Chương 1 VUA CỦA HOẠT ĐỘNG TÌM KIẾM VÀ CỨU NẠN
Red Wegener tự nhủ, nhìn con tàu này không ai là không cảm thấy tự hào. Panache, Con tàu tuần tra của Lực Lường Phòng Vệ Bờ Biển, là một con tàu có lỗi thiết kế nhưng nó là tàu của ông. Thân tàu được sơn màu trắng, chói lọi như một tảng băng – chỉ có phần mũi tàu có một vệt màu đỏ cam, cho thấy nó thuộc Lực lượng Phòng vệ Bờ biển Hoa Kỳ. Dài 280 feet, Panache không phải là con tàu lớn, nhưng nó là con tàu của ông, con tàu lớn nhất mà ông từng chỉ huy và chắc chắn cũng là con tàu cuối cùng dưới quyền chỉ huy của ông. Wegener là trung úy, chỉ huy lớn tuổi nhất trong Lực lương phòng vệ bờ biển, nhưng ông là Anh Hùng. Vua của các nhiệm vụ Tìm kiếm và Cứu nạn
Khởi đầu sự nghiệp của ông cũng giống như nhiều thành viên trong đội. Một thanh niên trẻ đến từ một trang trại trồng lúa mỳ ở Kansas vốn chưa bao giờ nhìn thấy biển đã đăng ký vào Lực lượng cứu hộ của Lực Lượng phòng vệ bờ biển ngay sau khi tốt nghiệp cấp 3. Anh không muốn đối mặt với một cuộc đời chỉ có máy kéo và máy gặt và cuối cùng đã tìm được một nơi khác hoàn toàn so với Kansas. Viên hạ sỹ quan của lực lượng hòng vẹ không cần tốn quá nhiêu lời nói nhảm, một tuần sau anh bắt chuyến xe buýt đến Cape May, New Jersey. Ông vẫn còn nhớ người trung sỹ mà ông đã gặp sáng hôm đó đã nói với ông về tín điều của Lực Lượng phòng vệ bờ biển “Nghĩa của của các anh là ra khơi. Các anh không có nghĩa vụ quay về”
Những gì Wegener tìm thấy ở Cap May là ngôi trường đích thực nhất và cuối cùng của những thủy thủ trong thế giới phương tây. Ông học cách sử dụng dây cáp và nút thắt thủy thủ, cách dâp lửa, cách xuống biển để cứu những người không biết bơi hoặc đang hoảng sợ khi rơi xuống nước, cách làm việc sao cho thành công ngay lần đầu tiên, mọi lúc- hoặc sẽ gặp rủi ro không thể quay về. Sau khi tốt nghiệp, ông được bổ nhiệm đến Bờ Tây. Thăng chức trong chưa đầy một năm, lên trung sỹ tam cấp
Từ lâu, mọi người đều công nhận rằng Wegener có đôi mắt thủy thủ tài năng hiếm có nhất, đôi mắt đích thực của một thủy thủ. Đây là một thuật ngữ rất rộng, có nghĩa rằng tay, mắt và não của ông cùng hoạt động phối hợp nhuần nhuyễn trong quá trình chèo thuyền để con thuyền hoạt động tốt nhất. Được sự chỉ dẫn của một thủy thủ già lão luyện, anh nhanh chóng “chỉ huy” một con thuyền tuần tra bến cảng dài 30 feet “của riêng mình” Khi gặp những nhiệm vụ thực sự khó khăn, trung sĩ trưởng thường tháp tùng thuyền và quan tâm sát sao đến viên sỹ quan thượng- sĩ- mười- chin- tuổi. Wegener đã chứng minh ngay từ đầu rằng anh là một chàng trai trẻ đầy triển vọng chỉ cần học một lần là nhớ. 5 năm đầu tiên vào quân ngũ là 5 năm học tập với thời gian trôi thật nhanh. Trong khoảng thời gian này không có gì đặc biệt hứng thú, chỉ có một loạt việc phải làm theo quy luật, nhưng anh đều làm tốt và trôi chảy. Vào lúc anh cân nhắc và quyết định kéo dài thời gian quân ngũ, mỗi khi phải hoàn thành công việc gì khó khăn thì tên của anh luôn xuất hiện đầu tiên. Trước khi kết thúc kỳ phục vụ quân ngũ thứ hai, các sỹ quan thường hỏi ý kiến anh về mọi việc. Vào năm 30 tuổi, anh trở thành một trong những thuyền phó trẻ nhất trong lực lượng bảo vệ bờ biển và anh là một trong những người có tầm ảnh