← Quay lại trang sách

Chương 2

Chúng tôi thức dậy sớm cùng những cô hầu và những chú bé chạy chợ. Dưới cầu thang, bà Gunn đã dậy từ trước đó nửa giờ để chất than vào bếp; đôi khi có thể nghe thấy tiếng động lách cách của cánh cửa mở ra sân hay tiếng bà chuyện trò với người giao sữa, nhưng ngoài ra, phía trên những mái hiên của ngôi nhà vẫn còn thiêm thiếp ngủ. Từ những con phố vọng lên tiếng la hét í ới của những tay chè chén say sưa cuối cùng từ đêm hôm trước, hoặc tiếng động của những chiếc xe cút kít và xe ngựa đầu tiên đang đi lướt qua những ô cửa sổ lặng im, nhưng những âm thanh đó dội lại qua một thế giới vẫn còn lặng thinh bất động, ít ra là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.

Rùng mình vì lạnh, tôi vội vã rời khỏi cái giường nhỏ hẹp của mình, xỏ chân vào chiếc quần dài và đôi ủng. Tôi gom mớ áo còn lại rồi cẩn thận bước xuống thang để không đánh thức ông Tyne trong căn phòng bên dưới cầu thang. Bà Gunn đang đứng trước bếp khuấy nồi cháo hoặc nói chuyện với Robert trong lúc anh mặc quần áo. Thỉnh thoảng tôi lấy trộm một khoanh bánh mì hay khen ngợi mái tóc của bà Gunn để cho bà đỏ mặt chơi; nếu tôi làm chuyện đó, cả Robert cũng tham gia trêu ghẹo bà cho tới khi bà phát vào người hai chúng tôi và múc cháo đặc ra mấy cái chén.

Chúng tôi có một giờ, hiếm khi hơn. Một giờ trước khi thầy Poll tới và công việc của một ngày bắt đầu. Nhưng tôi đã trở nên yêu mến cái thời gian ngắn ngủi lơ lửng giữa ánh bình minh và lúc khởi đầu của một ngày này. Chỉ có cháo đặc và trà, hoặc đôi khi có bánh mì và sữa, nhưng thế cũng đủ rồi, vì trong lúc đó chúng tôi chuyện trò hoặc cười vui vẻ, và cả hai thứ này đều tới một cách dễ dàng thoải mái. Khó mà nói được chúng tôi bàn luận về chuyện gì - chả có gì quan trọng, tôi chắc thế - công việc trong nhà và những người hàng xóm, những chuyện ngồi lê đôi mách ngoài khu chợ. Đôi khi bà Gunn, người có thói quen gắn bó với những bệnh nhân đã gặp hoặc những người mà bà biết tên qua tiếp xúc với họ, nói về những linh hồn tội nghiệp đó như thể họ là những bạn bè thân thuộc, đưa ra những lời khuyên răn giáo huấn về hạnh phúc của họ, một thói quen thường khiến tôi và Robert cười chảy cả nước mắt. Nhưng chúng tôi không hề nói gì về công việc chiếm trọn ngày đêm của mình, việc mổ xẻ và khảo sát những xác chết, không phải ở đây, không phải lúc này, vì trong thời gian này chúng tôi lại trở thành những gã đàn ông, như bất kỳ gã đàn ông nào khác, và chúng tôi hài lòng về điều đó.

Đã ba tháng kể từ hôm tôi tới đây, thực tập nghề cạnh thầy tôi để học hỏi từ ông. Vào cái đêm đầu tiên đó, bầu trời trên đầu đỏ ửng như lửa. Hoặc máu. Robert đón tôi ở sân nhà thờ Bell, nơi những cỗ xe ngựa khạc những hành khách của nó vào thành phố ồn ào náo nhiệt. Tôi nhận ra anh nhờ bộ com lê, cũng đen như bộ com lê của tôi, mới cắt may xong cho cuộc sống trước mặt tôi.

— Anh là cộng sự của ông Poll thầy tôi phải không?’ - Tôi hỏi. Robert cười phá lên và lắc đầu.

