Phần VI
“Vùng đất hủi” Mã Sồ, buổi chiều tối.
Mùa tỉnh dậy thấy mình nằm trong một ngôi nhà sơ sài nhưng khá gọn gàng. Ngôi nhà được dựng bằng những cây gỗ rừng còn cả vỏ, để chạc. Kèo, đòn tay, dui, mè đều được làm từ cây tre hốc, buộc dây mây mật. Mái nhà lợp bằng cỏ gianh chân hương. Nửa gian mái phía trên quá giang là giàn đựng ngô bắp cả bẹ, ghép bằng những cây vầu già. Vách nhà được quây bởi những tấm phên nứa đan lóng đôi. Góc nhà có một bếp lửa đặt ba hòn đá làm chỗ kê nồi. Lửa trong bếp cháy âm ỉ, tỏa hơi ấm khắp gian nhà. Một người đàn bà còn trẻ tuổi đang nấu nồi cháo nhỏ bằng bột ngô nếp. Mùi cháo ngô tỏa ra thơm lừng khiến Mùa ứa nước miếng. Đã mấy ngày nay chẳng có thứ gì cho vào miệng ngoài những quả rừng, lá rừng mà Mùa kiếm được trên đường đi. Mùa bỗng thấy đói cồn cào.
Múc những bát cháo ngô ra bát, chị chủ nhà quay lại phía Mùa nằm. Thấy Mùa đã tỉnh, chị ta vui vẻ gọi chồng:
- Sè Páo à, chị này tỉnh rồi đấy!
Tiếng người đàn ông từ trên giàn đựng ngô nói vọng xuống:
- Thế thì tốt rồi. Mình lấy cháo ngô cho chị ấy ăn!
- Chờ nguội một tí đã.
Mùa tỉnh hẳn, dụi mắt ngơ ngác nhìn chị chủ nhà, nhìn xung quanh. Cặp mắt thâm quầng hướng về phía những bát cháo ngô đang bốc khói nghi ngút. Miệng Mùa khẽ tóm tém. Lát sau Mùa hỏi:
- Chị gì ơi! Đây là đâu? Tôi đang ở đâu?
Chị chủ nhà đến bên chỗ Mùa nằm, đỡ Mùa ngồi dậy, nói nhỏ:
- Tôi tên là Lả, vợ của Sè Páo. Đây là nhà tôi. Nhà tạm thôi, vì chúng tôi mới chuyển từ Mã Lỳ về Mã Sồ được mấy mùa nương.
Nghe thấy cái tên Mã Lỳ, Mùa vội túm tay Lả, hỏi gấp gáp:
- Chị Lả đã từng ở Mã Lỳ thật sao? Thế chị có biết thằng Chứ Đa không? Tôi là mẹ của nó đấy. Tôi từ Sủng Pả sang đây. Tôi đang đi tìm thằng Chứ Đa và Chư Pấu!
Nhìn vẻ mặt hốt hoảng của Mùa, Lả đoán có điều gì đó không bình thường đã xảy ra. Chị nhẹ nhàng hỏi:
- Chị tên là gì? Chư Pấu là ai? Thằng Chứ Đa con chị sao lại đến Mã Lỳ? Nơi ấy có gì hay ho mà đến? - Gương mặt Lả hiện lên nét lo lắng, bồn chồn.
- Tôi là Mùa, vợ của Chư Pấu. Thằng Chứ Đa đi theo cái lão lùn đầu hói thường về Sủng Pả tìm mua thuốc phiện và da lông thú.
Nghe Mùa nói thế, gương mặt trái xoan rất đẹp, lúc nào cũng ửng hồng của Lả bỗng tái đi. Chị run run hỏi, giọng đứt đoạn:
- Cái lão lùn đầu hói ấy có phải là Pủ Sá không?
- Đúng rồi. Lão Pủ Sá. Thằng Chứ Đa con tôi đi theo lão Pủ Sá!
- Vậy thì không hay rồi!
- Sao cơ? Sao lại không hay? - Mùa lo lắng hỏi.
Biết lỡ lời, Lả vội kìm giọng, nói tránh đi:
- Đi xa với người lạ thì không hay bằng đi với người quen chứ sao!
