← Quay lại trang sách

Chương 10

Sau đó một tuần tôi mới tới chỗ nàng. Dù buổi trưa đã trôi qua, những tấm màn vẫn buông xuống. Tiếng gõ của tôi xuyên qua lớp cửa, và chẳng bao lâu một cô hầu nét mặt vàng bủng mở cửa ra. Cô ta lạnh lùng nhìn tôi khi tôi xưng tên và công việc. Dù cô ta chỉ hơn một đứa trẻ chút xíu, trong ánh mắt của cô ta có một sự sỗ sàng đáng ngại. Có lẽ với một người đàn ông khác, nó có vẻ như một lời mời mọc, nhưng với tôi dường như nó có cái gì đó gần với một vết thâm, vì tôi từng nhìn thấy vẻ mặt này quá nhiều lần trên những con đường thành phố, và biết nó là vẻ mặt của những cô gái trở thành phụ nữ trước tuổi và ghét bỏ trần gian chính vì điều đó.

Sau khi đề nghị tôi đứng chờ trong phòng khách, cô ta biến mất trên cầu thang. Tôi thấy bồn chồn, lo lắng, và khi Arabella bước vào, tôi giật mình. Cả nàng cũng dừng lại khi nhìn thấy tôi, mắt nàng chạm mắt tôi với cái vẻ dễ tổn thương mà tôi từng thoáng thấy ở nàng mỗi lần chúng tôi nói chuyện, thế rồi nàng trấn tĩnh lại và chìa tay cho tôi nắm.

— Anh Swift, anh tới bất ngờ quá.

— Tôi không định làm phiền cô… nếu cô muốn tôi về…”

— Không - Nàng nói, rồi như thể bối rối vì sự khẩn thiết trong lời đáp của mình, nàng chỉnh lại - Hãy ở lại, tôi sẽ bảo Mary mang trà ra. Hay anh thích rượu hơn?

— Trà - Tôi đáp, và nàng gật đầu, kéo cô hầu lại gần để đưa ra vài chỉ thị. Vươn thẳng người, Mary nhìn tôi với ánh mắt vừa khinh thường vừa cảnh giác, rồi đi vào.

— Tôi xin lỗi vì đã xâm phạm.

— Đừng xin lỗi nữa - Nàng nói. Sự cộc lốc của câu này khiến tôi choáng váng, và mọi ngôn từ đều bay biến, tôi ước gì tôi đừng tới.

Nàng ngồi xuống, vuốt phẳng lại váy. Chúng tôi cứ như thế trong nhiều giây, rồi đột ngột cả hai cùng bắt đầu nói, nàng hỏi tôi đã đi đâu mấy tuần qua, tôi thì hỏi thăm về những vở kịch mà nàng diễn. Tôi ngưng lại, đề nghị nàng nói tiếp, và nàng cũng làm điều tương tự, cả hai chúng tôi cướp lời nhau trước khi lại rơi vào im lặng thêm lần nữa, sự lúng túng này giữa chúng tôi chế ngự mọi thứ.

Và tình cảnh của chúng tôi đang là thế khi Amy hối hả đi vào. Không như Arabella, dường như cô ta khiến cho giây phút này sôi động hẳn lên, những lọn tóc xoăn buông xõa và rối tung, tạo ra một vẻ trẻ thơ và dễ chịu lạ lùng. Nét mặt cô ta ngập tràn niềm hân hoan mong đợi, và khi bước vào đôi mắt của cô ta bừng sáng. Biết ơn vì sự can thiệp của cô ta, tôi đứng lên.

— Anh tới để đưa chúng tôi đi đâu đó bằng chiếc xe ngựa của anh phải không, Swift? - Cô ta hỏi khi tôi nắm lấy bàn tay đưa ra - Một cuộc dạo chơi sẽ khiến cho một ngày tẻ ngắt dễ chịu đựng hơn nhiều - Cô ta gửi cho tôi một nụ cười trêu chọc, và không đừng được, tôi cũng mỉm cười.

