Trí Thịnh, Hoan Tín, Đạt Ma Chi đều ngồi chờ bên cạnh ngài. Huyền Trang khẽ lắc cái đầu còn đang mê man chưa tỉnh giấc hẳn, Khúc Trí Thịnh múc nước tới cho ngài rửa mặt, Huyền Trang mới hoảng hốt nhớ lại chuyện xảy ra trước khi hôn mê. Ngài không để ý đến ba người kia, ngơ ngác đi ra khỏi lều lớn, lúc này mới nhận ra thành Toái Diệp trống hoác, lều vải của người Đột Quyết đều đã bị dỡ đi, trên đất chỉ còn lại một đống bừa bộn. Toàn bộ thành Toái Diệp, ngoại trừ một số thương nhân thường trú ở nơi này ra thì cũng chỉ còn bọn họ.
“Sư phụ!” Khúc Trí Thịnh đi ra, thấp giọng nói: “Người Đột Quyết rời đi cả rồi!”
“Bọn họ đi đâu vậy?” Huyền Trang lẩm bẩm hỏi.
“Sau khi người hôn mê, Mạc Hạ Đốt đã đưa người trở về”, Khúc Trí Thịnh nói: “Sau đó nơi này xảy ra chiến tranh, Mạc Hạ Đốt tan tác, tháo chạy rồi.”
“Xảy ra chiến tranh?” Huyền Trang kinh ngạc: “Có chuyện gì vậy?”
Khúc Trí Thịnh kể lại chuyện xảy ra mấy ngày nay, thì ra, Nê Thục mang theo Điệt Lực chạy trốn tới bộ lạc Nỗ Thất Tất, người Nỗ Thất Tất muốn đề cử Nê Thục làm Đại hãn, Nê Thục không đồng ý, hắn nói với tộc nhân: “Ta đã ở trước mặt một người mà thề với tộc sói, bất kể Thống Diêp Hộ có đối đãi với ta như thế nào, ta cũng tuyệt đối không phản bội hắn! Mặc dù Thống Diệp Hộ hà khắc đối với ta, giờ đây ông ta chết rồi, nhưng lời hứa của ta vẫn còn, người nghe thấy lời hứa của ta cũng ở đây, Nê Thục ta, tuyệt đối không hủy bỏ lời thề của mình.”
Huyền Trang không ngờ Nê Thục lại kiêu ngạo đến độ như vậy, chỉ là lời thề khi bị Khúc Trí Thịnh uy hiếp mà cho dù Thống Diệp Hộ đã chết rồi, hắn cũng vẫn tuân theo.
Sau đó, Nê Thục đề nghị Nỗ Thất Tất Bộ đi nghênh đón Đát Độ Thiết trở về làm Đại hãn. Nê Thục nói gì, bộ lạc Nỗ Thất Tất nghe nấy, lập tức đồng ý, thế nhưng điều này lại dẫn tới sự căm ghét của Điệt Lực. Theo Điệt Lực thấy, mình là nhi tử mà phụ vương cưng chiều nhất, phụ vương nay đã chết rồi, lẽ ra người thừa kế ngai khả hãn phải là mình mới đúng, dựa vào cái gì mà phải vượt xa xôi nghìn dặm đi đón Đát Độ Thiết trở về? Chỉ bởi vì hắn ta là tử trưởng sao?
Rốt cuộc hắn ta còn quá trẻ, không hiểu được nỗi khổ tâm và mưu lược của Nê Thục. Muốn bình định phản loạn của Mạc Hạ Đốt, khiến cho Tây Đột Quyết mau chóng yên ổn, chỉ có nghênh đón Đát Độ Thiết trở về, liên thủ với hắn ta mới có thể đánh bại Mạc Hạ Đốt. Thế nhưng sự đố kỵ và tha vọng đã mê hoặc hai mắt của Điệt Lực, sau khi Nê Thục dẫn người rời đi, hắn ta liền phái tâm phúc, âm thầm mật báo với Mạc Hạ Đốt, báo kỹ càng lộ tuyến di chuyển của Nê Thục.
Mạc Hạ Đốt chớp lấy thời cơ, dẫn theo đại quân phục kích Nê Thục.