- Chị nói thế thì tôi cũng đỡ lo. Lúc nãy nghe chị nói tôi sợ quá! Cứ tưởng thằng Chứ Đa con tôi đang gặp điều gì nguy hiểm. À, chị Lả ơi! Đường từ đây đến Mã Lỳ có xa lắm không? Đi bộ mất mấy ngày?
- Không xa quá đâu. Đi nhanh chỉ mất độ ba ngày, nhưng đường khó đi lắm. Mà chị cũng chẳng nên đến đấy làm gì! - Nói xong Lả đứng dậy, đi lấy cháo ngô.
Đưa bát cháo cho Mùa, Lả bảo:
- Chuyện về Mã Lỳ nói sau. Bây giờ chị Mùa hãy ăn một bát cháo cho đỡ đói. Chị ăn từ từ thôi kẻo đứt ruột đấy. Người già bảo, đói lâu ngày mà ăn nhiều một lúc là dễ bị đứt ruột lắm!
Mặc dù rất đói nhưng tự nhiên Mùa cảm thấy không muốn ăn. Song để có sức đi tìm con, Mùa cố nuốt lấy vài thìa cháo, miệng thấy đắng ngắt. Câu chuyện về Mã Lỳ chưa biết thực hư thế nào nhưng bước đầu đã có manh mối khiến Mùa thấy vui. Mùa nghĩ, nếu vợ chồng Lả biết đường đến Mã Lỳ thì mình sẽ có cơ hội đến đó để tìm Chứ Đa, song lại cảm thấy lo lắng khi nhìn vào gương mặt Lả thấy có điều gì đó bất an. Nhưng thôi, phải ăn cho lại sức đã. Có sức thì mới đi được. - Ý nghĩ ấy đã giúp Mùa ăn hết được nửa bát cháo.
Đêm ấy Mùa cùng Lả thức trắng trò chuyện. Theo lời Lả kể, trên đường lên nương, vợ chồng chị nhìn thấy Mùa đang nằm bất tỉnh cạnh ụ đất có hình thù như một ngôi mộ mới đắp, nơi có đàn bò rừng động dục vào đúng ngày giông gió. Hai vợ chồng vội làm cáng khiêng Mùa về nhà đánh cảm. Mùa nằm nghe Lả kể, nước mắt rơi lã chã. Mùa cố sức hình dung những ngày vừa qua của mình, nhưng không nhớ được rõ ràng điều gì. Mọi chuyện cứ láng máng, mập mờ, nửa hư nửa thực. Cả đến chuyện bộ xương và đầu lâu Chư Pấu cũng không biết chắc đó là sự thật hay chỉ là cơn ác mộng lúc mình mê man bất tỉnh! Cuối cùng mọi suy nghĩ của Mùa lại trở về với những chuyện liên quan đến Chứ Đa. Mùa hỏi Lả:
- Lả cũng biết lão Pủ Sá à?
Ngập ngừng một lúc, Lả bảo:
- Pủ Sá là chồng cũ của tôi. Lão rất thích gái đẹp, nhưng chơi chán là lão trở mặt. Những năm làm vợ lão tôi khổ hơn cả con bò, con ngựa. Tôi làm lụng, hầu hạ lão suốt ngày và gần như suốt đêm mà lão vẫn không hài lòng. Cứ vài ngày lão lại vô cớ đánh tôi một trận thừa sống, thiếu chết. Tôi chậm có con lão cũng đánh. Mấy năm sau tôi mới có chửa thì lại bị lão đá vào bụng đến nỗi hỏng thai. Thấy lão ác quá tôi phải bỏ trốn. May mà gặp được Sè Páo thương tôi đón về ở cùng, thành chồng vợ. Chúng tôi không thể ở Mã Lỳ vì sợ Pủ Sá trả thù nên bỏ trốn về đây.
Nghe Lả kể, Mùa thấy lo thắt ruột. Linh tính về sự bất an hôm Chứ Đa đi theo Pủ Sá của Mùa đã thành hiện thực. Suốt đêm Mùa cứ trằn trọc nghĩ khôn thì ít, nghĩ dại thì nhiều. Mùa thầm gọi: “Chứ Đa ơi, giờ này con ở đâu? Lão Pủ Sá có làm hại con không? Hãy về với mẹ đi, con ơi!”