— Giá mà tôi có thể, nhưng tôi e là tôi không có cỗ xe nào cả.

— Nhưng anh là một nhà phẫu thuật - Cô ta vui vẻ đáp - Chắc chắn anh phải có một cỗ xe.

— Theo nguyên tắc, bọn học viên chúng tôi không có khuynh hướng có xe ngựa của riêng mình.

Sau lưng cô ta, Arabella mỉm cười, nét mặt nàng tràn ngập tình yêu bao dung. Bắt gặp ánh mắt nàng, tôi mỉm cười đáp lại, một cách bí ẩn.

— Vậy có lẽ chúng ta đi bộ - Amy nói - Trông có vẻ như hôm nay là một ngày đẹp trời - Quay sang Arabella, cô ta gửi một cái nhìn ẩn ý.

— Mới hôm qua chị bảo rằng đã lâu chị không tới công viên.

Arabella lắc đầu, nhưng tôi thấy sự chống đối của nàng đã mất đi.

— Việc diễn xuất của cô thì sao? - Nàng hỏi Amy.

— Tới tận tối cơ mà.

Arabella lắc đầu, nhượng bộ:

— Vậy thì chúng ta ra ngoài, nếu hai người cứ nhất quyết.

Tôi bị bỏ lại một mình trong lúc họ thay đồ, dù không lâu lắm, và chưa tới nửa giờ sau, với một cảm giác hân hoan, tôi bước vào đường phố cùng với họ. Dù bầu không khí lạnh giá, trời đẹp, bầu trời cao, xanh mong manh. Là người đầu tiên bước ra ngoài, Amy quay lại đối diện với hai chúng tôi khi ra tới đường, một tay giơ lên để giữ chiếc mũ trên đầu. Dưới ánh sáng ban ngày, trông cô ta không hơn một đứa trẻ là bao, có lẽ chỉ mười bảy tuổi. Một chiếc xe ngựa đứng ở góc đường, một cỗ xe cho thuê cũ kỹ với hai con ngựa lang. Tôi bước tới trước để thu hút sự chú ý của người đánh xe nhưng Arabella nắm lấy cánh tay tôi.

— Chúng ta đi bộ đi - Nàng nói. Trong mắt nàng có một nỗi lo âu mới - hẳn nàng biết tôi không đủ tiền cho cuốc xe. Tôi lúng túng gật đầu, cám ơn nàng, biết ơn vì sự tốt bụng nho nhỏ này, dù nỗi xấu hổ khiến tôi nhức nhối.

Chúng tôi vừa lững thững bước về hướng công viên vừa quan sát thời tiết đã mang sự sống trở về cho thành phố ra sao. Khắp mọi nơi, mặt trời đột ngột hiện ra mang tới cho mọi người một tâm trạng dễ chịu. Đàn ông và đàn bà đứng chuyện trò, những người hầu lăng xăng lo công việc, trẻ con đuổi bắt nhau chạy dọc trên đường phố - một niềm vui đang trỗi dậy. Amy nói thay cho cả ba người chúng tôi, cười to và trêu chọc, bình phẩm lớn tiếng và không chút xấu hổ về bất kỳ thứ gì lọt vào mắt mình. Giữa tôi và Arabell dường như nảy sinh một điều gì đó gần như bí ẩn, như thể những nét tương phản của Amy đã thúc ép chúng tôi đến với nhau. Tôi không biết đó có phải ý định của Amy hay chăng, nhưng ở bên ngoài một hiệu sách trên phố Portland, tôi khuỳnh cánh tay ra cho Arabella khoác. Nàng có chấp nhận nó hay không tôi không biết, vì chính Amy khoác lấy nó, phá lên cười điên dại và hạnh phúc. Tôi lo lắng liếc nhìn Arabella, nhưng nàng mỉm cười và lắc đầu, không phải khiển trách mà đầy vẻ mến yêu, và cả người tôi nóng rực, vì tôi hiểu rằng dù Amy bám sát vào tôi, cô ta không phải là người bước cạnh tôi mà là Arabella.

