Chương 14
Tôi thức giấc, khốn khổ và muốn bệnh. Trong phòng rất nóng, bầu không khí kín bưng: ở một thời điểm nào đó trong đêm tôi nhớ mình đã bước xuống giường, dạ dày tôi tống những thứ nó chứa đựng vào cái bô đặt trong phòng ngủ. Mùi hôi vẫn còn lẩn quẩn. Đôi mắt tôi nhức nhối, cổ họng và mũi tôi chua lòm vì chất mật, và trong giây lát tôi cứ nằm ì ra đó, mặt áp lên tấm vải trải giường, chỉ muốn trôi trở lại vào nơi ẩn náu êm đềm của giấc ngủ. Từ đâu đó chỉ ngoài tầm tay với, có gì đó đang đay nghiến tôi, một tri giác nào đó về một điều tôi đã lãng quên, tôi cố lờ mờ nhớ lại, cho tới khi ký ức đột nhiên quay lại, ập xuống như một gánh nặng.
Khi tôi đã có thể tập trung sức lực, ánh ngày bên ngoài sáng rực, không khí trong sân tươi mùi cây lá. Khom người thấp dưới vòi nước, tôi nhắm mắt lại, để cho nước chảy tràn qua đầu và lưng mình. Dù trời lạnh, tôi vẫn không rụt lại, vui mừng để cho cái lạnh băng giá trôi qua bộ mặt sưng phồng của mình. Tiếng nước chảy tràn lên những phiến đá. Khi xong xuôi, tôi đứng dậy, hấp háy mắt, và nhìn thấy Robert đang đứng đó, chìa cho tôi một cái khăn.
— Áo của anh bẩn rồi - Anh nói.
— Nó vẫn ổn thôi - Tôi vặn lại, gay gắt hơn ý định. Tôi giơ tay lên, thoạt tiên định xin lỗi, nhưng rồi không làm điều đó.
— Gabriel…. - Robert mở lời.
— Gì?
— Tôi không vờ như hiểu hết mọi chuyện đã xảy ra đêm qua, nhưng anh chỉ làm hại bản thân mình theo cách này.
Tôi gật đầu. Dù ký ức của tôi rối bời, giờ tôi cũng nhớ ra Robert đã tìm thấy tôi đang cố dọn đống lộn xộn do Chifley và Caswell gây ra.
— Có hư hại thứ gì không?
— Không có gì khó chấn chỉnh, dù tôi không cần phải nói với anh rằng mọi chuyện rất có thể tệ hơn.
— Còn thầy Poll?
Robert im lặng nhìn tôi.
— Tôi thấy không có lý do gì để báo cho ông biết - Anh nói.
— Cám ơn anh - Tôi nói gượng gạo.
— Đưa cho tôi cái áo, tôi sẽ nhờ bà Gunn giặt giùm anh.
Ngày hôm đó trôi qua một cách lê thê, bầu không khí ảm đạm kéo dài tới tận chiều tối. Vào giữa trưa, cơn buồn nôn đã qua đi, thay vào đó là một cơn đau đầu ép nặng lên hai nhãn cầu của tôi. Tôi trở nên lóng ngóng vì nó, và hai lần thầy Poll quở mắng tôi vì đánh rơi các thiết bị. Công việc đầu tiên của chúng tôi là mổ xác cô gái, và khi giúp Robert đưa cô ta lên cầu thang, lòng tôi tràn ngập niềm xấu hổ về những sự kiện đêm hôm trước. Tôi nhìn một cách vô cảm khi thân thể của cô ta bị cắt bung ra, từng chút từng chút. Dù tôi đã nhìn thấy chuyện này nhiều lần, hôm nay tôi nhìn trừng trừng, gần như không nháy mắt khi cổ họng của cô ta bị mở ra, lớp sụn của khí quản được tách ra, to bằng cánh tay của một đứa trẻ. Trên cùng của nó vẫn còn gắn liền với cái lưỡi sưng phồng, lởm chởm và có lông như một con thú nào đó ở chợ.
Khi mổ xong, tôi thu gom những mảnh vụn, các xô chậu và vác cô ta trở xuống tầng hầm, dọn dẹp những thứ còn sót lại trên bàn với một niềm phẫn nộ bất thường.