— Không, đó là Charles - Anh nói - Tôi chỉ là một học viên, giống như anh.

Quẳng cái túi xách của tôi lên vai, anh dẫn tôi bước vào những con đường thành phố. Kể từ đó tôi ngày càng biết rõ về những con đường lớn và những hẻm hóc của nó, nhưng với tôi đêm hôm ấy, dường như nó là một vùng nước xoáy, một mê cung rối rắm đầy những mảnh sân và những hành lang, những ô cửa sổ chất đống thịt, bánh mì và trang phục phụ nữ, những ngọn đèn khí đốt kêu rít lên trên đầu đám đông đang di động. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một nơi như thế, có quá nhiều gương mặt, nhiều thân hình chen chúc cạnh nhau, và dù chúng tôi trò chuyện trong lúc đang đi, tôi không nhớ được chúng tôi đã nói gì với nhau mà chỉ nhớ cái cách tiếng ồn ào của thành phố khuấy động lòng tôi.

Trời tối trước khi chúng tôi về tới nhà, đêm đen quánh lại. Robert mở cửa và dẫn tôi lên căn phòng sẽ thuộc về tôi. Đặt cái túi xuống sàn, anh quan sát trong lúc tôi bước tới cửa sổ, nhìn ra những mái nhà bên ngoài. Và khi tôi quay sang, anh lại mỉm cười.

— Đi nào - Anh nói - Chúng ta sẽ xem coi bà Gunn có còn thức hay không. Anh đã đi một chặng đường xa và sẽ thấy đói.

*** — Nhưng linh hồn thì sao? - Marshall hỏi, giọng anh ta vang lên chen vào giọng của thầy Poll.

Thầy Poll dừng tay, ngẩng lên khỏi cái xác.

— Xin lỗi, cậu có một câu hỏi phải không?

— Em hỏi rằng linh hồn thì sao ạ - Marshall đáp, lần này không dứt khoát lắm.

Thầy Poll nhìn anh ta chằm chặp, để mặc cho thời gian quý báu của ông trôi qua. Charles đã đặt con dao mổ của mình xuống.

— À, phải, linh hồn - Thầy Poll nói. Với một cái nhìn nghiêng, ông quan sát đám khán giả của mình - Vậy cậu nghĩ là cái linh hồn này sẽ ngự trị ở chỗ nào? Ở đây hả? - Ông hỏi, đưa một ngón tay khỏ lên quả tim đã bị cắt đôi. Rồi ông hướng đôi mắt xanh nhạt vào Marshall.

— Không à? Vậy có lẽ là ở đây? - Ông đề xuất, xúc mớ óc lên khỏi cái dĩa. Từ sau lưng Marshall vang lên tiếng cười khẩy: Hilbert, tôi nghĩ, một anh chàng nóng nảy, nhưng rất khéo tay khi cầm dao mổ. Từ chỗ của mình, thầy Poll đo lường sức nặng của mớ óc trên tay mình, mắt vẫn không rời khỏi Marshall.

— Không ngờ gì rằng có một tuyến nội tiết ở đâu đó, một thứ bạch huyết màu mỡ hoặc thứ gì đó đại loại có trong tâm trí cậu. Nói cho cùng, không phải vào những thời kỳ mông muội hơn người ta đã bảo rằng trong sọ của lũ cóc có ngọc đó hay sao?

Marshall nhìn quanh, đỏ mặt, có lẽ hy vọng nhận được sự ủng hộ nào đó từ các bạn của mình.

— Tôi cầu khẩn cậu, Marshall, nếu cậu biết cái tuyến đó có thể nằm ở đâu, đừng ngại thông báo cho chúng tôi biết với.

Lúc này có tiếng cười lặng lẽ. Marshall nghếch cằm lên đầy thách thức.

— Em không thể nói.

— Không - Thầy Poll nói - Tôi e là cậu không thể.