hưởng đến vài người, và sau cùng là chỉ huy của tàu Invincible, một con tàu dài 48 feet nổi tiếng về sự cứng cáp và đáng tin cậy. Bờ biển California đầy bão là nhà của nó. Chính tại đây, Wegener trở nên nổi tiếng bên ngoài lực lượng bảo vệ bờ biển. Mỗi khi ngư dân hoặc người lái du thuyền gặp khó khăn, Invicible dường như luôn có mặt ở đó. Nó giống như một chiếc xe tuần tra trên một con đường mòn biển rộng ba mươi thước, với thủy thủ đoàn giữ dây thừng và dây đai an toàn tại chỗ-nhưng khi cần, nó luôn xuất hiện ở đó và sẵn sàng hành động với viên thuyền trưởng tóc đỏ giữ lái, với một điếu thuốc không châm lửa trong miệng. Trong năm đầu tiên ah đã cứu sống ít nhất 15 người.
Trước khi anh kết thúc kỳ tuần tra trên trạm cô độc này thì số người được anh cứu lên đến con số 50. Hai năm sau, anh giữ chức trạm trưởng trạm tuần tra và nhận danh hiệu đáng mơ ước của mọi thủy thủ – Thuyền Trưởng – dù anh chỉ là Thượng Sỹ cấp hai. Trạm tuần tra của anh nằm trên bờ của một con sông nhỏ đổ ra đại dương lớn nhất thế giới. Anh quản lý trạm này rất trật tự như bất kỳ con tàu nào. Các sĩ quan đến kiểm tra không phải để xem Wegener quản lý như thế nào, mà để xem mọi thứ nên được quản lý như thế nào
Không biết là tốt hay dở, kế hoạch sự nghiệp của Wegener đã thay đổi với một con bão mùa đông hiếm hoi ở bờ biển Oregon. Lúc đó anh đang phụ trách một trạm cứu hộ lớn hơn ở gần cửa song Columbia và vựa cát khét tiếng của nó. Anh nhận được điện kêu cứu từ một tàu đánh cá viễn dương tên Mary-Kat: động cơ và bánh lái đều bị hỏng, con tàu đang lao thẳng đám tàu đang đỗ gần bờ. Dưới sự chỉ huy của anh, con tàu Point Gabriel dài 82 feet đã rời bến trong 90 giây, trong khi một tổ hợp các cựu chiến binh và đám học viên đang thắt dây an toàn thì anh sử dụng kênh radio riêng để tiến hành công tác cứu hộ
Đó là một cuộc chiến ly kỳ. Sau 6 giờ vất vả, Wegener mới cứu được 6 ngư dân trên tàu Mary- Kat, nhưng một cơn sóng to ấp vào thuyền anh. Và ngay khi ngư dân cuối cùng được cứu lên thì tàu Mary-Kat va vào đá ngầm và vỡ làm hai
Thật tình cờ may mắn, trên thuyền hôm đó có một phóng viên, nhà báo trẻ này đang làm việc cho tờ Portland Oregonian và là một người lái du thuyền có kinh nghiệm. Anh ta tin rằng mình có hiểu biết sâu sắc về những bí ẩn của biển cả. ại khu vực bãi cát ở cửa song Colombia, vị phóng viên đã nôn thốc nôn tháo khi chiếc tàu bang qua những ngọn đồi sóng khổng lồ, nôn cả vào cuốn sổ ghi, rồi lau nó bằng chiếc áo khoác Mustang của mình và vẫn tiếp tục viết. Sau đó, anh ta đã xuất bản một loạt bài báo có tựa đề “The Angel of the Bar” (Thiên Thần của những ngọn sóng) và thắng giải Pulitzer cho loạt bài này
Tháng sau, tại Washington, thượng nghị sỹ Mỹ đại diện bang Oregon, người có cháu trai là thủy thủ trên tàu Mary-Kat, đã nói to rằng tại sao một nhân viên tốt như Red Wegener lại không được thăng chức là sỹ quan. Tư lệnh lượng lượng bảo vệ bờ biển đang có mặt tại thời điểm đó để thảo luận về ngân sách của lực lượng, và cuộc thảo luận này đã thu hút sự chú ý của vị tướng bốn sao. Vào cuối tuần, Red Wegener được bổ nhiệm làm trung úy – thượng nghị sĩ nói rằng anh ta đã quá già để có thể làm thiếu úy. Ba năm sau, ông được đề nghị giữ chức vụ chỉ huy cao hơn.