Suốt buổi chiều, tôi chuồn vào ngồi giấu mình trong một góc phòng khám bệnh. Đầu tựa lên chiếc ghế dài, tôi rơi vào một giấc ngủ nông, chập chờn, nửa mơ nửa tỉnh, bị quấy rầy bởi những bóng ma vi vút lại qua ngay ngoài tầm với. Không biết tôi ngủ được bao lâu; có lẽ vài phút, nhưng bỗng dưng tôi giật mình tỉnh giấc. Charles đứng ở cửa, một tay đặt lên quả đấm cửa. Rõ ràng là anh không nghĩ sẽ gặp tôi ở đây, vì anh đứng tần ngần như sắp bỏ đi lần nữa. Chúng tôi nhìn nhau một cách khó chịu; suốt ngày nay Charles rất bực dọc, cáu kỉnh, và giờ đây khi chỉ có hai chúng tôi, tôi nhận thấy anh ước gì chúng tôi đừng gặp nhau.
— Xin lỗi - Tôi nói, ngồi lên - Tôi chỉ nghĩ sẽ nghỉ ngơi một lúc - Dù lời lẽ của tôi có tính chất xin lỗi, thái độ của tôi lại không thế.
— Không sao - Anh nói gượng gạo, và chúng tôi gần nhau đến nỗi có thể chạm vào nhau. Ngay cả lúc này, khi tôi biết khá nhiều về anh hơn trước, Charles vẫn có một sự thanh tú nào đó, một vẻ đẹp ít người cưỡng nổi, và tôi nhận ra tôi muốn tha thứ cho anh, và anh cũng thế đối với tôi. Nhưng sự việc không như vậy.
— Tôi có việc phải làm - Tôi nói, bước ngang qua anh ra ngoài.
Đêm đó tôi không thể ngủ, trôi giạt trong bóng tối của căn phòng. Từ đường phố bên dưới vọng lên tiếng hát hò nghêu ngao của những gã say và tiếng lóc cóc của những chiếc bánh xe lăn trên mặt đường lát đá. Lúc ba giờ, tôi nghe thấy hồi chuông ở nhà thờ Thánh Giles. Tôi trượt khỏi giường, đi xuống cầu thang. Ánh trăng rọi qua ô cửa sổ, tạo thành những hình chữ nhật mềm mại trên những bậc thang, lòng bàn chân tôi áp lên lớp gỗ mát lạnh. Trong phòng khám, tôi hít thuốc phiện và uống rượu. Nó mang tới giấc ngủ, một cơn mê bềnh bồng đầy âm thanh và lửa, di động trong một chuyển động không ngơi nghỉ, giống như một kẻ đang bơi, ngay dưới bề mặt của sự tỉnh thức. Tôi biết tôi đang mơ, thế nhưng tôi vẫn mơ và không thể thoát ra, thậm chí khi tôi cảm thấy mình đang bị rượt theo. Tôi không biết cái gì đuổi theo tôi, thế nhưng vẫn thấy sợ, một thứ gì đó vừa kinh khủng vừa quen thuộc, và nó chạm vào vai tôi, khiến tôi trở nên bất động, thế là tôi quay lại đối mặt với nó, thân thể tôi nhũn ra vì kinh hoàng, quay lại lần nữa, rồi lần nữa, rồi lần nữa cho tới khi đột nhiên tôi nhìn thấy nó và thức giấc ngay khi ấy.
Ngày hôm sau trôi qua trong sự thinh lặng ảm đạm. Dù chúng tôi có đủ công việc, tôi vẫn có nhiều thời gian cho riêng mình. Hai lần tôi tới Whitechapel và thị trấn Kentish để chuyển tin nhắn, đi ngoằn ngoèo qua những con đường thành phố, và giữa thời gian đó tôi gục đầu xuống mấy quyển sách hoặc ngồi thơ thẩn trong sân. Tôi không biết điều gì khiến cho tôi phiền não; dù tôi đau đớn cho Amy nhiều hơn thế, cơn giận của tôi trộn lẫn với một niềm hổ thẹn không tài nào xua đuổi hoặc xóa tan đi, và cùng với nó là việc nhớ lại nỗi khao khát của tôi đối với Arabella.
Chính Charles là người báo cho tôi biết về đám tang của Amy. Anh kéo tôi sang một bên vào buổi sáng thứ bảy. Suốt ba ngày qua chúng tôi hầu như không trò chuyện với nhau, và lúc này anh thấy lúng túng với tôi.
— Họ sẽ chôn cô ta vào chiều nay - Anh nói. Tôi lạnh lùng nhìn anh.