Sáng ra Mùa quyết định tìm đường sang Mã Lỳ tìm con. Nhưng vợ chồng Sè Páo không cho đi. Sè Páo nói:
- Chị có tìm thấy thằng Chứ Đa thì cũng không mang nó về được đâu. Pủ Sá ác lắm. Lão đã bỏ công sức đưa Chứ Đa từ Sủng Pả sang Mã Lỳ thì lão không dễ gì cho nó về. Lôi thôi với lão là mất mạng đấy!
Mùa vừa khóc vừa hỏi:
- Thế thì làm sao bây giờ?
Nghe Mùa hỏi thế, vợ chồng Sè Páo nhìn nhau ái ngại. Họ chưa nghĩ được câu gì để trả lời Mùa, cũng chưa biết làm cách nào để cứu Chứ Đa ra khỏi cái vòng ràng buộc vô hình mà hết sức nguy hiểm của Pủ Sá. Không gian như co lại, ngột ngạt, bức bách. Sau tiếng thở dài bất lực, Lả đành nói với Mùa những lời an ủi:
- Theo tôi, chị cứ ở đây một thời gian cho thật khoẻ hẳn rồi ta hãy tính. Mấy hôm nữa Sè Páo có việc sang Mã Lỳ sẽ dò hỏi tung tích của Chứ Đa. Khi biết chắc Chứ Đa đang ở đâu thì ta mới tìm được cách cho Chứ Đa trốn về.
- Phải làm như thế thôi, không khác được đâu chị Mùa ạ! - Sè Páo nói.
Nghe theo lời khuyên của vợ chồng Sè Páo, Mùa đành ở lại. Nhưng trong lòng lúc nào cũng như có lửa đốt. Hàng ngày cùng vợ chồng Lả lên nương vun ngô, vun đậu mà Mùa không vui hơn tí nào. Nỗi thương người chồng thiệt phận, nỗi lo đứa con trai duy nhất hiện thời chẳng biết sống chết ra sao cứ rày vò tâm can Mùa. Người Mùa gầy rộc, gương mặt dịu hiền đọng đầy nỗi buồn lo. Đêm nào Mùa cũng gặp ác mộng. Những giấc mơ khủng khiếp luôn đày ải, khiến nhiều lúc Mùa hoảng loạn như một kẻ điên.
Nhiều đêm vì sợ gặp ác mộng, Mùa không dám ngủ, lặng lẽ ngồi tựa lưng vào tấm liếp, nhìn ánh lửa lập loè nơi góc bếp, nghĩ ngợi mông lung. Mùa nghĩ: Mình cần phải đi khỏi nơi này, dù trong lòng mình rất thiện cảm và biết ơn đôi vợ chồng trẻ có tấm lòng nhân ái, nhưng mình không thể ở lại thêm được nữa. Mục đích chính của mình là đi tìm chồng, tìm con. Nay chưa biết chồng, con sống chết thế nào mà mình cứ ở lại đây thì làm sao mà yên lòng được. Mình cũng thấy trong người khoẻ ra nhiều rồi, có thể tự đi tiếp được. Sè Páo nói mấy bữa nữa sẽ về Mã Lỳ để dò hỏi tung tích Chứ Đa, nhưng như vậy thì nguy hiểm lắm. Nhỡ đâu Sè Páo bị Pủ Sá bắt thì sao? Đời Lả đã khổ quá rồi, may mà gặp được người chồng tốt như Sè Páo để làm chỗ dựa. Nếu Sè Páo lại gặp phải chuyện chẳng lành thì Lả sống sao nổi? Mình không thể trông chờ mãi vào vợ chồng Sè Páo. Mình phải ra đi. Không thể để cho những người tốt như Lả, như Sè Páo phải khổ thêm nữa vì mình.
❖ ❖ ❖
Sáng nay Mùa kêu mệt, bảo vợ chồng Lả cứ đi làm nương, còn mình thì ở nhà lo cơm nước, lợn gà. Thấy vậy Lả lo lắng hỏi:
- Chị Mùa ốm à?
- Tôi không sao đâu. Đêm qua mất ngủ nên mệt chút thôi!