Vị tư lệnh cho rằng chỉ còn một vấn đề. Ông chỉ còn một vị trí chỉ huy duy nhất – tàu Panache – nhưng con tàu này có vẻ như hỗn hợp may mắn và rủi ro. Con tàu cao tốc này sắp hoàn thành. Ban đầu nó là chiếc đầu tiên của loại tàu mới, nhưng do kinh phí bị cắt giảm, nhà máy đóng tàu đã ngừng sản xuất và thuyền trưởng được lệnh chỉ huy con tàu cảm thấy nhẹ nhõm vì công việc dở dang và mình không phải chỉ huy con tàu này. Điều đó khiến Lực Lượng Bảo Vệ Bờ Biển phải gánh một con tàu dở dang với động cơ không hoạt động, trong một xưởng đóng tàu đã ngừng hoạt động. Nhưng vị tư lệnh quyết định rằng Wegener sẽ thực hiện được những điều kỳ diệu. Để biến đây là một cơ hội công bằng, ông đã giao cho Wegener một số trung sỹ suất sắc để hỗ trợ các sỹ quan còn ít kinh nghiệm trên thuyền
Khi Wegener đến cổng xưởng đóng tàu, anh bị đám công nhân giận dữ chặn lại và vào lúc vượt qua được đám người đó, anh tin rằng chẳng còn điều gì tồi tệ hơn có thể xảy ra. Sau đó anh nhìn thấy cái được gọi là tàu cao tốc. Đó là một món đồ thủ công làm bằng thép, có đầu nhọn và đầu cùn, sơn chỉ mới sơn được một nửa, có dây cáp và thùng rác chất thành đống khắp nơi, giống như một bệnh nhân chết trên bàn mổ và bị thối rữa. Nếu tất cả những điều này không đủ tệ thì Panache thậm chí còng không thể hạ thủy- điều cuối cùng một công nhân đã làm là đốt cháy máy cẩu, chắn ngay đường ra.
Viên thuyền trưởng tiền nhiệm đã ra đi trong ô nhục. Tất cả các thành viên thủy thủ đoàn được chỉ định và tập hợp để chào đón Wegener trông giống như một nhóm trẻ em bị buộc phải tham dự đám tang của một người chú mà họ không thích. Và khi Wegener cố nói chuyện với họ thì micro lại trục trặc. Bằng cách nào đó nó giúp phá vỡ bầu không khí khó chịu. Anh mím miệng, cười nhẹ rồi vẫy tay chào mọi người tiến lại gần mình
“Mọi người” anh nói “tôi là Red Wegener. Trong vòng 6 tháng, đây sẽ là con tàu tốt nhất trong Lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ. Trong vòng 6 tháng các bạn sẽ là đội thủy thủ tốt nhất trong lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ. Không phải tôi biến điều này thành sự thực mà chính là các bạn – và tôi sẽ giúp 1 chút trong đó. Bây giờ, trong khi tôi xem xét sắp xếp xem chúng ta cần làm gì thì mọi người cứ thoải mái nghỉ ngơi. Chúc mọi người có thời gian vui vẻ. Khi quay lại thì chúng ta sẽ bắt đầu làm việc. Giải tán”
1 loạt tiếng “ồ” vang lên, họ tưởng sẽ nghe thấy tiếng la mắng, la hét ầm ĩ. Các tân binh sỹ nhìn nhau đầy phấn khích, và những sĩ quan trẻ đang nghĩ đến việc kết thúc sự nghiệp trong quân ngũ cũng sửng sốt và ngơ ngác quay trở lại căn nhà của sĩ quan. Trước khi gặp lại họ, Wegener kéo ba trung sĩ đứng đầu sang một bên nói chuyện “Chúng ta phải sửa động cơ trước”
“Tôi có thể giữ nó ở mức 50% công suất mọi lúc, nhưng nếu anh cố sử dụng tăng áp thì mọi thứ sẽ kết thúc sau 15 phút” trung sỹ Owens thông báo “và tôi không biết tại sao” Mark Owens đã làm việc với động cơ diesel tàu thủy 16 năm rồi
“Anh có thể đưa chúng ta đến vịnh Curtis Bay không?”