Cuối cùng, tiếng cười rộ vang lên, không chút kềm chế và đầy vẻ khinh bỉ. Thầy Poll nghiêng đầu đáp lại sự tán thưởng này, rồi biết rằng tốt hơn nên để cho màn kịch này tự diễn tiến, ông giơ một tay lên ra dấu im lặng. Tiếng cười gần như nín bặt ngay, nhường cho một sự lặng im khó chịu. Thầy Poll đặt mớ óc xuống, chùi tay vào tấm tạp dề, rồi giơ một cái lọ nhỏ lên với cung cách của một ông bầu sân khấu.

— Nhìn này - Ông nói - Tôi đang cầm trong tay một ao-xơ mạt sắt - Tiếp đó ông cầm lấy cuốn sổ tay và đặt nó xuống nơi mọi sinh viên đều có thể trông thấy.

— Trút hết mớ này lên một mảnh giấy như thế này thì chúng sẽ trơ ra, sự sắp xếp của chúng quyết định bởi một loạt cơ hội ngẫu nhiên. Vật lý, các cậu ạ, không hơn không kém.

— Nhưng nếu đưa một cục nam châm tới gần, chúng ta có thể quan sát thấy một điều khác hẳn - Ông nói tiếp, rút ra một que kim loại nhỏ từ trong một ngăn kéo của cái tủ cạnh tường và đặt nó lên trên mảnh giấy. Với một chuyển động đột ngột, những vụn mạt sắt trượt đi, tạo thành những đường lực quanh hai cực của nam châm.

— Không nhìn thấy một lực tác động nào, không có sự va chạm giữa các nguyên tử, thế mà những mạt sắt di chuyển. Nhưng vì sao?

— Từ tính! - Một trong số các sinh viên từ phía sau nói to.

— Khả năng chẩn đoán của cậu vẫn xuất sắc như thường lệ, Dawson - Thầy Poll đáp, quay lại với cái xác trên bàn.

— Hãy suy nghĩ, các cậu, người đàn ông nằm trước mặt các cậu đây, trước kia từng… - Ông dừng lời, nhìn xuống thân hình. Dưới ánh sáng của chiếc đèn dầu treo trên đầu, lớp da đã bắt đầu có vệt lốm đốm, như thể những vết bầm đang mờ đi nằm chìm bên dưới lớp da.

— …Có lẽ không thật sự rất gần đây như chúng ta mong muốn, ông ta đã từng sống. Tim ông ta đập, máu lưu thông trong huyết quản, thân thể ông ta bị tàn phá bởi những thèm thuồng xác thịt và cao cả. Thế nhưng giờ đây ông ta một lần nữa giống như đất sét, cử động của quả tim và dòng máu ngưng lại, thân thể ông ta giá lạnh. Cái vỏ xác thịt này bắt đầu hư hoại, chỉ một tuần nữa là nó sẽ bốc mùi, một hoặc hai năm nữa, chỉ còn hai hàm răng và những chiếc xương. Sao lại thế được, các cậu hỏi, cái gì đã đổi thay? Sức mạnh nào trước kia từng ngăn giữ sự hủy hoại không thể tránh khỏi này và giờ đã thất bại, nguồn điện tích tụ nào đã tan biến mất?

— Linh hồn của ông ta? - Hilbert châm biếm, và dù một nụ cười thoáng qua trên gương mặt của thầy tôi, những người khác không hề cất tiếng cười.

— Hãy nhìn chăm chú vào những vụn mạt sắt này, và quan sát hình ảnh mà nó tạo nên. Dù trước đó là trơ, giờ đây chúng có cả năng lượng lẫn hình dáng. Thế nhưng chúng ta không cần viện tới sự dối trá của các vị giáo sĩ để thấu hiểu nguyên nhân của điều này.

Ông dừng lại, nhìn chòng chọc khắp căn phòng im lặng. Không ai nhúc nhích hay cất tiếng; họ là của ông.