Sờ trán Mùa thấy không nóng, không lạnh, Lả yên tâm cùng chồng đeo quẩy tấu lên nương. Nhưng khi nhìn vào mắt Mùa, Lả thấy có điều gì không ổn. Trên đường lên nương, Lả bảo chồng:
- Chị Mùa nhất định có chuyện gì nên trông khác lắm.
- Chắc chẳng có chuyện gì đâu. Chị ấy mệt và nhớ con thôi mà! - Sè Páo nói.
- Không, tôi nghĩ nhất định chị ấy đang giấu vợ chồng mình điều gì.
- Có gì mà giấu. Chị ấy nhớ con, lo nghĩ quá nên sinh ra thế.
Lời Sè Páo giúp cho Lả có phần yên tâm. Nhưng trong lòng chị vẫn cứ thấy bất an. Linh tính mách bảo Lả về một điều gì đó mơ hồ, cứ lởn vởn trước mắt chị.
Vun được một phần nương ngô, Lả gọi chồng:
- Sè Páo à, hôm nay về sớm thôi. Tôi đau cái lưng, mỏi cái gối rồi!
Trên đường về, thấy Lả đi nhanh, Sè Páo nói:
- Mỏi gối mà sao đi nhanh thế?
- Xuống dốc mà.
Lả nói vậy là để Sè Páo khỏi chú ý, chứ thực lòng chị rất lo lắng. Linh tính mách bảo có điều gì không hay đã xảy ra với Mùa khiến Lả rất vội vã. Đôi chân của chị bước nhanh hơn thường ngày.
Vợ chồng Sè Páo bần thần cả người khi thấy nhà cửa vắng teo, bếp núc lạnh tanh. Lũ lợn từ ngoài vườn thấy bóng người liền chồm chỗm chạy vào, kêu toáng lên đòi ăn. Đàn gà nháo nhác bới móc lung tung. Đi khắp quanh nhà chẳng thấy Mùa đâu, Lả nói với chồng:
- Tôi đoán đúng mà. Chị Mùa bỏ đi rồi. Mình phải đi tìm thôi!
Hai vợ chồng Sè Páo vội vã đi về hướng Mã Lỳ. Họ đi như chạy vì thấy có điều bất ổn. Linh tính đã không đánh lừa họ. Sau khi vượt qua ngọn núi cao, Lả nhìn xuống khe núi thấy Mùa đang nằm bất động dưới một lùm si đá. Vợ chồng Sè Páo vội tụt xuống chỗ Mùa nằm. Toàn thân Mùa xây xước như bị gấu cào, áo váy rách bươm. Máu trên đầu Mùa chảy ra bết cả một mảng tóc. Khó khăn lắm vợ chồng Lả mới lôi được Mùa lên khỏi khe núi. Họ khiêng Mùa về tắm rửa, chăm sóc các vết thương, thay áo váy. May mà vết thương ở đầu Mùa không quá nặng, chân tay không bị gẫy. Nhưng hình như cú ngã của Mùa khá mạnh nên toàn thân mềm nhũn. Lả bảo chồng lấy mật gấu khô hoà rượu đổ vào miệng Mùa, phần còn lại Lả xoa khắp các vết bầm tím trên thân thể Mùa.
Nửa giờ sau Mùa tỉnh, ngơ ngác nhìn mọi người. Bỗng Mùa bật cười khanh khách. Cười một cách man dại. Cười chán lại khóc tu tu như trẻ nhỏ bị đánh đòn. Lả hỏi gì Mùa cũng không biết, không nhớ. Mùa nhìn Lả, nhìn Sè Páo bằng cặp mắt của kẻ xa lạ. Vợ chồng Lả nhìn Mùa ái ngại. Họ hiểu rằng Mùa đã bị chấn thương ở đầu nặng đến mức quên hết tất cả!
Sè Páo lắc đầu bảo vợ:
- Chị Mùa bị mắc “bệnh quên” rồi! Mai tôi phải đi tìm thầy lang về chữa bệnh cho chị Mùa thôi. Không biết thầy lang có chữa được “bệnh quên” không nhỉ?
- Chưa chữa bao giờ nên không biết. Phải thử thôi. À, mà tìm thầy lang ở đâu?