Ngang qua công viên, những cành cây trơ trụi chĩa thẳng lên bầu trời, những thân cây màu nhợt nhạt nổi bật trên thảm cỏ vừa mới nhú. Những con đường đông nghẹt người, tất cả đều chải chuốt làm dáng với nhau. Trong bộ com lê mực thước của mình, tôi có thể thấy lạc lõng, thế nhưng ánh mắt ngưỡng mộ của những người đàn ông đi ngang và cái nhìn ghen tị của những người phụ nữ xua đi rất nhanh ý nghĩ ấy khỏi đầu tôi.

Vầng dương sáng rực trên mặt hồ, nước phản chiếu ánh sáng vào bầu không khí. Đó đây những con thiên nga di chuyển; khi chúng tôi tới bờ hồ, Amy quỳ xuống, thì thầm gì đó như thể muốn dụ chúng tới chỗ cô. Arabella quan sát cô với vẻ thương yêu, và tới lượt mình, tôi quan sát Arabella, mừng vì thấy nàng vui vẻ. Khi đàn thiên nga tới, và Amy đã khum hai bàn tay của mình thành hình cái chén trước những cái đầu dò hỏi của chúng, cô lại đứng lên, hài lòng và đôi mắt cô dán vào một người đàn ông thanh lịch đang đứng trên đường, nhìn chăm chăm vào ba chúng tôi. Arabella căng thẳng, nhưng nếu nàng muốn tránh gã thì Amy lại không có ý định đó, vì cô vui vẻ chào gã, khẽ nhún gối và cặp kè với gã, một cánh tay luồn qua cánh tay gã như nửa tiếng trước đã luồn qua cánh tay tôi.

Được đưa tới trước chúng tôi, những lời chào hỏi của gã khá thân mật, dù có gì đó trong cách gã mím môi cho thấy bất chấp thái độ của mình, gã không mấy vui khi phát hiện ra Arabella và Amy ở đây với tôi. Mặt gã gầy guộc, chỉ lớn hơn tôi vài tuổi, với những đường nét gắt gỏng, và dù trông gã khá quen, chỉ tới khi được báo cho biết rằng gã tên là Ash tôi mới nhớ ra gã là bạn của Chifley. Rõ ràng gã cũng nhận ra tôi, nhưng chúng tôi không nói gì tới chuyện đó.

Khi đã tiến hành xong thủ tục giới thiệu, chúng tôi đi tiếp, Ash và Amy đi trước. Ở cuối hồ, Arabella và tôi dừng lại: cao tít trên đầu, trong khoảng không bên trên hồ, một bầy sáo bắt đầu hội tụ, thân hình bé xíu của chúng chuyển động như cát. Một cảnh tượng bình thường, nhưng chúng tôi cũng nhìn lên cảnh kỳ diệu nho nhỏ này, khi chúng lượn tròn như được dẫn dắt bởi một cái đầu duy nhất, một đám mây bềnh bồng ngày càng nhập vào, to thêm, chỉ để tản mác trở lại ngay tức khắc vào không gian.

Trong lúc này Amy đã dừng lại, với Ash, bên một tay kéo đàn. Ash moi từ trong túi áo khoác một đồng tiền và trao cho Amy. Cô quay lại, giơ nó lên để chúng tôi nhìn thấy trước khi ném nó vào cái mũ của người nhạc công.

— Cô là một người bạn tốt đối với cô ấy - Tôi nói, nhưng Arabella lắc đầu.

— Nếu thế thì tôi đã khá hơn.

— Vì sao? - Tôi hỏi. Arabella ngần ngừ. Khi cất tiếng trở lại, giọng nàng dịu nhẹ.