“Miễn là anh không ngại mất them 1 ngày, thuyền trưởng”
Wegener thả qua bom đầu tiên “Tốt- vì chúng ta sẽ khởi hành trong 2 tuần tới và chúng ta sẽ hoàn thành việc lắp ráp tại đó”
“Sẽ mất 1 tháng thì động cơ mới mới sẵn sàng cho chiếc cần cẩu đó, sir” trung sỹ Bob Riley nói
“Cần trục có quay được không?”
“Động cơ của cần trục bị cháy rồi, thuyền trưởng”
“Lúc đó, chúng ta sẽ buộc một sợi dây cáp từ mũi tàu đến đầu sau của tay cẩu. Chúng ta chỉ còn cách mặt nước 75 feet thôi. Chúng ta sẽ đặt ly hợp lên cần trục và kéo về phía trước thật nhẹ nhàng, và tự quay cần trục, sau đó quay trở lại” vị tân thuyền trưởng thông báo, mắt nheo lại
“Có thể bị vỡ” Riley
“Nó không phải là cẩu trục của tôi, chúa ơi, đây là tàu của tôi”
Riley bật cười “Mẹ kiếp, rất vui được gặp lại anh, Red- xin lỗi, thuyền trưởng Wegener!”
“Nhiệm vụ đầu tiên là lái tàu đến Baltimore để hoàn thành lắp ráp. Hãy xem chúng ta phải làm những gì và cùng thực hiện. Hẹn gặp lại lúc..ồ..7.00 sáng mai. Portagee, vẫn tự pha cà phe chứ?”
“Không tệ đâu sir” trung sỹ trưởng của tàu Oreza trả lời “tôi sẽ mang theo một bình”
Và Wegener đã đúng. 12 ngày sau, Panache đã sẵn sàng ra biển dù chẳng có gì nhiều, chỉ có những thùng gỗ và các thiết bị khác nhau được buộc chặt trên thuyền. Cần cẩu đã được chuyển đi trước bình minh để không bị nhìn thấy và khi công nhân đóng tàu đến ngày hôm đó thì phải mất một lúc người ta mới nhận ra là con tàu đã rời bến. Tất cả họ đều nghĩ là không thể có chuyện đó. Nó thậm chí còn chưa được sơn xong
Ở Eo biển Florida Strait, con tàu không chỉ hoàn thành việc sơn mà còn hoàn thành vài thứ quan trọng hơn. Wegener ở trên cầu,mới chợp mắt trên chiếc ghế da thì điện thoại reo và trung sỹ Owens mời anh vào phòng máy. Wegener đến đó và thấy chiếc bàn làm việc duy nhất được bao phủ toàn các bản kế hoạch và một kỹ sư đang loay hoay trên đó, với sỹ quan kỹ thuật đứng xung quanh
“anh không thể tin được đâu” Owens thông báo “Nói với anh ấy đi Sonny”
“Thủy thủ Obrecki, sir. Động cơ đã không được lắp đúng bản vẽ” viên kỹ sư trẻ nói
“Cơ sở nào để cậu nói vậy?” Wegener hỏi. Động cơ diesel tàu biển cỡ lớn này là loại mới, thiết kế độc đáo để giúp dễ vận hành và bảo trì. Để hỗ trợ cho việc này thì các cuốn sổ hướng dẫn sử dụng nhỏ được phát cho mỗi thủy thủ phòng máy, kèm với sơ đồ dẻo để các thủy thủ dễ hiểu hơn so với bản vẽ của nhà thiết kế. Ngoài ra còn bức ảnh phóng to động cơ được ép plastic do công ty đồ họa cung cấp, thực chất là tấm nền trên bàn làm việc “Sir, động cơ này rất giống với động cơ chiếc máy kéo của cha tôi, nhưng….”