— Nếu anh muốn đi, tôi sẽ nói với thầy Poll rằng anh thay mặt cho tôi đi công chuyện.
Tôi khó chịu gật đầu, vì tôi không muốn mang ơn anh. Có lẽ anh nhận ra điều này, vì anh không nhấn mạnh vấn đề, và vì thế chính tôi là người phải đồng ý.
— Cám ơn - Tôi nói, hơi gượng gạo.
Thế là sau buổi trưa một giờ tôi bước ra cửa trước. Nhưng giọng của Tyne phát ra từ phía cầu thang:
— Ông Poll muốn gặp cậu.
Thoạt tiên tôi nghĩ tới việc tiếp tục bước đi, khép cánh cửa lại sau lưng và bỏ mặc hắn ở đó. Nhưng tôi ngần ngừ. Tyne quan sát tôi với một nụ cười chế nhạo.
— Gì thế? Cậu còn phải có mặt ở nơi nào khác?
Thầy Poll có một cái xác trong phòng mổ, được Lucan đưa tới đêm qua, đang nằm đó chờ khám nghiệm. Đó là Banister, chủ nhân của một phòng kế toán trong thành phố, đột quỵ do một cơn co thắt não ba đêm trước. Khi tôi bước vào, thầy Poll liếc mắt nhìn tôi, bảo tôi thu thập các dụng cụ của ông.
Tôi không phản đối. Tôi cởi áo khoác ra và xắn tay áo lên và khoác vào người tấm tạp dề. Hầu như không nhìn tôi, thầy Poll ra hiệu cho tôi chuyền cho ông con dao mổ, và với một động tác thành thạo, ông cắt từ mé tai này sang tai kia ngang qua cái vòm sọ, chia đôi phần da đầu, rồi đặt con dao mổ sang bên, ông chùi mấy ngón tay vào trong vết cắt rồi kéo lớp da mặt xuống, để lộ lớp xương màu vàng của hộp sọ. Luôn luôn có một cái gì đó đáng ngại ở cách thức lớp da mặt bị tuột gọn khỏi lớp xương, như thể nó chỉ là một tấm mặt nạ đã rách toạc và bị loại bỏ. Sau khi lặp lại quá trình ở phía sau gáy, thầy Poll cầm lấy cưa và cưa rời phần vòm sọ. Lớp xương rất khô, chuyển động của cái cưa thoạt tiên tạo nên một làn bụi màu vàng, rồi mùi khét. Đó không phải là một công việc nhanh chóng, nhưng tỏ ra nôn nóng chỉ tổ mang tới cho tôi đôi lời khiển trách, vì thế tôi cố không nhìn lên cái đồng hồ đặt trên lò sưởi. Nhiều phút trôi qua, cái cưa di động trong sự im lặng của căn phòng, cho tới khi cái sọ bị cắt làm đôi bởi nhát cưa cuối cùng. Thầy Poll trao cho tôi cái cưa rồi kéo bộ não ra, cắt rời cái cột giữ nó trong võ não, rồi đặt nó lên phiến đá, ông trầm ngâm quan sát nó.
— Tôi từng cân những bộ não của những người khờ dại và cả quỷnh. Chúng không khác gì bộ não của chúng ta về khối lượng - Ông nói.
Vì những lời của ông dường như không hướng về tôi một cách cụ thể, tôi không trả lời, và một lát sau, ông cầm con dao lên, cắt đôi bộ não nhiều lần cho tới khi phần thẫm màu và trắng của khối xuất huyết hiện ra. Ông hài lòng, nói lẩm bẩm, múc bộ não lên và bóp chặt nó khiến những giọt máu rỉ ra. Đây không phải là lần đầu tiên tôi tự hỏi về cách thức những tảng tế bào này hàm chứa chúng ta, về sự diệu kỳ của chuyển động của bản thân chúng ta thông qua lớp nhục thể này. Ông ta đã cảm thấy thế nào, ông già Banister này, khi máu tràn lên óc não của mình? Một âm thanh giống như nước, hay như gió? Sự rời xa khỏi chính bản thân ông ta?
Giờ tiến hành tang lễ đã trôi qua khi chúng tôi xong việc, và tôi co chân chạy khi rời khỏi nhà, chạy ngoằn ngoèo qua những cỗ xe ngựa và người đi kẻ lại. Nhà thờ nằm không xa phố Percy, trong một khu đất nhỏ sau lưng phố Charlotte, và ở sau lưng nó, khu nghĩa trang là một nơi yên tĩnh dưới bóng một cây sồi, bốn bên là những ngôi nhà tường phủ đầy dây thường xuân. Khi tới bên hông nhà thờ, tôi nhìn thấy những người đưa tang ở một góc xa, đang im lặng trong lúc vị linh mục ngâm nga những câu kinh cầu nguyện.
