Chương Kết
Không có trát đòi, tuyên cáo hay lệnh trục xuất nào hết, nhưng dù sao đi nữa, nó đã được thực hiện. Lũ học trò của tôi lần lượt rút lui, những bài học bị hủy bỏ. Một số làm điều đó với một tia vui thú trên nét mặt, số khác ít vui vẻ hơn, như thể chúng đã thi hành một bổn phận đáng tiếc nhưng cần thiết. Trên phố, những gương mặt ngoảnh đi khi tôi đi ngang qua, các quý ông to tiếng hơn trong cuộc chuyện trò với bạn bè của họ, các quý bà bĩu môi, quay đi, chỉ thì thầm sau khi tôi đã đi qua.
Đây không chỉ là hành động của Winter. Những kẻ khác cũng đã tham gia một cách sẵn lòng, tôi chắc chắn. Có một sự tàn bạo lạ thường trong cách thức luật bất thành văn được duy trì tại đây, một sự trả thù, như thể ngã xuống giữa những kẻ đã ngã quỵ là một hình thức yếu kém phải bị xóa tên đi. Đôi khi tôi nghĩ thái độ lỗ mãng trong những khu kiều dân này, sự cứng rắn của những tâm hồn họ nuôi dưỡng, xuất phát không phải từ cuộc đời mà chúng tôi đã sống trước đây rất lâu mà từ sự chối bỏ những cuộc đời đó, gần như thể bản thân sự im lặng mà chúng tôi thông đồng chia sẻ với nhau là một hình thức bạo lực mà chúng tôi tự áp dụng cho chính bản thân.
Tất nhiên tội ác của tôi không ai ở chốn này không từng phạm phải. Tôi đã chọn một cái tên khác, một cuộc sống khác, làm mới bản thân. Nhưng có một phẩm chất nào đó ở cách thức tôi thực hiện nó, một sự phạm tội ngấm ngầm lẽ ra không nên có. Tôi cũng nhìn thấy nó, tôi cảm nhận được cách nó chối bỏ tất cả chúng tôi.
Không có học trò, tôi không thể kiếm sống, một điều thật là phiền toái cho tôi. Hiện tôi vẫn còn tiền, đủ để mua thức ăn, nhưng nó sẽ không kéo dài. Có một công việc khác tôi có thể làm, những đơn hàng cho những mẩu vật, nhưng suốt mấy tuần qua tôi thấy tôi không thể nhấc tay thực hiện những gì họ yêu cầu. Bắt một con chim bằng súng hay bẫy dường như quá kinh khủng đối với tôi, một điều mà tôi không thể tiến hành được nữa, cũng không muốn thấy nó được thực hiện. Tất nhiên một gã đàn ông có thể kiếm sống bằng nhiều cách khác: ở đây có công việc cho tất cả mọi người, và dần dà tôi có thể đi tới chỗ kéo cày hay canh giữ đất.
Đứa học trò cuối cùng bị tước khỏi tôi là Joshua. Bourke làm điều đó với một tuyên bố cộc lốc rằng đã tới lúc thằng bé phải học nhiều hơn về cách điều hành điền sản. Ông ta tiến hành nó một cách nhanh chóng, không muốn tranh luận, và tôi không tranh luận, dù tôi thấy ông đã quyết định trái với bản tính của mình. Có lẽ ông ta làm theo ý của bà Bourke, và ông ta nhìn thấy ở thằng bé người vợ trước của mình, một khả năng nào đó mà ông ta không thể nhận biết, nhưng rõ ràng quyết định đó khiến ông phải trả giá bằng một phần sự thoải mái với bản thân và gia đình mà trước kia ông từng có.