“tôi sẽ lắng nghe cậu nói, Obrecki”
“Bộ tăng áp không được lắp đặt đúng cách. Nó giống như cái được đánh dấu trên các bản vẽ này, nhưng là máy bơm dầu bơm trở lại khi đi qua bộ tăng áp. Sir, bản vẽ này bị sai. Người chụp hệ thống đã mắc lỗi. Sir, ngài nhìn đây nhé? Đường dẫn dầu sẽ đi vào từ đây, nhưng người soạn thảo đã vẽ nó sai hướng và không ai nhận ra, và …”
Wegener chỉ cười, nhìn trung sỹ Owens “Mất bao lâu để sửa?”
“Obrecki nói cậu ấy có thể sửa và sẽ hoàn thành vào giờ này ngày mai”
“Sir” trung úy Michelson, sỹ quan kỹ thuật của tàu “tất cả là lỗi của tôi, đáng nhẽ tôi…” viên trung sỹ chờ đợi cơn mắng xối xả
“Michelson, bài học từ việc này là anh không thể tin vào mấy cuốn sách hướng dẫn. Anh đã học được việc đó chưa?”
“Vâng, sir”
“Vậy được rồi. Obrecki, cậu sẽ là thủy thủ số 1, phải không?”
“Vâng sir”
“Sai rồi, cậu giờ là nhân viên kỹ thuật cấp 3”
“Sir, tôi phải vượt qua một kỳ thi viết….”
“Anh có nghĩ Obrecki vượt qua kỳ thi viết đó không, ông Michelson?”
“Chắc chắn sir”
“tốt lắm, mọi người. Giờ này ngày mai tôi muốn máy chạy thử 2/3 công suất”
Và từ đó trở đi mọi việc trở nên suôn sẻ. Động cơ là trái tim của một con tàu, không có thủy thủ nào trên thế giới thích thuyền chậm hơn thuyền nhanh. Khi Panache đạt được 25 hải lý/giờ và giữ được tốc độ đó trong 3 giờ, các thợ sơn làm việc tốt hơn, viên đầu bếp dành nhiều thời gian nấu ăn hơn và các kỹ thuật viên vặn ốc chặt hơn. Tàu của họ không còn bị lỗi nữa. Một cảm giác tự hào dâng lên trong trái tim của tất cả các thủy thủ, giống như một cầu vồng tuyệt đẹp xuất hiện sau cơn bão mùa hè- họ thậm chí còn tự hào hơn vì chính họ phát hiện ra lỗi sai và sửa chữa nó. Một buổi sáng, tàu Panache xuất hiện trên bến tàu của Lực lượng bảo vệ bờ biển vịnh Curtis với hình hài hoàn toàn mới. Wegener chỉ huy thủy thủ và thể hiện hết tài năng của mình, chỉ mất nửa tiếng là con thuyền đã lên đến bãi “Ông già”, một trong những thủy thủ trên boong tàu phía trước nói “thật sự biết cách lái con tàu chết tiệt này”
Ngày hôm sau, một khẩu hiệu xuất hiện trên bảng thông báo PANACHE: PHONG CÁCH MẠNH MẼ. 7 tuần sau, chiếc tàu tuần tra duyên hải được đưa vào hoạt động và tiến về phía nam đến Mobile, Alabama để thực hiện nhiệm vụ. Vào thời điểm này thì danh tiếng của nó đã hoàn toàn tương xứng mới cái tên mỹ miều (Panache là một từ có nguồn gốc từ tiếng Pháp, mang hàm ý của phong cách hào hoa và sự dũng cảm liều lĩnh, bắt nguồn từ chiếc mũ đội đầu của các kỵ binh)
Sáng nay sương mù dày đặc và vị thuyền trưởng đang rất thích thời tiết này, nhưng không không thích nhiệm vụ này chút nào. Vị Vua của Nhiệm vụ tìm kiếm và cứu nạn giờ là một cảnh sát biển. Sau hơn nửa sự nghiệp thì nhiệm vụ của Đội bảo vệ bờ biển có nhiều thay đổi, nhưng tình hình ông đang đối mặt bây giờ cũng không còn giống với bãi cát sông Columbia hồi đó, khi mà kẻ thù chỉ là gió và sóng. Ở Vịnh Mexico cũng có sóng và gió, nhưng thêm 1 kẻ thù nữa. Ma Túy. Ma Túy không phải là vấn đề Wegener dành nhiều tâm huyết săn tìm. Đối với ông