— Chúng ta là những người làm khoa học, các cậu ạ, những sinh viên khoa tự nhiên. Mục đích của chúng ta là xé toang bức màn mê tín, chọc thủng chính lớp xơ của cơ thể sống của chúng ta và làm sáng tỏ sức mạnh mang lại sinh khí cho những cái vỏ mà chúng ta gọi là thân thể này. Và chúng ta sẽ tìm ra nó tại đây, trong lớp thịt giá lạnh này. Với những lớp mô này chúng ta sẽ nhận biết hình bóng của nguồn lực điều khiển mạch điện bên trong, khiến cho quả tim ông ta phập phồng và đập. Cứ gọi nó là linh hồn nếu các cậu muốn, nhưng tôi hứa với các cậu rằng nó sẽ chứng minh rằng không có gì là bí ẩn ngoài sức mạnh của nam châm đã lái những mạt sắt này theo ý nó.

*** Khi bài giảng kết thúc, các sinh viên rời khỏi nhà và kéo ra phố. Bên ngoài, buổi xế trưa đã trôi qua trong lúc chúng tôi làm việc, và bầu trời trên đầu đã nhạt đi. Tôi không biết Marshall có quay lại hay chăng: một đồng vàng mỗi buổi học là cái giá khá đắt khi bị coi là đồ ngốc nghếch. Nhưng nếu không, cũng sẽ có những kẻ khác thế chỗ anh ta, vì dù ở London có nhiều giảng sư về khoa phẫu thuật, không ai qua nổi thầy tôi về phẩm chất trí tuệ. Dù công trình lớn sẽ đặt nền móng cho danh tiếng lâu bền của ông vẫn chưa được hoàn thành và ông không còn trẻ nữa, ông vẫn giữ một vai trò không ai thay thế được. Với Charles bên cạnh, ông rất nhanh nhẹn, nhẫn tâm, một kẻ toàn tâm trong nghệ thuật của mình, với một trí thông minh sắc sảo không kém gì lưỡi dao của ông.

Thế nhưng đặt lòng tin vào ông không phải là chuyện dễ dàng. Dù có tài, ông hay mắng nhiếc những ai ngưỡng mộ ông. Con trai của một người chủ cối xay, được gửi tới London để trở thành một viên thư ký, ông đã tìm cách trở thành một nhà phẫu thuật - một kẻ mà muốn được ông ta phục vụ thì phải chi một khoản tiền chỉ thua kém khoản chi cho ngài Astley[1] ở Bệnh viện Guy’s; kẻ từng mổ cho các vị công tước và bá tước. Một con người không tìm cách che giấu nguồn gốc của mình, ngay cả trong giọng nói, mà trái lại còn phô trương chúng như một sự trêu ngươi, kẻ sở hữu một cỗ xe ngựa và một ngôi nhà xinh đẹp trên Quảng trường Cavendith và có một cô con gái sẽ trở thành niềm tự hào cho bất kỳ gã đàn ông nào, nếu như cô nàng chưa bị Charles de Mandeville tán tỉnh.

Chắc chắn là có nhiều người lấy làm sỉ nhục vì những điều như thế, nhưng tôi nghĩ đó không phải là điều duy nhất khiến bọn sinh viên chúng tôi cảm thấy khó chịu với ông. Bởi dù với tư cách là một nhà phẫu thuật và mổ xẻ xác người nên có ít bạn hữu, những thành tựu thật sự của thầy Poll ngày càng lớn lao, sâu sắc hơn. Ông làm việc từ sớm mai tới tận đêm khuya, năng lượng không ngừng nghỉ của ông phủ đầy ngôi nhà, dường như sự hiếu kỳ của ông giống hơn với một nỗi khát khao, một sự thèm khát quái dị không bao giờ thỏa mãn, luôn thăm dò khám phá sâu hơn để tìm kiếm sự thấu hiểu không chỉ về các cấu trúc cơ thể mà ngay cả chính bản chất cuộc sống.