Dù sao, vì uy tín của gia đình Bourke, họ không từ bỏ tôi hoàn toàn. Bất chấp cảnh tôi chạm mặt Newsome, bất chấp việc sa thải tôi với tư cách là thầy của cô Winter -họ có thể đoán được nửa phần sự thật trong đó - không ai trong hai người ép buộc ở tôi một lời giải thích. Và dù đối với những kẻ khác, hiện giờ cái tên của tôi là nguồn của sự suy đoán và tin giật gân vô tận, gia đình Bourke vẫn niềm nỡ đón chào tôi trong nhà họ.
Thế nhưng rõ ràng với cả ba chúng tôi, một sự thật cơ bản nào đó đã bị phá vỡ. Tình bằng hữu của Bourke luôn là thứ tình cảm xa xôi giữa những kẻ không bằng vai phải lứa, và dường như nó ít thay đổi, nhưng với bà Bourke, sự thay đổi có thể dễ dàng nhìn thấy. Dù bà vẫn tốt với tôi như từ trước tới nay, hiện giờ sự tử tế của bà có một phẩm chất khác. Bà nói như thể nói với một ai đó trước kia từng là bạn, nhưng đã bị phân ly, giờ đã giải quyết nhưng không bao giờ có thể phục hồi như cũ; như thể bà đã quyết tâm không soi mói nội tâm tôi, không đào quá sâu.
Không có một lời nào nhắc tới nàng, người nằm ở trung tâm của tất cả những điều này, chỉ có những tin tức về chỉ thị của anh nàng rằng tôi sẽ không được đón tiếp trong nhà họ. Tôi không đoán được nàng đã biết những gì, những gì nàng suy đoán tôi không tài nào chịu đựng được khi nghĩ tới.
Có những người sẽ bảo bạn rằng để vẽ lại một con chim bạn phải bắt đầu với cái đầu, rồi tiếp tục tới cổ, từ đó vẽ dọc theo ngực xuống chân. Đôi cánh phải được bắt đầu từ đầu cánh, rồi nét viền của cái đuôi là nét cuối cùng. Nhưng thật ra không có quy tắc nào trong việc này, không có cơ chế nào cả. Đường nét được đặt lên giấy, rồi quay trở lại: vẽ ra cái hình ảnh hình thành trong tâm trí. Và hình ảnh này, với tất cả sự chính xác mà nó có, cũng mang lại ấn tượng và cảm giác nhiều như kỹ thuật thủ công, một việc thu thập sự sống của nó từ đường nét của nó, cho tới khi nó đưa bản thân nó tới sự hiện hữu, một vật được tái sinh, được làm mới.
Xế chiều, một tiếng gõ cửa. Sự xâm nhập của tiếng động con người này lên bầu không khí của ngôi nhà nghe có vẻ chói tai. Tôi ngồi bất động, nó lại vang lên, ít chắc chắn hơn.
Tôi đứng lên, bước tới cửa và mở ra, đằng hắng để có thể nói. Đã nhiều ngày trôi qua kể từ lần cuối tôi có bạn con người. Bên ngoài là ánh sáng xanh nhòa nhạt của buổi chiều tà, những nhánh cây chĩa lên trên các thân cây. Và tôi thấy nàng đứng đó.
Thoạt tiên nàng không nói gì, cả tôi cũng vậy. Trông mặt nàng hơi khác, như thể tôi đã nhớ lầm về nàng. Có lẽ già hơn, và cũng gầy guộc hơn, bình thường hơn. Có lẽ trông tôi cũng vậy, nên nàng nhìn tôi đăm đăm, như thể tôi là một bóng ma, một ông chồng hay ông anh đã chết từ lâu và nay sống lại, nhưng đã đổi khác so với hình ảnh chất chứa trong tâm trí suốt quá nhiều năm.
Có thể cả một đời đã trôi qua trong khoảng thời gian chúng tôi đứng đó. Cuối cùng, khi chúng tôi nói, những lời đầu tiên là của nàng, thốt ra một cách lo âu, vì tôi chưa từng nghe nàng nói theo cách đó bao giờ.
— Anh May - Nàng nói, xiết hai tay vào nhau.