— Cô ta không khác gì một đứa con nít khi chúng tôi gặp nhau. Cô ta từng là một thợ may, còn tôi đã là một diễn viên, đóng những vai nho nhỏ. Thế nhưng trái tim của cô ta lớn gấp đôi tim tôi - Chúng tôi cùng theo dõi Amy nắm chặt cánh tay của Ash, nép sát vào người gã. Tôi không thể hình dung nổi cô đứng trên sân khấu thế nào, vì không như Arabella, cô có vẻ như hoàn toàn là chính mình. Để trở thành một người khác thì phải che đậy bản thân, có lẽ thậm chí đánh mất đi bản thân. Đó là một điều kinh khủng, và điều dễ dàng nhất.

— Anh ta có tốt với cô bé không? - Tôi hỏi.

— Anh ta là một gã đàn ông - Nàng đáp, giọng nàng gay gắt. Nhưng rồi nàng nói tiếp, giọng dịu lại.

— Anh biết anh ta, phải không?

Tôi ngạc nhiên nhìn nàng.

— Không nhiều lắm - Tôi nói.

Nàng gật đầu:

— Vậy anh biết anh ta là loại người nào.

— Cô nghĩ anh ta không định cưới cô bé?

— Anh ta là một quý ông, và một quý ông không muốn cưới những cô gái giống như Amy.

Dù giọng nàng không tỏ ra giận dữ, tôi thấy hổ thẹn vì câu này, nhưng tôi không chắc là cho ai trong hai chúng tôi.

— Vì sao cô muốn tránh mặt tôi ở nhà hát? - Một lúc sau tôi hỏi. Nàng buông tay tôi ra và quay về phía bờ hồ. Hai con vịt trống đang đánh nhau, cánh của chúng làm bắn tung nước lên quanh chúng.

— Arabella?

Nàng không nhìn tôi.

— Anh không được làm chuyện này, Gabriel.

— Tôi không hiểu.

Nàng khoanh hai tay trước ngực khi quay lại, và một lần nữa, trông như thể nàng nghĩ tôi có thể làm tổn hại nàng.

— Nhìn Amy xem - Nàng nói - và anh chàng Ash của anh. Anh ta là một quý ông, và vì lý do đó sẽ không bao giờ cưới con bé. Dĩ nhiên nếu con bé biết sự thật, bản thân chuyện đó cũng chẳng có chi quan trọng lắm, vì Amy không quan tâm nhiều tới Ash. Nhưng nếu có một Ash khác thì sao? Nó sẽ không trẻ mãi mãi, cũng không xinh mãi được.

— Còn cô? - Tôi hỏi.

Nàng dán mắt vào tôi, pha trộn giữa sự giận dữ và một điều gì đó khác.

— Đừng tỏ ra chậm hiểu, Gabriel - Cuối cùng nàng nói, quay người bước đi - Việc đó không hợp với anh đâu.

Ở cổng, Amy và Ash đang đứng đợi giữa đám đông qua lại. Khi tới gần, tôi không thể không nhìn thấy sự chua chát của gã, khoảng trống trong gã mà tuổi trẻ của cô bé sẽ lấp vào, và không bao giờ đủ.

— Chúng ta sẽ ăn trưa - Gã mỉm cười với tôi khi nói thế.

Biết rằng gã hy vọng tôi sẽ từ chối, tôi gật đầu và chúng tôi đi vào khu Mayfair, nơi chúng tôi chọn một cái bàn trong một quán ăn và dùng bữa. Amy, không còn ngờ gì nữa, cảm nhận được một điều gì đó giữa chúng tôi, vừa ăn hàu, bánh mì và uống bia, vừa nói chuyện đủ cho mỗi người, cô đưa tay lên che miệng mỗi khi cười to. Arabella ăn chậm hơn, thỉnh thoảng cùng cười phụ họa với Amy như điều mà một bà chị phải làm. Tuy nhiên Ash vẫn im lặng, thân hình gã tựa sát vào người Amy. Nhiều lần, tôi bắt gặp gã đang quan sát tôi, đôi mắt đen điềm tĩnh và khó chịu.