- Đi tìm khắc thấy. Nếu về Sủng Pả không có thì đến tìm nơi khác. Vừa tìm vừa hỏi nhất định sẽ thấy được thầy lang.
Mắt Lả chợt sáng lên. Chị nói với chồng:
- Hay là mình tìm đến A Pa? Hồi trước ở Mã Lỳ chính mình đã đón ông ấy đến bắt mạch, bốc thuốc chữa bệnh cho tôi. Nhưng mà... - Lả bỗng lưỡng lự.
- Mà sao? - Sè Páo sốt ruột hỏi.
- Tôi chỉ lo mình đến Mã Lỳ tìm A Pa mà gặp Pủ Sá thì nguy hiểm lắm! Hay là cứ về Sủng Pả trước đã.
- Thế cũng được. - Sè Páo gật đầu.
Lả nhìn chồng bằng cái nhìn rất đỗi yêu thương. Chị bỗng thấy cuộc đời mình thật may mắn khi gặp được Sè Páo. Ngày Lả bị Pủ Sá đá vào bụng khi đang mang thai, những tưởng sẽ chết trong đau đớn và tuyệt vọng thì chị gặp được Sè Páo - người làm thuê cho Pủ Sá. Tuy tướng mạo Sè Páo trông khá dữ dằn song thật ra anh rất hiền lành, tốt bụng và thường nghe lời vợ. Sau này Lả được nghe Sè Páo kể lại, hồi còn ở Mã Lỳ, hằng ngày đi làm trông thấy Lả lầm lũi phục dịch Pủ Sá mà vẫn bị lão chửi rủa, đánh đập, anh xót lắm. Anh luôn ước có một người vợ như Lả nhưng trời chưa cho. Những lúc Pủ Sá đi vắng Sè Páo đã nhiều lần tìm cách đến gần Lả, định nói cho Lả biết tình cảm của mình, nhưng lại không dám vì sợ nếu lộ ra thì sẽ khổ cho Lả. Nhưng hình như có sự sắp đặt của trời, hai người đã đến với nhau từ cái lần Lả bị hỏng thai. Lả còn nhớ rất rõ lúc chị đang ôm bụng quằn quại, máu chảy lênh láng suốt từ đùi xuống bắp chân, Sè Páo ở đâu lao đến, bất chấp mọi nguy hiểm cõng Lả về lều của mình, rồi chạy đi tìm A Pa. Biết chuyện, Pủ Sá bực lắm. Lão định đến căn lều của Sè Páo bắt Lả về, nhưng nhìn thấy A Pa ở đó lão không dám làm gì, đành để cho Lả và Sè Páo được yên. Ở vùng đất Mã Lỳ này A Pa được rất nhiều người nể trọng, kể cả Pủ Sá. Mặc dù A Pa đã cố gắng hết sức nhưng cái thai trong bụng Lả vẫn không giữ được. Những ngày sau đó Sè Páo vác nỏ vào rừng tìm bắn gà rừng, bắn chim cu về nấu cháo bồi dưỡng cho Lả. Khi Lả khoẻ lại, Sè Páo rủ Lả trốn khỏi Mã Lỳ về đây. Từ đó họ sống với nhau như vợ chồng, yêu thương nhau hết mực. Lả nghĩ, hình như Ông Trời đã nhận ra sự bất công của mình trước đây khi để cho Lả phải chịu nhiều cái khổ, và bây giờ ông ấy cho Sè Páo đến để bù đắp, sửa sai cái lỗi của mình? Có lẽ thế thật, vì Lả mất mẹ từ khi chị mới biết đi chăn bò. Lả còn nhớ hồi ấy mẹ bị lên một cái mụn to như quả bí đỏ ở giữa lưng. Người mẹ gầy rộc như que củi. Thầy lang lắc đầu bảo có bao nhiêu chất bổ trong người mẹ đều dồn về nuôi cái mụn ấy hết, không chữa được nữa! Cha đón thầy mo về cúng con ma, nhưng con ma vẫn bắt mẹ đi vào đúng ngày cái mụn khủng khiếp ấy vỡ ra. Mẹ mất được một năm thì cha lấy dì ghẻ về nhà. Mới đầu dì ghẻ còn thương Lả, đến khi dì có em bé thì Lả bị dì hành hạ khổ sở như một đứa đi ở. Chính dì ghẻ là người đã ép buộc Lả làm vợ Pủ Sá để nhận từ tay lão một túi bạc trắng! Lả tưởng cuộc đời của mình sẽ chết dần chết mòn trong tay Pủ Sá thì thật may chị gặp được Sè Páo. Họ cùng nhau dựng nghiệp từ hai bàn tay trắng trên vùng đất Mã Sồ ẩn chứa nhiều điều lạ.