— Sao cô tới đây? - Tôi hỏi, nhìn lướt qua nàng tới con đường mòn.
— Khoảng cách không xa lắm - Nàng nói - Tôi có thể vào nhà không? - Và, bối rối, tôi lui lại để nàng đi qua.
Ánh mắt nàng quét quanh căn phòng. Nàng đứng như thế khoảng vài giây, lưng quay về phía tôi, rồi quay sang tôi.
— Vì sao…? - Tôi mở lời, câu hỏi của tôi nhòa đi, không trọn vẹn.
— Tôi muốn xem những bức tranh mà anh đã hứa với tôi.
Không biết giờ nên nói gì, tôi giơ tay lên ra hiệu về phía căn phòng nơi tôi đặt cái bàn giấy.
Tôi thấy nôn nao, với nàng ở đây. Chúng tôi đi tới chỗ đặt chồng giấy trên bàn, nhưng tôi gạt chúng sang bên.
— Anh sẽ cho tôi xem tấm nào? - Nàng hỏi. Tôi chọn một tấm, đặt nó lên bàn trước mặt nàng. Nàng ngắm nghía nó hồi lâu. Rồi nàng dời nó sang một bên, và tôi trao cho nàng tờ kế, rồi tờ kế. Cổ họng tôi nghẹn lại.
Cuối cùng nàng đặt sang bên tờ cuối cùng. Nàng vươn thẳng lên, chạm vào những thứ tôi cất trên kệ. Trong lúc quan sát nàng, tôi cảm thấy nàng đang tiếp cận một điều gì đó trong tâm trí mình, một điều nàng không chắc phải làm cách nào để khai mở nó. Rồi cuối cùng nàng quay sang đối mặt với tôi. Nét mặt nàng mệt mỏi, nhưng tôi thấy trong đó một quyết định nào đó, một điều gì đó mà giờ đây nàng sẽ không gác lại.
— Anh có biết con trai tôi chết như thế nào không? - Nàng hỏi.
— Không cần thiết - Tôi đáp, lắc đầu.
— Phải - Nàng nói - Nhưng tôi muốn anh biết - Thế là tôi gật đầu, và nàng dừng lại, rồi bắt đầu kể.
— Tôi không yêu cha nó. Ngay cả lúc đó. Anh ta không phải là người xấu, nhưng là một gã ngu ngốc, loại người làm những gì khiến anh ta hài lòng và rồi sau đó thấy hối tiếc vì hành động của mình, mọi nỗi buồn và tự hổ thẹn. Anh ta bắt đầu nó, tôi cho là thế, dù tôi hiểu rất rõ anh ta tìm kiếm điều gì ở tôi, và tôi không khuyến khích anh ta. Tôi biết anh ta có vợ, nhưng anh ta tâng bốc tôi, và phần còn lại của câu chuyện giống như một sự bất cẩn. Tôi không chắc tôi đã nghĩ tôi có thể tìm thấy ở nó điều gì. Một lạc thú nào đó, tôi cho là vậy, một cảm giác nào đó.
Nàng nhìn tôi, và tôi hiểu rằng những gì nàng kể với tôi nàng chưa hề kể cho bất kỳ ai khác.
— Không nhiều niềm vui lắm trong chuyện đó, không đối với tôi, thậm chí cũng không đối với anh ta, tôi đoán, nhưng đó không phải là điều tệ nhất. Điều tệ nhất là khi mọi chuyện đã được thực hiện và tất cả đã thay đổi tôi vẫn còn là chính mình. Đôi khi tôi tự hỏi, nếu tôi có lại thời gian đó, tôi có làm chuyện đó hay không? - nếu tôi trung thực với chính mình, tôi biết tôi vẫn sẽ làm, ngoài sự tổn thương mà nó mang tới cho những người gần gũi với tôi.