Khi chúng tôi ăn xong bữa, màn chiều đã nhạt nhòa, bầu trời trên đầu gần như không màu sắc, một mảnh trăng xuất hiện bên trên những nóc nhà. Amy phải có mặt ở nhà hát trong vòng một giờ nữa, vì thế cô lên đường cùng với Ash trong một cỗ xe, bỏ lại tôi và Arabella đi bộ trở về. Chúng tôi bước bên nhau, không chạm vào nhau, lúc này, khi chỉ còn lại hai người, câu chuyện của chúng tôi trở nên thận trọng, giữ gìn, dù có một sự gần gũi mà trước đó không hề có.

— Tôi không nghĩ là tôi thích cái anh chàng Ash này - Tôi nói. Arabella nhìn tôi:

— Không à? - Nàng hỏi, rồi lắc đầu và ngoảnh đi lần nữa - Anh ta không phải là kẻ tệ nhất trong loại người của anh ta.

— Tôi không có ý nói điều đó.

— Không - Nàng nói - Tôi biết. Nắm lấy hai cánh tay tôi, nàng kéo tôi sát lại, để cho sức nặng nhỏ bé của nàng tựa vào tôi.

Tôi biết ngay là đã có chuyện không ổn, vì ánh mắt của Tyne chứa đầy sát khí. Sau lưng hắn là Oates, người đánh xe, đang bồn chồn qua lại, gương mặt béo phị của hắn toát lên vẻ sợ hãi xen lẫn cảm giác tự cho là mình đúng. Hai người bọn họ đã tới nghĩa trang Thánh Bart để thu thập một cái xác từ già Crowley, thầy giáo ở đó.

— Cái xác đâu? Thầy Poll hỏi, và Tyne đưa mắt nhìn Oates. Mồm gã này cứ há ra ngậm vào như một con cá.

— Đã bị đánh cắp - Tyne đáp.

Căn phòng rơi vào im lặng.

— Trước hay sau khi anh trả tiền cho nó - Thầy Poll hỏi.

— Sau - Tyne đáp.

Thầy Poll quay sang hắn.

— Như thế nào? - Ông hỏi, rồi lắc đầu - Không, đừng kể với tôi, để tôi đoán xem. Anh để gã ngố bi bô này ở lại đó coi chừng cho anh phải không.

Oates cúi đầu xấu hổ, nhưng chỉ khi thầy Poll nhìn hắn với vẻ bực mình, mới rõ ra rằng hắn không nghe thấy câu nói cuối này.

Tyne chậm rãi gật đầu, và dù hắn cẩn thận kềm chế bản thân, có thể thấy rõ cơn giận vì bị quở trách đang bừng bừng trong lòng hắn. Tôi cố quay đi nhưng vẫn bắt gặp ánh mắt của hắn, và trong khoảnh khắc đó tôi nhìn thấy lòng căm ghét của hắn rõ như ánh ban ngày.

— Anh nghĩ là hắn ta sẽ không nắm lấy mọi cơ hội để hành hạ chúng ta sao? - Thầy Poll giận dữ hỏi, và trong giây lát, tôi nghĩ Tyne sẽ đáp trả, cơn giận của hắn đang sôi sục. Thế rồi thầy Poll lắc đầu, vẻ mặt đầy phẫn nộ.

— Ra ngoài đi - Ông nói - Tôi không muốn trông thấy các anh nữa.

Tyne đùng đùng xuống thang và bước ra phố. Không còn ngờ gì nữa, hắn có ý định đi tìm Caley để tính sổ với tay này. Trong sảnh, Oates run rẩy, gương mặt béo phị đỏ bừng vì thẹn và căm giận. Không thèm nói câu an ủi nào, tôi bỏ hắn lại đó.