❖ ❖ ❖
Xưa kia Mã Sồ được gọi là “vùng đất hủi”. Người già kể lại, có một nhóm người hủi dễ đến mấy chục người, cả đàn ông đàn bà, cả già lẫn trẻ, không biết ở đâu kéo về đây sinh sống. Họ dựng một ngôi nhà bằng gỗ rừng và tre nứa, sống chen chúc trong đó. Hàng ngày họ vào rừng đào củ mài, hái rau quả về làm thức ăn chung cho cả nhóm. Đêm đêm, từ ngôi nhà của nhóm người hủi phát ra những âm thanh ỉ ôi, não nuột, rên rỉ cứ như thể tiếng khóc của ma quỷ. Sáng ra, khi ông mặt trời bắt đầu nhô khỏi đỉnh ngọn núi cao nhất, chiếu những tia nắng ấm áp xuống nóc nhà của họ, thì cũng là lúc nhóm người hủi bị những cơn ngứa khủng khiếp hành hạ. Họ vội chạy ra rừng, mỗi người ôm lấy một thân cây, ra sức cọ xát những ngón tay bị “con hủi” ăn cụt gần hết, đỏ hon hỏn vào thân cây cho đến khi tứa máu, đỡ cơn ngứa mới thôi. Nhìn thấy cái cảnh kinh hồn ấy, người dân ở các vùng lân cận quanh Mã Sồ cứ truyền tai nhau, rồi thêu dệt lên đủ chuyện nghe rất hãi hùng. Từ đó chẳng ai dám đến gần khu vực Mã Sồ, mặc dù ai cũng thấy tiếc cái vùng đất màu mỡ ấy. Sau này chẳng ai biết số phận của nhóm người hủi ấy ra sao, chỉ còn nghe thấy những lời đồn kinh hãi về một “vùng đất hủi”.
Vợ chồng Sè Páo cũng đã từng được nghe đồn về “vùng đất hủi” này, nhưng họ vẫn chọn Mã Sồ làm nơi sinh sống, vì họ nghĩ, cái tin đồn kia cũng chỉ là tin đồn chứ chưa có gì đảm bảo là có thật. Vả lại, nếu chuyện về “nhóm người hủi” có thật đi chăng nữa thì cũng chẳng sao, vì chuyện đó xảy ra cách đây đã hàng trăm năm, còn gì mà phải sợ. Dựng nhà, lập nghiệp ở đây vừa là để có nhiều đất làm nương mà không sợ bị ai tranh giành, vừa là để tránh được sự bức hại của những kẻ xấu, nhất là Pủ Sá. Lả biết chắc rằng, Pủ Sá cũng đã được nghe tin đồn về “Vùng đất hủi” rồi. Hồi chị còn làm vợ Pủ Sá, đã có lần nghe lão kể chuyện với đồng bọn, rằng lão sợ hết hồn khi đi mua thuốc phiện và lông da thú bị lạc vào gần nơi có mả hủi! Lão sợ lây bệnh hủi đến nỗi phải ra suối nước ngâm mình cả ngày, tắm chán lại lên bờ vận khí công cho “toát hết hơi hủi”, rồi lão uống cả vò rượu nặng, ăn hàng vốc ớt chỉ thiên để… tẩy độc!