thuốc (drugs vừa có nghĩa là thuốc, vừa có nghĩa là ma túy) là thứ do bác sỹ kê đơn và uống theo hướng dẫn ghi trên lọ, uống xong là hết và vứt cái lọ đi. Khi Wegener muốn thay đổi trạng thái tinh thần, ông làm theo cách truyền thống của thủy thủ – bia hoặc rượu mạnh – dù giờ đây ông ít làm việc này hơn do đã gần 50 tuổi rồi. Ông lúc nào cũng sợ bị tiêm – mỗi người đều có nỗi sợ hãi riêng – và ông luôn ngạc nhiên với ý nghĩ có người dám tự tiêm vào tay mình. Rồi ý nghĩ về việc tống một thứ bột trắng vào mũi – chà thật không thể tin được. Thái độ của ông không hẳn quá ngây thơ vì nó chỉ phản ánh đúng thời kỳ ông trưởng thành. Ông biết vấn đề ma túy là có thực. Và giống như mọi nhân viên mặc sắc phục khác, cứ vài tháng ông phai cung cấp mẫu nước tiểu để chứng minh mình không sử dụng “thứ đang được kiểm soát”. Điều này được đám thủy thủ trẻ coi là quy tắc đương nhiên, nhưng ở độ tuổi của ông thì nó gây khó chịu và có phần nhục nhã
Ông quan tâm nhiều hơn đến những người buôn bán ma túy, nhưng lúc này thì ông chỉ để ý đến những đốm sáng xuất hiện trên màn hình radar
Họ đang ở rất xa nhà, cách bờ biển Mexico 100 hải lý. Và chiếc Rhodes đáng nhẽ phải đến từ lâu. Người chủ chiếc du thuyền này đã gọi điện từ vài ngày trước, nói rằng anh ta sẽ ở ngoài biển 2 ngày…nhưng đối tác kinh doanh của anh ta lấy làm lạ và gọi cho văn phòng Lực lượng bảo vệ bờ biển địa phương. Cuộc điều tra thêm cho thấy chủ tàu là một doanh nhân giàu có và hiếm khi ở ngoài khơi quá 3 giờ mỗi lần. Du thuyền Rhodes có tốc độ 15 hải lý/giờ
Chiếc du thuyền này có độ dài 60m, đủ lớn để sẽ cần vài người trợ giúp….nhưng đủ nhỏ để theo luật không cần phải có bằng lái tàu. Chiếc du thuyền có động cơ lớn trị giá hai triệu usd này được trang bị tiện nghi cho mười lăm người sinh sống, cộng với hai thành viên thủy thủ đoàn. Chủ nhân của nó, nhà phát triển bất động sản có hẳn một thế giới nhỏ riêng từ ngoài Mobile, mới tập ra biển và rất cản trọng khi ra khơi. Wagener nghĩ, điều đó chứng tỏ anh ta là người thông minh. Càng thông minh hơn khi không đi quá xa bờ. Anh ta biết giới hạn của mình, điều rất hiếm trong giới du thuyền, đặc biệt là những người giàu có. Anh ta vừa tiến về phía nam hai tuần trước, dọc theo bờ biển và có vài điểm dừng trong chuyến hành trình, nhưng quay về muộn và bỏ lỡ một cuộc họp kinh doanh. Đối tác của anh ta nói anh ta chưa bao giờ bỏ lỡ cuộc hợp mà không có lý do. Một chiếc máy bay tuần tra đã nhìn thấy chiếc du thuyền này vào một ngày trước, nhưng không cố liên lạc với nó. Viên chỉ huy lực lượng bảo vệ bờ biển địa phương cho rằng vù này có mùi đáng ngờ. Panache lại đang là tàu tuần tra gần nhất và Wegener vừa nhận được cuộc gọi giao nhiệm vụ
“1600 thước. hướng 0-7-1” Trung sỹ Oreza báo cáo dựa trên biểu đồ radar “Tốc độ 12 hải lý/giờ. Nó không hướng về phía Mobile, thưa thuyền trưởng”
“Sương mù sẽ tan trong 1 giờ nữa, có lẽ là 1 tiếng rưỡi nữa” Wegener đánh giá và quyết định “Tiến lại gần đi. Anh O’Neil, chạy hết công suất. Trung sỹ, hướng đi?”