Vì nguyên do này, ông đã mổ xẻ tất cả mọi loài sinh vật - quạ và ngựa, cá và khỉ nhân hình, côn trùng, các loài rắn, thậm chí có lần cả một con hà mã thuộc một đoàn xiếc thú ở Chelsea - để tìm kiếm điều bí ẩn đã ràng buộc cuộc sống của chúng trong cái lồng xác thịt. Tôi cũng từng trông thấy những cuộc thí nghiệm, những điều lạ lùng và kinh khủng: một cái răng nhổ sống từ mồm của một cô gái điếm đã mọc rễ và phát triển trong một cái mào gà trống. Xác một con sa giông được làm cho sống lại trong khoảnh khắc bởi một ứng dụng điện. Một cái tử cung giả, may từ bong bóng ngựa trong đó đựng một một bào thai cừu đầy máu me vẫn còn nhúc nhích bơi, vùng vẫy như thể nó đang chết đuối trong bầu không khí, trước khi trở nên bất động và chết hẳn. Trong công việc ở đây, chúng tôi còn tìm kiếm các thứ kỳ quái và biến dạng, những sinh vật khác thường mà nguyên bản của Tự nhiên trong bản thân chúng đã bị đọc sai, vì thầy tôi nghĩ, trong tấm gương méo mó chưa hoàn chỉnh của chúng, chúng tôi có thể tìm thấy hình ảnh hoàn hảo của mình.

Chúng tôi không chỉ nghiên cứu những xác chết. Tôi từng nhìn thấy Tyne bắt lũ mèo ra khỏi mấy cái bẫy do chính anh ta tự tay làm, và nhiều lần đưa những người đàn ông đàn bà tới đây, được thuê với giá một đồng florin từ những quán rượu ở khu St. Giles để làm mẫu cho một thứ thuốc này khác, và các phản ứng của họ được đo lường và ghi chép lại. Một tuần sau khi tới đây, với một cục thịt, tôi đã dụ một con chó vào nhà để thầy Poll và Charles có thể mổ lồng ngực của nó, và trái tim còn sống của nó cứ giãy lên như một con cá dưới bàn tay thăm dò của chúng tôi.

Khi ngọn đèn bên ngoài được thắp lên, số sinh viên còn lại cũng rời nhà đi dọc xuống phố, chắc chắn là tới một quán rượu nào đó, nơi họ sẽ nhậu nhẹt, nói cười và thư giãn. Tôi quay trở lại bàn, nhìn xuống cái xác đã mổ banh ra. Dọn dẹp những cái xác là một công việc rối rắm, và tôi có bổn phận phải bảo đảm rằng trong phòng không còn chút dấu vết gì. Ngoài cái chậu chứa quả tim đã bị cắt đôi để lộ lớp mỡ bên trong, quyển sổ mà thầy Poll đã dùng để chứng minh vẫn còn nằm ngay tại chỗ nó bị bỏ lại khi nãy. Những lời đầy kịch tính của ông đã khiến tôi rối trí. Tôi nghĩ: cái thuyết vô thần của ông thật là đáng sợ; khi gạt bỏ mọi niềm tin không thể đo lường được, khi gạt ra sau lưng những cấu trúc của cái mà thế giới gọi là đạo đức. Tôi cầm thỏi nam châm lên và đo sức nặng của nó trong lòng bàn tay. Ngọn đèn trên đầu kêu rì rì lặng lẽ, một thứ âm thanh đều đều gần giống tiếng mưa rơi. Trên mảnh giấy, những vụn mạt sắt vẫn còn ghi dấu hình bóng sự hiện diện của thỏi nam châm; tôi thò tay quẹt qua mảnh giấy. Những mạt sắt kêu lách tách, một âm thanh giống như những chiếc lá khô, những đường sóng bị phá vỡ khi bàn tay lướt qua, những vòng xoắn thanh tú đã bị xóa đi. Không có thỏi nam châm, những vụn mạt sắt không di chuyển để tái tạo lại mô hình mà nằm trơ ra không phản ứng trên mảnh giấy. Chúng là những thứ mong manh, cuộc sống của chúng ta; có được một cách rẻ rúng, mất đi một cách rẻ rúng, chỉ đơn giản sáng chập chờn giữa bóng tối muôn năm, những hình bóng ngắn ngủi trên một bức tường. Cuộc sống này không còn nữa hơi thở vật chất, một thứ ánh sáng phủ đầy các gian phòng của thân thể chúng ta, và đã mất đi.