Bỗng dưng tôi thấy bồn chồn, nóng và lúng túng, như thể sự hiện diện của tôi ở đây sẽ không được đón chào.
Arabella đứng một mình giữa nhóm người, đang nhìn chằm chặp xuống cỗ quan tài. Nàng đứng bất động, cứng người đến độ thân thể của nàng dường như khước từ mọi sự cảm thông. Mary đứng sau lưng nàng, mặc toàn đồ đen, nét mặt kín như bưng.
Tang lễ không kéo dài, những người đưa tang tản mác ra khi nhóm phu đào huyệt hạ cỗ quan tài vào lòng đất. Cạnh Arabella, một người đàn ông để mái tóc mai màu gừng đang nói gì đó mà tôi không nghe được, cúi đầu sát vào nàng trong lúc nói. Nàng gật đầu cộc lốc, và mắt nàng bắt gặp mắt tôi qua khoảnh sân, nhưng nàng không tỏ dấu hiệu gì. Khi nàng đi ngang qua nhóm người, những người khác chạm vào cánh tay và bàn tay nàng, thì thầm những lời chia sẻ; chỉ khi việc này đã xong xuôi nàng mới tiến tới chỗ tôi đang đứng.
— Anh đã tới - Nàng nói, chìa tay ra, Tôi nắm chặt lấy nó, không muốn buông ra. Đã nhiều lần tôi nghe Robert và Charles an ủi những người đau khổ, nhưng đó là một nghệ thuật mà tôi chưa từng chia sẻ. Dường như có quá ít điều để nói, thế nhưng lại có mọi điều cần nói, như thể những ngôn từ không thể chứa đựng nó. Nhưng tôi thấy nàng không muốn sự thương hại, hay sự đau khổ của tôi, chỉ muốn lặng yên, chỉ muốn chuyện này kết thúc và nàng sẽ rời xa khỏi nó.
— Tôi không biết… - Tôi ấp úng.
— Biết gì?
— Tôi có được chào đón không.
— Cô ấy là bạn của anh - Nàng dịu dàng nói.
— Cô ấy có gia đình không? - Tôi hỏi, nhưng nàng lắc đầu.
— Khi cô ấy còn sống chưa từng có ai tới thăm cô ấy.
— Vậy là họ chưa biết?
— Tôi đã viết thư cho anh của cô ấy, và một bà cô mà cô ấy nhắc tới, thế nhưng không có ai trả lời - Nàng lắc đầu và nhìn đi chỗ khác, rồi quay lại.
— Vậy những người ở đây?
— Bạn hữu. Và có khá ít người. Không sao, chuyện này sẽ sớm kết thúc.
Tôi lắc đầu:
— Không nên như thế này.
— Phải, không nên - Nàng giận dữ nói - Rồi tự kềm mình lại, như thể nàng sẽ không bộc lộ điều này, cũng không nói nó ra.
Tay đàn ông để mớ tóc mai xuất hiện bên cạnh nàng.
— Gabriel, đây là ông Gardine. Cái nhà hát mà anh từng thấy tôi diễn kịch là của ông ta.
Gardine nhìn tôi. Dù nét mặt hắn hồng hào với những đường nét thô kệch sáng láng, trong ánh mắt hắn có một nét sắc sảo khiến tôi không ưa được.
Xin tôi thứ lỗi bằng một giọng Tô Cách Lan trầm, gã quay sang Arabella.
— Cỗ xe ngựa - Gã nói, và nàng gật đầu.
Quay trở về nhà, vài người đã đưa tang đứng trong phòng khách lặng lẽ chuyện trò. Sự kiện này không mấy dễ chịu; những người tụ họp tại đây có vẻ bồn chồn và nôn nóng muốn đi. Chỉ có Gardine dường như vẫn thản nhiên, nói năng bình thường vui vẻ. Ngồi mặt sưng mày sỉa giữa họ, tôi thấy lúng túng, lạc lõng, nhưng họ không phải đối tượng quan sát của tôi, mà là Arabella. Khi nàng đi lại chuyện trò, tôi nhìn thấy cái cách nàng che đậy bản thân, cách nàng cười to và cười mỉm, và cơn giận của tôi bùng lên vì sự vờ vịt của nàng. Cuối cùng tôi đứng dậy đi xuống bếp. Từ trên gác vọng xuống âm thanh của những giọng nói, tiếng cửa mở, nhưng tôi vẫn không nhúc nhích, mong muốn nàng tới với tôi, tìm thấy tôi ở đây. Một giờ trôi qua, rồi một giờ khác, và chỉ khi đó mới có tiếng chân bước trên cầu thang.
