← Quay lại trang sách

Chương 3

Tôi vẫn còn thức khi trời đã khá khuya trong cái đêm đầu tiên đó, sức nóng mùa hè thoạt tiên nhường chỗ cho tiếng sấm, rồi cơn mưa. Tôi cảm thấy từ phía trên cao trong phòng mình màn đêm đang di động, cơ thể tôi thao thức bồn chồn trong bóng tối. Ở phía ngoài, những cái đồng hồ gõ mười hai tiếng, rồi một tiếng.

Rồi đột nhiên tôi bừng thức giấc. Trên đầu là một cái mạng nhện đong đưa ló thụt khi nó di động theo cơn gió; mưa vẫn còn gõ nhịp trên mái nhà.

Tôi đã nằm mơ, dù tôi không biết là mơ thấy điều gì.

Thoạt đầu tôi không nhúc nhích, không chắc cái gì đã đánh thức tôi. Rồi có tiếng gõ cửa, tôi nhận biết ngay lập tức tiếng gõ thứ hai, lớn hơn và dứt khoát hơn. Tôi sờ soạng tìm đôi ủng trong bóng tối, rồi dò dẫm đi về phía cánh cửa.

Sảnh đường bên ngoài vắng lặng, chuyển động của tôi nghe mồn một trong bầu không gian xa lạ. Quanh tôi mọi vật đều lặng im bất động. Tiếng gõ lại vang lên khi tôi xuống cầu thang, khiến tôi giật nảy người.

Kéo tấm lưới sắt sang bên, tôi nhìn ra ngoài. Một gương mặt xuất hiện, áp sát tới mức tôi có thể ngửi thấy mùi rượu gin ngòn ngọt trong hơi thở của hắn ta.

— Cậu có một đêm nghỉ ngơi thật là tuyệt - Một giọng nói cất lên, với chất giọng Ái Nhĩ Lan trầm. Tôi lùi lại theo bản năng.

— Anh là ai - Tôi hỏi, giữ cho giọng mình trầm xuống. Rồi trong khoảnh khắc tôi cảm thấy hắn đang quan sát tôi. Khi cất tiếng trở lại, giọng hắn rắn rỏi hơn.

— Đừng ngốc thế - Hắn nói - Cứ mở cửa ra.

— Không, nếu ông không xưng tên - Tôi khăng khăng.

— Báo là Tyne, hoặc thực tập sinh, họ sẽ biết.

Tôi ngần ngừ, nhưng lúc đó tôi nghe thấy tiếng chân sau lưng và khi quay sang, tôi thấy Robert đứng đó, tay cầm một cây đèn dầu.

— Không, Gabriel - Anh nói - Cứ làm theo lời anh ta.

Chủ nhân của giọng nói nhỏ thó và nhẹ cân; sau lưng hắn là một cỗ xe ngựa. Hình dáng của nó nổi lên trong màn mưa, một bóng người khác đang ôm đầu con ngựa sát vào ngực mình. Thế rồi Tyne tới sát cạnh tôi, giọng nói sắc nhọn nhói vào tai tôi.

— Tới giúp họ đi; đã có khá đủ tiếng ồn ào rồi.

Tôi né ra khỏi hắn, bước vào màn mưa. Trên lối đi, Tyne quan sát, cặp mắt lướt dọc hết chiều dài con phố đang thiếp ngủ. Thấy tôi nhìn lại, hắn mỉm cười, có vẻ khoái trá vì sự bực dọc của tôi.

Mưa rơi như trút nước, những sợi mưa lạnh giá đập vào mặt và má chúng tôi. Trong cỗ xe, gã người Ái Nhĩ Lan đang nhấc vật gì đó có hình dáng một bó to ra khỏi đống rơm, lẳng nó về phía tôi, thế rồi nó yên vị trên vai tôi, nặng hơn là tôi mong đợi, những sợi dây buộc ẩm ướt và dày, sặc sụa mùi đất. Tôi loạng choạng, cảm thấy sức nặng bên trong bắt đầu chuyển động, một chuyển động chùng đi, như thể nó là đất, hoặc những hòn đá, nước lạnh chảy ròng ròng xuống từ trong bao xuống cổ tôi. Và như thể tôi hiểu tôi đang vác vật gì, cú sốc khiến tôi trượt chân trên lớp đá sỏi nhờn dầu. Nhưng khi đó Tyne đã bước tới đỡ tôi.