Thoạt đầu vợ chồng Sè Páo cũng hơi ái ngại khi thấy “vùng đất hủi” mọc toàn một thứ cỏ gianh. Đây là thứ cỏ rất quái ác, cứ cắt, đốt đi vài hôm thì nó lại mọc lên tua tủa. Những cái mầm của nó nhọn hoắt như lông nhím, cứng như tên, chọc thẳng trên mặt đất như thách thức. Ai chẳng may nhẵm phải chúng thì thủng cả bàn chân. Nhưng bù lại, nơi nào cỏ gianh mọc nhiều thì đất đai ở nơi ấy thường bằng phẳng, ít đá. Một hôm Sè Páo đang cuốc đất trên bãi cỏ gianh mới đốt thì trời đổ mưa rào. Sau trận mưa, rễ cỏ gianh nổi trắng khắp mặt đất. Vợ chồng Sè Páo chỉ việc nhặt chất thành đống, đợi khi nào chúng khô sẽ đốt. Nhưng chỉ mấy hôm sau đống rễ trắng ấy đã thâm đen và nhũn hết. Thế là Sè Páo phát hiện ra được một cách diệt cỏ gianh khá dễ dàng mà không tốn nhiều sức. Cứ hôm nào có mưa rào thì vợ chồng anh lại tranh thủ cuốc lật đất cho mưa xối. Tạnh mưa rễ cỏ gianh trơ ra, họ nhặt chất lại thành đống để chúng tự thối rữa. Vụ đầu vợ chồng Sè Páo trồng khoai lang. Khi khoai lên kín luống thì cả nương đất rộng không còn sót một mầm cỏ gianh nào. Vợ chồng Lả mừng lắm, bởi thông qua việc làm nương mà họ đã có được cách thức diệt cỏ gianh rất hữu hiệu, không còn phải sợ loài cỏ quái ác này như trước nữa!
Nương rộng, đất tốt cùng với sự làm lụng chịu khó đã giúp cho vợ chồng Lả thu được nhiều ngô, đậu và các loại rau củ quả, chẳng lo thiếu cái ăn. Sẵn đó nuôi được nhiều lợn, nhiều gà. Sè Páo phấn khởi nói với vợ: Cứ đà này, nếu trời cho khoẻ mạnh thì chả mấy chốc vợ chồng mình sẽ trở nên sung túc. Hoá ra “vùng đất hủi” này lại là “mảnh đất tốt” của nhà mình. Lả nghe chồng nói, thấy rạo rực trong lòng. Chị nhìn nhanh xuống cái bụng đã bắt đầu lùm lùm của mình.
Lả bỗng ước, giá có thêm những cặp vợ chồng khác nữa đến Mã Sồ sinh sống thì vui biết mấy. Cả một vùng đất đai rộng lớn này chỉ có mỗi nhà mình ở cứ thấy lẻ loi, trống trải làm sao! Rồi Lả nghĩ, hình như ông trời thương vợ chồng mình nên đã cho chị Mùa đến đây với mình. Nếu sau này chị Mùa tìm thấy thằng Chứ Đa thì mình sẽ khuyên chị ấy ở lại đây luôn không về Sủng Pả nữa. Ở đó chỉ toàn là đá, trồng cây gì cũng khó lên, nuôi con gì cũng không lớn thì khổ lắm. Có thêm mẹ con chị Mùa ở cùng thì sẽ rất vui. Mà chẳng biết chị ấy có nghe lời mình không nhỉ? Thôi, việc đó tính sau. Việc cần tính bây giờ là làm sao sớm tìm được thầy lang để chữa “bệnh quên” cho chị Mùa cái đã. Ngày mai mình phải giục Sè Páo đi lo việc này mới được.
Sè Páo về Sủng Pả tìm thầy lang để bốc thuốc chữa “bệnh quên” cho chị Mùa, nhưng thầy lang nào cũng lắc đầu. Họ đều nói chung một giọng, kiểu như: Loại “bệnh quên” này uống thuốc Nam không khỏi được đâu. Đó là bệnh do ma quỷ làm, may ra chỉ có thầy mo mới có thể đuổi được con ma ra khỏi cái đầu người bệnh.
Nghe lời các thầy lang, Sè Páo đi tìm thầy mo về cúng con ma cho chị Mùa. Khi nghe Sè Páo nói nguyên nhân khiến người bệnh mắc “bệnh quên” là do bị ngã, các thầy mo lại bảo: Bị ngã đập đầu rồi mắc “bệnh quên” thì chẳng phải do ma quỷ làm đâu. May ra chỉ có thầy lang mới chữa được. Thầy mo chúng tôi chỉ biết cúng đuổi con ma thôi!