Vì lý do nào đó, mái tóc nàng nghiêng lệch, nét mặt nàng điềm tĩnh.
— Anh đây rồi - Nàng nói - Tôi tưởng là anh đã đi về.
Tôi đứng lên đối diện với nàng.
— Tôi mừng vì anh chưa về - Nàng nói. Đột nhiên tôi biết vì sao tôi ở lại, rằng lúc này tôi đang rất giận nàng, giận vì cách nàng không để cho mọi chuyện tác động tới nàng, và bỗng dưng tôi muốn đánh nàng, làm cho nàng khóc, bằng cách nào đó làm cho nàng bộc lộ một dấu hiệu của niềm thống khổ. Có lẽ nàng nhìn thấy điều này trên nét mặt tôi, vì nàng lắc đầu và bước tới gần.
— Vì sao hôm nay anh tới?
Tôi lùi lại - Làm sao tôi có thể không tới được?
Nàng ngần ngừ:
— Anh đang giận tôi.
— Không - Tôi đáp, nhưng nàng cầm lấy tay tôi, nắm chặt nó khi tôi cố vặn người né ra.
— Tôi mừng vì điều đó - Nàng nói. Hai chúng tôi đứng sát vào nhau đến độ tôi có thể ngửi thấy mùi hơi thở của nàng, nhìn thấy phấn trên mặt nàng bết lại ở nơi này nơi khác. Tôi cảm thấy mọi thứ trong tôi khi đó, cơn giận và niềm thống khổ, và tôi không biết có nên đánh nàng chăng, hay vòng tay ôm lấy nàng. Thế rồi nàng ngẩng mặt áp vào mặt tôi, và với một bờ môi khẩn trương, khao khát, nàng hôn tôi, một lần, rồi lần nữa, thân hình nàng ép sát vào người tôi, như muốn tìm cách đánh mất mình trong chuyện này, vỡ òa ra trong nhu cầu tan rã đang dâng lên trong lồng ngực, đôi môi và đôi tay của chúng tôi.
Vậy ra đây là phương tiện để hiểu biết một người phụ nữ. Niềm mong muốn tả tơi này. Đôi tay tôi lặng lẽ hoạt động, non nớt và ngốc nghếch, nỗi khao khát của tôi giống hơn với một cơn đau không thể xoa dịu. Bên ngoài, những ngày mùa hạ kéo dài, thành phố xôn xao và rực rỡ.
Có lẽ nếu chúng tôi bận rộn hơn thì sẽ tốt hơn, nhưng với sức nóng ở đó, chẳng có gì nhiều để chúng tôi làm. Không thể giữ được các thi thể, và chúng tôi không được học, những ngày của chúng tôi mất đi trong sự nhàn rỗi. Tôi chắc là Robert phải phỏng đoán nhiều về nguyên nhân của sự xao lãng, sự lơ đãng, sự ghẻ lạnh của tôi đối với Charles. Trong những đêm ấy, khi tôi không gặp nàng, anh đi bộ cùng tôi qua những đường phố bụi mờ.
Những tuần cứ trôi qua, tôi tới gặp nàng thường xuyên trong khả năng cho phép. Nàng có đời sống của nàng, tôi có đời sống của tôi, nhưng từ cái đêm Amy chết, trong tôi đã có gì đó đổi thay. Dù tôi vẫn loay hoay với công việc của mình, tôi không còn quan tâm tới nó, về bất cứ chuyện gì. Khi chúng tôi xa nhau, tôi ước ao được gần gũi bên nàng, nhưng khi chúng tôi ở bên nhau, tôi không thể tập trung. Và tôi chỉ luôn ao ước bỏ lại tất cả những điều này sau lưng, tránh xa khỏi nó. Niềm khát khao này đối với con người nàng luôn mở rộng một cách không thể bác bỏ trong tôi; bất kể tôi cố gắng thế nào, tôi vẫn không thể vượt qua cái hố sâu nằm giữa chúng tôi, không thể biến mình thành sức nóng đó.