“1-6-5, sir”
“Vậy lái theo hướng đó. Nếu sương mù chưa tan thì chúng ta sẽ giữ khoảng cách 2 đến 3 hải lý, rồi chờ xem”
Thiếu úy O’Neil đưa ra mệnh lệnh tương ứng cho người lái tàu. Wegener bước tới bàn biểu đồ “Cậu nghĩ nó sẽ đi đâu, Portagee?”
Viên trung sĩ điều hướng đánh dấu lộ trình của nó, nhưng có vẻ không có gì đặc biệt “tốc độ hiện tại là kinh tế nhất …tôi không nghĩ nó cập bến bất kỳ cảng nào trong vịnh” vị thuyền trưởng dung một dụng cụ để đo góc và bắt đầu tiến đến bản đồ
“Nhiên liệu cho con duy thuyền đó là….” Wegener nhíu mày “hãy giả sử nếu dừng lại ở cảng gần đây nhất đổ dầu thì nó có thể dễ dàng đến Bahamas. Đổ đầy ở đó rồi tiếp tục đến bất kỳ cảng nào ở Bờ Đông”
“Mấy gã cao bồi: O’Neil nói “lâu lắm rồi mới có người đi đường dài thế”
“Sao cậu lại nghĩ vậy?”
“Sir, nếu tôi sở hữu một con thuyền lớn như thế, tôi sẽ không chạy nó trong sương mù mà không có radar. Hay radar của nó không hoạt động”
“Con trai, tôi hy vọng cậu đã sai” vị thuyền trưởng nói “Lần cuối cùng đã bao lầu rồi, thiếu úy?”
“5 năm? Có lẽ hơn. Tôi cứ nghĩ mấy chuyện như vậy không còn xảy ra nữa”
“Chúng ta sẽ biết sau 1 giờ nữa” Wegener quay lại nhìn sương mù. Tầm nhìn giờ đang ở dưới 200 thước. Tiếp theo ông chăm chú nhìn vào màn hình radar. Chiếc du thuyền là mục tiêu gần nhất. Ông cân nhắc một phút rồi chuyển từ chế độ truyền sang nhận. Mấy báo cáo tình báo nói rằng mấy kẻ buôn ma túy giờ đã có ESM (thiết bị quét và giám sát điện tử) để phát hiện sóng radar
“chúng ta sẽ chuyển chế độ trở lại khi đến gần khoảng…xem nào…4 hải lý”
“Vâng, thuyền trưởng, viên sỹ quan trẻ gật đầu
Wegener ngồi xuống chiếc ghế da và lấy chiếc tẩu từ túi áo. Ông thấy bản than mình ngày càng lười hơn nhưng đây là một phần hình ảnh ông xây dựng. Vài phút sau, các hoạt động quan sát bình thường đã trở lại trên khoang điều khiển. Như thường lệ, thuyền trưởng nhận ca làm việc buổi sáng kéo dài hai giờ ở boong trên — ở cùng sĩ quan trẻ nhất đang làm nhiệm vụ – nhưng O’neil là một sỹ quan trẻ thông minh sáng láng và không cần quá nhiều sự giám sát, ít nhất là có Oreza ở quanh thì không cần. “Portagee” Oreza là con trai của một ngư dân ở Gloucester và có danh tiếng cũng gần bằng thuyền trưởng. Ông đã 3 lần đến Học viện Cảnh sát biển dạy và giúp đào tạo cả một thế hệ sỹ quan, giống như Wegener từng chuyên cố vấn các tân binh.