— Khi kết quả của sự thiếu suy xét của tôi đã rõ ràng, tôi được gửi tới nơi sẽ không ai trông thấy tôi nữa. Một nông trại gần Launceston, do những người bạn của cha tôi từ một thời điểm khác trông nom. Những người tốt, và là người Công giáo nữa. Tôi trải qua một mùa đông ở đó cùng với họ, không khách thăm viếng, bị lãng quên, hoặc có vẻ là như vậy. Cha tôi viết thư cho tôi khi ông có thể, nhưng thư của ông ngày càng thưa thớt trong lúc những tháng giam cầm của tôi trôi qua. Không có lời nào từ Edmund cả, nhưng lúc ấy chuyện đó có vẻ bình thường đối với tôi, vì ngay cả khi chúng tôi còn trẻ, giữ chúng tôi đã không có nhiều cảm tình nồng ấm.
— Đứa bé chào đời vào cuối đông. Tôi sinh nó trong bóng tối ban đêm, được một bác sĩ mời tới từ thị trấn chăm sóc. Khi họ đặt thằng bé vào tay tôi, tôi không biết tôi đã cảm thấy thế nào; một cái gì đó dữ tợn, và giống như đau đớn đến độ tôi nghĩ tôi có thể khóc lên - Nàng đưa tay lên chùi ngang mặt, dù tôi không nhìn thấy giọt nước mắt nào - Tôi gọi nó là Thomas - Nàng nói - Cái tên mà anh mang.
Tôi nghĩ anh tôi cho rằng chúng tôi nên cho đi thằng bé, có lẽ cả cha tôi nữa, rồi đưa tôi trở về với xã hội, vờ như tôi chỉ đơn giản đi xa đâu đó, cho tới khi câu chuyện bị quên đi và tôi có thể kết hôn một cách lặng lẽ. Nhưng khi tôi bế nó trên tay, những ý nghĩ đó không nảy ra trong tôi.
Gần một tháng sau cha tôi mới tới thăm tôi, và khi ông tới tôi hiểu lý do vì sao thư của ông thưa thớt, vì ông đã bị ốm suốt nhiều tháng qua. Nhưng tôi nhìn thấy cách ông bế con tôi và đu đưa nó, cách ông trò chuyện với nó. Ông là một người đàn ông cao quý và tốt bụng, và tôi nhìn thấy niềm vui đối với thằng bé của ông. Ông hứa ông sẽ trở lại, nhưng không bao giờ trở lại nữa, vì ngay trong tuần đó ông bị tai biến mạch máu não, và suốt những tháng sau đó khi còn sống, ông không thể nói hay cử động chân tay.
Sau khi ông chết, anh tôi đưa tôi trở lại Hobart để tôi có thể sống với anh lần nữa. Lúc đầu tôi nghĩ đó có thể là một hành động xuất phát từ lòng tốt, khi có đứa trẻ ở đó, nhưng tôi sớm hiểu ra anh ấy chỉ muốn tôi ở đó để có thể theo dõi tôi sát sao hơn, để tôi không thể gây ra cho anh ấy thêm nỗi nhục nào khác nữa.
Dù Edmund không bao giờ nói chuyện với Thomas, ngoài những lúc anh ấy hông thể làm gì để tránh né việc đó, anh ấy không độc ác với nó. Đó không phải là cách của anh ấy. Thế nhưng Thomas lại tôn thờ anh ấy. Nó là một đứa bé lặng lẽ, không thích chơi đùa với lũ trẻ khác, mà có lẽ tôi thích hơn mức tôi nên. Đó là một điều lạ lùng, bị xua đuổi. Vì có rất ít người muốn gặp tôi, tôi hầu như chỉ sống với chính mình, và việc có thằng bé có rất nhiều ý nghĩa đối với tôi. Rất nhiều, tôi cho là người ta có thể nói thế.