— Lạy Chúa Jesus lòng lành, cậu bé - Hắn rít lên, nắm chặt cánh tay tôi và kéo tôi đứng thẳng lên - Cậu sẽ sừng sộ với chúng tôi nữa chứ?

Tên của họ là Caley và Walker. Trong bóng tối, người ta có thể tưởng lầm Caley là một cậu bé mười lăm tuổi, hắn rất nhỏ thó. Nhưng dưới ánh đèn trong tầng hầm, rõ ràng hắn cũng trạc tuổi của tôi hoặc Robert, sự nhỏ thó của hắn không phải do tuổi trẻ mà do nghèo khổ - dù hắn có đôi môi xinh xắn và một gương mặt rất dễ nhìn, ở hắn có một cái gì đó trẻ con, non nớt và tàn ác, một sự lấc cấc trong cách di chuyển khiến tôi thấy khó chịu khi ở gần hắn.

Khi họ đã đi, chúng tôi lôi những thân hình mà họ mang đến ra khỏi bao, bắt đầu lau rửa. Trong lúc làm việc, tôi nghĩ lẽ ra việc này sẽ khiến tôi bỏ cuộc, nhưng không.Tôi cũng không e sợ. Ngược lại, tôi quan sát đôi tay của mình di chuyển trên làn da của họ như thể chúng không phải là của chính tôi, như thể tôi đã lìa khỏi bản thân, tách ra khỏi cơ thể của mình.

*** Đêm đó tôi không ngủ lại được, hình ảnh của những gương mặt và thân thể đó tự động hiện lên trong tâm trí. Trên những ngón tay tôi, mùi dấm vẫn còn phảng phất, và tôi có thể cảm thấy trên đôi cánh tay và cổ của mình ký ức về sự va chạm với những thân hình. Tôi ngồi dậy cùng với tia sáng đầu tiên, lê người khỏi giường, đi xuống sân. Ở đó, tôi mở vòi bồn nước, quan sát dòng nước chảy vọt xuống những phiến đá. Tôi chậm rãi xăn tay áo lên, thoa xà bông, nhưng rồi vẫn thấy vướng víu nên rốt cuộc tôi cởi phăng cái áo ra rồi nghiêng người tới trước, để dòng nước chảy tràn qua mái tóc xuống lưng, biết rằng dù có làm như thế tôi cũng không thể tẩy sạch được sự hiện diện của họ trên da thịt mình.

Cha tôi mất khi tôi mười hai tuổi. Chúng tôi tìm thấy ông cách nhà nửa dặm, nằm co quắp dưới một hốc tường thấp. Gương mặt ông hướng về phía những phiến đá tối tăm, quay lưng khỏi thế gian, tuyết phủ đầy nửa phần thân thể của ông. Bầu trời trên đầu mong manh như một quả trứng.

Chính Tobias, hàng xóm của chúng tôi, là người đầu tiên nhận ra ông đã ra đi. Tháng giêng, năm mới hầu như đã bắt đầu. Từ chỗ đang ngồi bên trong cửa sổ nhà bếp, tôi thấy Tobias đi tới. Khi trèo lên thang, ông nhìn chằm chặp về phía trước, giữ cho đầu mình thật cứng và thẳng; chỉ xoay chuyển lần cuối khi có vẻ như ông ngẩng lên, đôi mắt lướt qua mảnh sân đổ nát, chiếc xe độc mã vỡ toang và những đồ đạc bỏ đi.

Tôi đã mở sẵn cửa trước khi ông gõ cửa, và ông nhìn xéo qua tôi vào gian phòng trống.

— Ông ấy đã đi bao lâu rồi? - Ông hỏi. Tôi cắn môi. Vì trong chừng mực tôi còn nhớ, tôi đã bị cấm không được nói cho bất kỳ người khách nào có thể sẽ tới chỗ ba tôi để quấy rầy ông.

— Ba ngày - Cuối cùng tôi đáp. Tobias gật đầu, nhìn lướt tôi, không còn ngờ gì đang tự hỏi ông có nên mang theo một đứa bé đói gần chết đi bộ suốt cả giờ vào thị trấn hay không.

— Con chó của ông ấy hả?

Như thể biết rằng chúng tôi đang nói về nó, nó áp mũi vào bàn tay tôi.

— Mang nó theo - Ông nói.