Thầy lang nói một đằng, thầy mo nói một nẻo thì biết nghe ai đây? Chẳng lẽ cứ để chị Mùa lúc nhớ, lúc quên như thế này mãi sao? Nhỡ đâu đến lúc tìm thấy thằng Chứ Đa mà chị ấy không nhận ra con mình thì thật là tội nghiệp. Vậy phải làm thế nào bây giờ? Câu hỏi ấy cứ luẩn quẩn trong đầu Sè Páo mà chưa tìm được câu trả lời, khiến anh đâm lo.
Điều lo lắng của Sè Páo càng tăng lên khi cái bụng của Lả ngày một to. Sè Páo lo rằng, khi Lả đẻ con mà chị Mùa chưa khỏi bệnh thì không biết mình sẽ xoay sở thế nào? Ở Mã Sồ này chỉ có vợ chồng anh và chị Mùa, mà chị Mùa lại như thế thì biết nhờ ai đây? Đối với Sè Páo, việc làm nương hoặc những công việc nặng nhọc khác anh không hề ngại, nhưng cái việc chăm sóc người ốm và đàn bà đẻ thì anh thấy mình rất vụng về, ngốc nghếch. Sè Páo mồ côi cha mẹ từ nhỏ, được một người bác họ đón về nuôi để chăn bò cho nhà ông ta. Khi Sè Páo đến tuổi vỡ tiếng, trong một lần chăn bò trên nương, con bò chửa nhà bác ấy đẻ ra một cái bọc. Giá như lúc ấy Sè Páo biết cách xé cái bọc đó ra thì sẽ cứu được con bê. Nhưng Sè Páo lại tưởng bò đẻ ra quái thai, sợ quá vội chạy về nhà gọi bác. Khi bác chạy lên tới nơi thì cái bọc đó không còn động đậy nữa. Con bê trong bọc đã chết! Tiếc của, người bác tát Sè Páo một cái đến nổ đom đóm mắt, rồi đuổi đi. Sè Páo đi rồi mà vẫn còn nghe tiếng bác mình rủa sau lưng: “Thằng ăn hại. Đồ ngốc nghếch!”. Từ đó cứ hễ ai nói đến chuyện đẻ đái là Sè Páo sợ. Sau lần ấy, Sè Páo bỏ nhà đi theo bạn bè sang Mã Lỳ làm nghề phơi da lông thú thuê cho Pủ Sá, rồi gặp Lả.
Nghe chồng nói về nỗi lo ấy, Lả bảo:
- Mình không phải lo thế đâu. Khi đẻ con tôi chỉ cần nằm mấy ngày là lại dậy để lo cơm nước cho mình và chị Mùa được rồi. Tôi vẫn nhớ bài thuốc dùng cho bà đẻ mau sạch máu và nhanh lại sức. Bài thuốc ấy do mẹ truyền lại cho tôi từ trước ngày tôi lấy Pủ Sá. Mình còn nhớ cái lần tôi bị sảy thai ở bên Mã Lỳ không? Hồi đó, khi có chửa được mấy tháng tôi đã tranh thủ vào rừng lấy cây thuốc đem về phơi khô cất đi để khi đẻ sẽ đun nước uống. Khi truỵ thai tôi đã uống thuốc đó, nhờ thế nên mới nhanh lại sức được như vậy. Hôm nào đi rừng tôi sẽ chỉ các cây thuốc ấy cho mình biết để mình lấy sẵn về, đến khi tôi đẻ đem đun uống cho chóng khoẻ. Tôi thấy chị Mùa dạo này cũng đã khá hơn rồi. Chị ấy chỉ bị “bệnh quên” chứ không bị ốm. Đến lúc tôi đẻ em bé có khi chị ấy tự khỏi cũng nên. Người già bảo, phụ nữ bị điên, bị dại khi gặp trẻ con vẫn biết cách chăm sóc chúng. Trời sinh ra cái bản tính ấy cho đàn bà. Mình cứ để ý mà xem tôi nói có đúng không. Gần đây tôi thấy chị Mùa đã nhớ lại được một vài thứ.