Tuy nhiên, tôi thấy lo âu, vì nó quá thường xuyên ở một mình. Nhưng người quản gia của tôi có một người em trai, một người đàn ông vừa rời khỏi Port Arthur chưa lâu, và anh ta mang theo một con chó con. Nó không xinh đẹp gì mấy, chỉ là một con chó lam nham, nhưng con tôi yêu nó. Nó thường chơi với con chó hàng nhiều giờ, rượt đuổi, chọc cho nó sủa. Điều đó không giống nó chút nào, niềm hạnh phúc này, nên tôi không làm gì để phân cách chúng. Thế rồi một sáng nọ, tôi đi xuống để tìm hai đứa trong sân. Thomas chạy ngược chạy xuôi để con chó đuổi theo. Vì có những người đàn ông trong sân sáng hôm đó và tôi thấy nó có thể gặp rắc rối, tôi bảo nó đi xuống mé dưới ngôi nhà để nó chơi với con chó ở đó, định sẽ đi theo nó ngay. Nhưng rồi tôi nghĩ sẽ đi lấy một cuốn sách, để có gì đó đọc, thế là tôi vào nhà, lên gác để lấy cuốn sách để trong phòng ngủ nơi đêm trước tôi để lại. Nó là một cuốn thơ của Wordsworth.
Khi tôi đi xuống con đường mòn, tôi không thấy nó đâu cả, nhưng tôi có thể nghe con chó sủa. Có một cái lạch nhỏ trong chỗ trũng sau nhà, nước đen thẫm vì chất tanin của những lá cây rụng, thế là tôi đi theo tiếng sủa, tìm con chó và nó. Và tôi nhìn thấy con chó, đứng cạnh bờ lạch, sủa liên tục. Lúc đó tôi biết mà không cần phải thấy, nhận thức về nó mạnh mẽ đến độ tôi nghĩ tôi sẽ nghẹn thở, thế nhưng tôi quẳng cuốn sách xuống, và chạy qua bãi cỏ tới bờ lạch. Và tôi nhìn thấy nó, mặt úp xuống, thân thể nó trôi lềnh bềnh bên dưới mặt nước. Nó không trồi lên, và trong khoảnh khắc tôi nghĩ có thể cứu được nó, vì thế tôi lội xuống. Nước không sâu nhưng rất lạnh, và tôi kéo nó lên bờ, ấn vào ngực nó và thổi vào môi nó, tôi cố đưa hơi thở trở vào người nó. Nhưng chẳng ích gì, vì nó đã chết, chết chìm, và tôi biết. Tôi biết chuyện gì đã xảy ra, rằng mọi chuyện không thể trở lại như trước được.
Khi nàng kể xong, chỉ còn sự im lặng, một khoảng không gian rộng lớn hơn những ngôn từ. Dù nàng không nhìn tôi, tôi biết vai trò của mình là gì, vai trò mà giờ đây tôi nên giữ. Thế nhưng trong lúc tôi nhìn thấy điều nàng cần ở tôi, tôi biết tôi không thể, rằng không có lời lẽ nào chữa được điều này. Vì thế cuối cùng nàng nhìn sang chỗ khác, bàn tay nàng đặt hững hờ lên một bức tranh nằm bên cạnh ngưỡng cửa sổ.
— Tôi muốn giữ bức này, nếu có thể - Nàng nói, quay sang tôi. Mắt nàng ướt đẫm.
Tôi gật đầu, và nàng bước đi. Tôi theo nàng tới cửa. Vào phút cuối, nàng quay lại nhìn tôi.
— Tên của anh - Nàng hỏi - Tên của anh là gì?
— Gabriel - Tôi đáp - Nó là Gabriel.
— Đó là một cái tên đẹp - Nàng nói. Tôi nghĩ nàng sẽ khóc, nhưng nàng chỉ đứng đó, cố kềm chế để không run lên.
— Không ai trong chúng ta không có một quá khứ - Cuối cùng nàng nói,, nghiêng người tới trước và để đôi môi nàng quét nhẹ qua má tôi. Và với một cử động vội vã, nàng quay lại bước đi.