Trận đánh của Tây Đột Quyết là nhân duyên, trong liên quân của Mạc Hạ Đốt, không ít bộ lạc có quan hệ thông gia với bộ lạc Nỗ Thất Tất, lại có người lập tức mật báo cho Nê Thục. Nê Thục một khi làm thì làm cho xong, giữa đường vòng lại, nhân lúc chủ lực của Mạc Hạ Đốt không có ở thành Toái Diệp, dẫn một nghìn binh lực tập kích vương đình. Mạc Hạ Đốt không chống đỡ nổi, đại bại tháo chạy.
“Khi Nê Thục tới, ngài đang còn hôn mê”, Khúc Trí Thịnh nói với ngài: “Nê Thục hắn, nóng lòng muốn đuổi giết Mạc Hạ Đốt, liền đi trước. Nhưng trước khi đi, có để lại cho người một đội kỵ binh Đột Quyết, mệnh lệnh cho Đạt Ma Chi hộ tống người rời khỏi Đột Quyết.”
“Chiếc bình của vua Đại Vệ đâu?” Huyền Trang vội vàng hỏi.
“Con không biết.” Khúc Trí Thịnh lắc đầu: “Có lẽ đã mất tích trong loạn quân rồi!”
“Nó sẽ không mất tích”, Huyền Trang vừa nghĩ tới việc A Thuật muốn giết Đát Độ Thiết, trong lòng ngài nóng như bị lửa thiêu đốt, lập tức nói với Khúc Trí Thịnh: “Trí Thịnh, lập tức chỉnh đốn hành trang, chúng ta phải tới Thổ Hỏa La ngay.”
Đạt Ma Chi lập tức triệu tập kỵ binh Đột Quyết, chuẩn bị tất cả vật tư trên đường đi, dỡ hết lều trại, bảo vệ Huyền Trang lên đường. Hoan Tín thấy Huyền Trang trước sau không có việc gì, liền yên tâm cáo từ ngài và Khúc Trí Thịnh, đi phục mệnh Khúc Văn Thái.
Tây Vực vạn dặm, Huyền Trang tiếp tục con đường đi về phía tây của mình. Ngài biết, hành trình này, mình phải quyết định cao thấp với ma quỷ theo đúng nghĩa đen, bởi một khi A Thuật đã chui trở vào trong Chiếc bình của vua Đại Vệ, thì sức lực của người bình thường hoàn toàn không đủ khả năng để chống lại nó.
Chú Thích[120] Zurvan Akarana có nghĩa là thời không vô tận, là vị thần cổ đại theo truyền thuyết của Ba Tư. Đây là vị thần đã sinh ra thiên thần Ahura Mazda và ác thần Angra Mainyu.
[121] Ahura Mazda (còn được gọi là Ohrmazd, Ahuramazda, Hourmazd, Hormazd, Hurmuz, Aramazd và Azzandara) là vị thần đại diện cho kiến thức, sự thông thái, hài hòa. Ahura Mazda còn được gọi là thần Lửa, người tạo ra ánh sáng ban ngày và nắng ấm, tượng trưng cho trật tự và cái Thiện. Ahura Mazda được thờ phụng với tư cách là vị thần tối cao của Bái Hỏa giáo, cùng với các vị thần đầu tiên và gọi thường xuyên nhất trong các Yasna. Từ Ahura có nghĩa là ánh sáng và Mazda có nghĩa là sự khôn ngoan, như vậy Ahura Mazda là chúa tể của ánh sáng và sự khôn ngoan.
[122] Angra Mainyu, hay còn có tên là Ahriman, là vị ác thần bóng tối trong thần thoại Ba Tư. Ban đầu Ahura Mazda dự tính tạo ra xứ sở Ba Tư như một thiên đường địa giới, nhưng Angra Mainyu quấy phá, tạo nên thời tiết khắc nghiệt và khói bụi, tối tăm, bệnh tật. Thế giới của gã là thế giới chết.
[123] Cựu Đường Thư, Đột Quyết truyện thượng: “Khả hãn giả, giống như Thiền vu thời cổ, vợ gọi Khả hạ đôn, cũng giống Yên thị thời cổ.” Đát Độ Thiết chức vị là Thiết, thống trị Thổ Hỏa La, quản thúc một phương, tên đại chúng chính là tiểu khả hãn, do đó vợ của ngài có hiệu là Khả hạ đôn. (Chú thích của tác giả)