Dù buổi chiều đã trôi qua quá nửa, ngôi nhà vẫn im lìm, Robert đi khỏi, còn Charles thì chưa tới. Tôi tạ ơn Trời vì sự lặng lẽ này; mấy tuần nay tâm tính của thầy Poll ngày càng xấu đi, và tôi rất thường nhận lãnh hậu quả của nó. Việc chúng tôi buộc phải mua cái xác từ nghĩa trang Thánh Bart chỉ là giọt nước cuối cùng làm tràn ly phẫn nộ của Lucan. Hết lần này sang lần khác, những cái xác do Caley và Walker lùng sục được trong mấy tuần qua dưới danh nghĩa của chúng tôi đều biến mất trước khi họ họ tìm lại được chúng, những cái huyệt đã bị đào trộm từ trước hoặc mấy cỗ quan tài đựng toàn đá, cái xác bên trong đã bị trộm đi thậm chí từ trước khi được chôn xuống đất.

Chỉ chuyện này thôi cũng đã tệ hại lắm rồi, nhưng có tới phân nửa số lần mấy cái xác này tái xuất hiện hầu như ngay lập tức trên bàn của một nhà phẫu thuật khác, do chính tay Lucan giao tới đó. Đã hai lần chúng tôi phải mua lại những cái xác đặc biệt cần thiết, một lần từ van Hooch, lần kia từ Guy’s, trả thêm một khoản tiền cho sự ưu tiên. Cái xác bị lấy trộm từ Tyne và Oates là một trường hợp tương tự. Một người đàn ông tên là Polkinghorne chết vì chứng sưng não, thầy Poll đã chi một khoản tiền lớn để khám nghiệm ông ta, thế nhưng lần này Lucan đã bày mưu đặt kế để buộc chúng tôi trả thêm tiền rồi sau đó cuỗm nó đi lần nữa, thế là chúng tôi mất trắng cả tiền lẫn hàng, tốn mười lăm đồng ghi-nê cho một cái xác mà chúng tôi không còn nữa.

Tôi khép cửa thư viện lại và sắp xếp mấy cuốn sách của tôi đang đặt trên bàn. Bên ngoài vẫn im lìm, mây sà thấp, trải đều và không hình thù, khuếch tán ánh sáng thành một sắc xám mờ. Trên bàn đặt một cánh tay phụ nữ mà Caley đã mang tới hai đêm trước, lớp da của nó đã được ghim chặt nên tôi có thể vẽ nó. Tôi cầm bút lên và bắt đầu. Vài phút trôi qua, rồi một con chim sẻ hạ xuống đậu trên ngưỡng cửa, thân thể nó bất động trong khoảnh khắc. Chiếc bút trong tay tôi dừng lại, treo lơ lửng trên trang giấy. Cẩn thận kẻo nó nhìn thấy cử động của tôi và bay mất, tôi lật một trang vở, lướt bàn tay qua đó, tôi chép lại hình dáng cái đầu, cái lưng béo tròn của nó, vẽ nhanh hết mức có thể, mắt tôi di chuyển nhanh từ trang giấy và đối tượng, cố xác định nó trong đầu, để nắm bắt bản chất của nó. Có thể việc này chỉ trong vòng vài giây, nhưng có cảm giác như nó kéo dài cả một giờ hay một ngày, tim tôi đập dồn dập, thân thể lạc mất trong khoảnh khắc này. Thế rồi khi tôi liếc mắt lên, nó đã quay lại và đang nhìn vào. Cây bút trong tay tôi bất động, cặp mặt đen bắt gặp ánh mắt của tôi, đầy sức sống và ý thức theo một cách bất khả tri nào đó. Khoảnh khắc này kéo dài, tim tôi như chùng xuống, rồi đột ngột như khi tới, nó quay đầu đi và bay mất, thân hình nó lao vút vào không trung dưới đôi cánh mờ mờ.

Trong lúc nó bay đi, tôi ngồi nhìn sững ra ngoài, vào ánh sáng, và do đó tôi không nghe thấy ông bước vào. Chỉ khi ông dừng lại sau lưng, tôi mới nhận ra tôi không còn một mình nữa và quay lại, một tay đặt trên trang giấy, tay kia đưa lên mặt như để quét đi làn ánh sáng.

— Chuyện đó trông không giống công việc cậu phải làm - Ông nói, và dù giọng ông có vẻ nghiêm khắc, dường như cơn giận lúc nãy đã dịu đi. Và cả một cái gì đó lúng túng nữa, như thể ông muốn tỏ ra thân thiện, và điều này không dễ thực hiện.