Khi nàng đã đi khỏi, tôi đứng đó hồi lâu, nhìn ra con đường mòn mà nàng đã đi qua. Bên ngoài, ngày sắp tàn, và trên đầu lũ chim chóc đang tụ họp để ngủ đêm, gọi nhau và trò chuyện trong lúc chúng di động giữa những hàng cây, tiếng kêu của chúng vang dậy không trung. Biết bao lần tôi đã nghe chúng như thế, tiếng ríu rít của lũ vẹt Mã-lai, tiếng bay vù vù của những con chim ăn mật, tiếng kêu vang dội của lũ chim ác là. Nó có thể là hôm qua, hoặc ngày mai, mỗi ngày đều như nhau. Đã bao lâu rồi, tôi nghĩ, đã bao lâu rồi tôi sống cô đơn như thế? Nó đè nặng lên tôi và ngột ngạt, một thứ gì đó mà tôi không thể tháo gỡ ra, không thể quên đi, hoặc sống không có nó.
Thi thoảng, khi tôi một mình ngoài đó, trong bụi rậm, hoặc thậm chí ngay ở đây trong nhà tôi, dường như có khả năng rằng tôi có thể đánh mất bản thân; trong sự im lặng đó không cần tới ngôn từ hay luận thuyết. Tôi từng nghe nói có ba người đàn ông đã mất trí vì nó, lý trí bị hút vào không gian đang tan rã của biển và trời. Và thật sự, vào những lúc chốn này đầy sức sống, với cả đoàn người cởi ngựa, ngay cả khi ấy cũng vẫn có một cảm giác trống vắng, như thể một sự thinh lặng xa xưa nào đó đang vương víu trong cấu trúc của chốn này, một cái gì xa lạ, bất khả tri.
Khi đang đứng đây, tôi tự hỏi tôi có mơ thấy họ vào ban đêm hay chăng? Câu trả lời là không, hoặc không thường xuyên. Đúng hơn, tôi ngủ như chết, hầu như không mơ, hoặc không có ai hồi sinh trở lại với tôi từ chốn đó. Thay vì vậy, tôi nhớ tới họ vào ban ngày, khi tôi ở một mình, giữa cây cối và những ngọn đồi. Khi đó họ quay lại với tôi, tập hợp như thể từ một cuộc đời khác. Nhưng ngay cả khi đó tôi vẫn không cảm thấy có tội, chỉ là sự trống rỗng, như thể mọi cảm giác đã bị hút cạn khỏi tôi, và tôi biến thành không có thật, trong suốt như âm thanh của gió trên những hàng cây.
Trên đầu lũ chim chóc đang gọi đàn, tiếng kêu của chúng dường như phủ đầy bầu không khí. Trong lúc tôi quan sát, chúng bay vọt lên, tung cánh giữa bầu trời, lượn tròn như những hòn than hồng hoặc cụm khói giữa không trung. Tôi ghen tị với chúng, cuộc sống này của chúng, cuộc sống rất tự do của chúng. Chúng không có quá khứ, không có tương lai, một cuộc sống phơi phới vỗ nhịp khắp mọi bề, vút lên không gian vô tận. Trong lúc quan sát chúng tôi nhận ra tôi muốn khóc, thế nhưng tôi không còn nước mắt. Và dù sao đi nữa, nước mắt để làm gì chứ? Vì tôi không thể bay liệng như chúng sao? Vì tôi không tự do? Tất cả chúng ta đều được sinh thành như thế này, giờ tôi nhận ra điều đó, sống và chết và sống lại, đôi bàn tay và thân thể là những cái lồng có thể trói buộc cũng như níu giữ. Tôi muốn tung cánh lên như chúng, quên đi bản thân, và được giải thoát. Thế rồi đột nhiên tôi bắt đầu khóc, và tôi nghĩ, tôi hiểu được tái sinh là gì, được tái tạo là gì. Rất nhiều cuộc đời, rất nhẹ.
HẾT