Dù trận bão tuyết đã qua, để lại một bầu trời trống rỗng và quang đãng, không khí bên ngoài thật lạnh lẽo, hơi thở của chúng tôi tỏa lên thành từng cụm. Tobias không nói năng gì khi chúng tôi đi ra lộ lớn, vì thế tôi hầu như ý thức được sự im lặng đang vây bủa chúng tôi, những tiếng kêu cô lẻ của lũ quạ vọng lại từ dãy đồi trống vắng.

Khi chúng tôi tới khúc quanh của con đường, nơi có thể nhìn thấy thị trấn, con chó ngóc đầu lên, dỏng cao hai tai và vẫy đuôi, như nó vẫn thường làm mỗi lần ba tôi về tới nhà. Tobias liếc nhìn nó, có lẽ đang nghĩ tới việc bảo tôi ôm nó lại, nhưng nó quá lanh lẹ. Nó phóng về trước chừng một trăm mét, cuối cùng dừng lại trước một đống tuyết thấp cạnh bức tường. Nó ngần ngừ vài giây, cất tiếng kêu ư ử, ai oán và bối rối, rồi nó ngẩng đầu lên và sủa hai tiếng. Tobias đặt tay lên vai tôi.

— Đợi ở đây - Ông nói, và vẫn không thay đổi nhịp bước, ông tiếp tục đi tới chỗ con chó đang đứng cào chân lên mặt tuyết. Tôi quan sát khi ông dừng lại và quỳ xuống. Từ chóp của đống tuyết có thể nhìn thấy một hình dáng sẫm màu; Tobias đưa một tay ra chạm vào nó, rồi ông đứng lên và quay sang tôi.

Trên thân hình của ba tôi không có một dấu hiệu nào của bạo lực. Thật ra gương mặt của ông, xanh xao và bị băng tuyết viền quanh, hầu như có vẻ an bình. Có thể ông đột nhiên bị một cơn đau tim hay đau đầu tấn công, nhưng có khả năng nhiều nhất là ông đã thấm mệt và rối trí trong màn tuyết đang rơi, chếnh choáng vì rượu và cái lạnh nên đã quyết định nghỉ chân một lát. Ngoại trừ chỗ con chó đang cào bới và đánh hơi trên lớp da thịt lạnh cóng của ông như thể nó có thể sưởi ấm và mang ông quay lại cuộc sống, lớp tuyết vẫn còn nguyên vẹn, chỉ bị phá vỡ bởi một đường dài những vết chân chim, băng ngang con đường cho tới chỗ ông, rồi ngoặt sang một phía và kết thúc, con chim lại một lần nữa cất cánh, biến vào bầu trời và không khí.

Tôi nhớ về ba tôi như là một sức mạnh bồn chồn, không thể lường trước, một người đàn ông sở hữu một vẻ quyến rũ bất cẩn và một nhiệt tâm to lớn cũng như những cơn giận dữ bất lực và những thoáng nản lòng. Ông chưa bao giờ hung bạo đối với tôi, cũng chưa bao giờ cố tình làm tổn thương tôi, chỉ đơn giản là ông đã sống phụ thuộc quá nhiều vào bản tính của mình. Thật sự, với ông hình như tôi rất hiếm khi tồn tại, thế rồi, như thể sực nhớ tới tôi, ông tìm cách áp đặt lên tôi một sự thân mật mà chúng tôi không chia sẻ cho nhau. Giá như ông sống thêm vài năm nữa, hẳn tôi có thể nhìn thấy ở ông điều mà giờ đây tôi đoán về ông: một con người ưa thích cờ bạc và chè chén say sưa, khốn khổ ở một nơi thẳm sâu nào đó của tâm hồn, do một tổn hại đã xảy đến với ông từ lâu trước đó hoặc do khuynh hướng tự nhiên, và sở hữu tính khí của một tay cờ bạc, với những dao động điên rồ và khả năng tự lừa dối bản thân. Thế nhưng với tôi ông chỉ đơn giản là ba tôi, một con người mà tôi ao ước được gần gũi nhưng đã hiểu được qua kinh nghiệm là không thể tin cậy được.