— Không, thưa thầy - Tôi nói, đứng lên một cách vụng về.

— Không - Ông nói - Cứ ngồi đi - Ông đặt tay lên bức vẽ. Biết rằng tôi phải làm điều đó, tôi nhấc cánh tay lên, từ bỏ nó.

— Nó là một con chim sẻ - Tôi yếu ớt nói, và ông đưa mắt nhìn lướt từ bức vẽ sang tôi.

— Cậu tưởng tôi mù hay sao?

Ông không phải là một người dễ chịu, và tôi rất ngán ông. Ông lại vươn tay ra cầm lấy những tờ giấy đặt trên bàn giấy. Việc này để lộ ra không phải là những bức vẽ và ghi chú về công việc của tôi, mà là những bức phác họa tôi đã vẽ, ngày này sang ngày khác: một bức vẽ nghiêng chân dung Charles, một nữ thợ giặt, hai con mèo, cầu Blackfriars. Ông kiểm tra từng tờ một, xem xét cẩn thận, cho tới tấm cuối cùng.

— Cậu có tài với cây bút đó - Ông nói, như thể ngạc nhiên. Tôi không chắc chắn: chính ông là kẻ tin rằng vẽ là một phần chủ yếu trong việc học hành của chúng tôi, vì chỉ thông qua việc tái tạo một vật, hình ảnh của nó mới thật sự gắn vào tâm trí, do đó theo chỉ thị của ông chúng tôi đã vẽ, nhưng tôi biết, như ông phải biết, đó là phần duy nhất mà tôi có chút năng khiếu trong sự học của tôi.

— Cám ơn - Tôi nói. Đột nhiên ông quay đi, lật nhanh qua những trang của một cuốn sách nằm trên cái ghế bên cạnh.

— Charles nói với tôi là cậu đã đi tham quan vài nơi trong thành phố cùng cậu ấy.

Tôi nhích người, khó chịu. Đã có sự thay đổi trong quan hệ giữa ông và Charles trong mấy tuần qua, vì tính khí của thầy Poll trở nên khó chịu, Charles cũng trở nên quan tâm và lo lắng hơn cho bậc tiền bối của anh, nhưng đó là một sự quan tâm lo lắng có vẻ như được thiết kế để che đậy một khoảng cách đang lớn dần giữa hai người. Có lẽ một người ngoài cuộc sẽ không nhận ra nó, và thật sự không phải lúc nào nó cũng xuất hiện: khi họ gắn với nhau trong công việc mổ xẻ, họ vẫn là họ như trước, hai thân thể cùng sở hữu một tinh thần, đắm mình vào công việc. Nhưng dù sao thì nó cũng vẫn hiện diện ở đó.

— Một đôi chỗ thưa thầy - Tôi đáp.

— Và cậu làm cách nào tìm ra cậu ấy?

Tôi không đáp. Thầy Poll quan sát tôi, rồi chậm rãi gật đầu.

— Cậu trung thành, tôi thấy. Còn cậu ta là một người khơi gợi lòng trung thành, có phải không?

— Đúng vậy.

— Cậu có xem cậu ta là một người bạn hay không?

— Em hy vọng là anh ấy xem em như thế.

Thầy Poll trầm ngâm, rồi, hoàn toàn đột ngột, ông dúi một bức vẽ vào tay tôi.

— Cái gì mang tới sức mạnh cho cơ bắp? - Ông hỏi, chọc vào cánh tay của người phụ nữ.

— Sự rèn luyện - Tôi đáp một cách cảnh giác.

— Vậy đừng để cho khả năng này của cậu tự kết liễu chính nó. Làm những điều dễ dàng không rèn luyện được gì cho những khả năng tinh thần của não bộ. Có một nhược điểm cố hữu trong những người dễ dãi với bản thân, một nhược điểm mà cậu nên cố gắng tránh đi.