Ngay cả ở khoảng cách xa này tôi vẫn có thể nhìn thấy một điều gì đó ở ba tôi khi ông còn trẻ. Đẹp trai, quyến rũ, tràn trề năng lượng điên rồ và một ý thức về khả năng của chính mình. Ông nội tôi làm quản lý cho một trang trại, thế nhưng chính ông trại chủ mới là người đã chú ý tới ba tôi và nhìn thấy ở ông một tương lai, rằng đôi mắt tròn của ông hiền dịu thế nên ông có thể tìm được một chỗ đứng trong thế giới này. Ông có một thân hình đẹp, tôi chắc thế, vì ông ngồi trên lưng ngựa như một kỵ sĩ bẩm sinh, và ngay cả lúc gần qua đời, khi ánh nhìn đã mờ đục và áo quần rách rưới, ông vẫn có thể quyến rũ một nàng hầu hay một phu nhân đi ngang qua với một cử chỉ hào hoa nào đó.

Tâm hồn thấm đẫm rượu gin và niềm tiếc nuối, đôi khi ông nói về những năm tháng đầu đời ấy, không phải với sự cay đắng mà tôi mong đợi, mà với một tình cảm hầu như yêu mến. Bị từ bỏ khi ông chạy trốn cùng với con gái của vị ân nhân, rồi bỏ lại một góa phụ cùng một đứa bé chỉ vừa tròn sáu tháng, chẳng bao lâu ông đã tìm thấy những cung cách và sự quyến rũ đã giúp ông duy trì cuộc sống túng quẫn dưới gánh nặng của tính ham mê cờ bạc, và thế là cú trượt dốc dài, chậm chạp trong cuộc sống chung của chúng tôi đã bắt đầu. Từ London tới Bath, từ Bath tới Liverpool, từ Liverpoll tới York và cuối cùng tới con đường nơi ông bỏ mạng, trên dãy đồi cao bên trên thành phố, chỉ cách thị trấn nơi ông chào đời vài dặm.

Tôi cùng con chó ngồi chờ bên cạnh xác ba tôi trong lúc Tobias đi thêm khoảng một dặm vào thị trấn. Ngày thật yên tĩnh, và khắp chung quanh tuyết lấp lánh trong ánh nắng. Tôi nhớ đã nhìn xuống xác ông, nhìn sự hiện diện vô tri vô giác của thi thể lặng câm. Không còn ngờ gì nữa, nó đến như một cú sốc, nhưng tôi không nhớ là đã cảm thấy ngạc nhiên hay ngay cả đau khổ, chỉ là một dạng trì trệ nào đó, như thể phát hiện này bằng cách nào đó đã luôn luôn chờ tôi ở đây, vào khoảnh khắc này. Đây là cách thức của trần gian, tôi nhớ đã nghĩ thế, một nơi của sự vắng mặt và những cuộc ra đi.

Vào hôm tang lễ, Tobias cùng tôi đi bộ vào thị trấn. Ông là một người theo Hội Giám lý, như nhiều người khác ở mấy vùng này, thế nên ông sẽ không tới chỗ huyệt mộ với tôi, nhưng ông đứng khá gần, đủ để cho tôi nhìn thấy, hai tay ông đặt chéo trước ngực, cầm chiếc mũ. Tôi chắc rằng ba tôi sẽ thích được nhớ tới như là một con người được nhiều người yêu mến, thế nhưng chuyến đi của ông ngày hôm đó được ghi dấu lại do chính con trai của ông, vị linh mục và hai người đàn ông chẳng bao giờ nhìn thấy lại số tiền mà họ đã cho ông mượn.

Khi cuộc lễ kết thúc, vị linh mục kéo tôi sang một bên. Ông là một người nhỏ thó, đang trở nên béo phì, và dù tôi không biết ông, tôi đã nghe từ lũ nhóc trong thị trấn rằng ông có một đứa con trai đã chết vì bệnh sốt vào mùa hè năm ngoái, một đứa trẻ ốm yếu chưa bao giờ khỏe khoắn.

— Tobias bảo cậu biết đọc - Ông nói.

Tôi không đáp, chỉ đứng yên.

— Tôi cần có một chàng trai trẻ trong lớp học - Ông nói - Để giúp tôi dạy học.

Thỉnh thoảng tôi tự hỏi điều gì sẽ xảy đến với tôi nếu hôm đó ông chẳng nói gì. Có lẽ là viện cô nhi, có lẽ là một nông trại nào đó nếu như tôi may mắn. Nhưng không, tôi cùng ăn với ông trong ngôi nhà linh mục, và theo học trong ngôi trường mà ông làm chủ. Nhưng dù ông đối đãi với tôi như với con ruột của mình, tôi không thấy yêu mến ông, chỉ một trạng thái hững hờ, như thể một phần cốt lõi nào đó trong tôi đã chết đi vào hôm đó.