Oreza cũng là người hiểu rõ tầm quan trọng của một tách cà phê ngon và có một thứ trên khoang điều khiển khi Portagee ở đó là bạn luôn đảm bảo có một tách cà phê do chính ông pha. Tách cà phê đến rất đúng lúc, được đựng trong một cái cốc đặc biệt dùng trong lực lượng bảo vệ bờ biển, có hình dạng như mọt chiếc bình với phần đáy cao su rất rộng và thu nhỏ dần từ dưới lên trên để tránh bị lật hay đổ cà phê. Loại cốc này ban đầu được thiết kế cho các tàu tuần tra nhỏ, nhưng nó cũng rất thiết thực trên Panache, dù vận tốc có cao hơn. Wegener hầu như không để ý chuyện này
“Cám ơn Chief” viên thuyền trưởng giơ cốc lên
“tôi ước tính khoảng 1 giờ”
“Gần như vậy” Wegener đồng ý “Chúng ta sẽ bước vào trận chuyến lúc 07.40. Ai đang làm nhiệm vụ trên xuồng cứu sinh?”
“Anh Wilcox, Kramer, Abel, Dowd và Obrecki”
“Obrecki đã làm việc này chưa?”
“Cậu ta đến từ trang trại, vì vậy cậu ta biết sử dụng súng thế nào, sir. Riley đã kiểm tra rồi”
“Hãy để Riley thay thế Kramer”
“Có chuyện gì sao sir?”
“Lần này có gì đó khiến tôi cảm thấy bất thường” Wegener nói
“Có lẽ chỉ là đài radio bị hỏng. Lâu lắm rồi mới gặp tình huống kiểu này- chà, tôi thậm chí không nhớ rõ bao lâu rồi, nhưng vâng, gọi Riley lên đây nhé?”
Viên thuyền trưởng gật đầu. Oreza gọi điện thông báo, và hai phút sau Riley có mặt. Hai vị thuyền phó (chief) và thuyền trưởng cùng thảo luận bên khoang chỉ huy. Trung úy O’Neil nhìn đồng hồ, họ chỉ mất một phút bàn bạc. Viên sỹ quan trẻ ngạc nhiên khi thấy thuyền trưởng tin tưởng vào hạ sỹ quan hơn cả sỹ quan nhưng các sỹ quan quân đội đúng là thường có cách riêng của mình
Panache đang vượt qua những con sóng với toàn công suất, duy trì ở vận tốc 23 hải lý/giờ và dù vài lần nó có thể chạy hơn 25 hải lý nhưng đó là trong điều kiện trời quang mây tạnh, và mặt biển phẳng như gương. Còn bây giờ, ngay cả khi bộ tăng áp liên tục nạp không khí vào động cơ diesel thì tốc độ cũng chỉ nhỉnh hơn 22 hải lý/giờ, Đúng là một chuyến đi khó khan. Để đứng vứng, những người trong khoang điều khiển đều phải xoạc chân rộng và trường hợp của O’Neil thì đi lại càng nhiều càng tốt. Những giọt nước từ sương mù phủ lên kính cửa sổ của khoang điều khiển, O’Neill nhanh chóng bật cần gạt nước, rồi bước ra khỏi cầu đến bệ cánh, nhìn chằm chằm vào màn sương mù. Anh không thích lái tàu mà không có radar. O’neil lắng nghe nhưng không nghe thấy gì ngoài tiếng động cơ ầm ầm của Panache. Đó là do sương mù dày đặc. Sương mù giống như một tấm màn ẩm ướt, che khuất tầm nhìn của mọi người và hấp thụ âm thanh. Anh lắng nghe thêm một phút nữa nhưng ngoài tiếng động cơ thì giờ chỉ còn tiếng thì thầm của con tàu tuần tra đang lao nhanh trên mặt nước. Trước khi quay lại buồng lái (wheelhouse) anh nhìn lại phía đuôi tàu. Thậm chí khó có thể nhìn thấy được lớp sơn trắng trên con tàu tuần tra
“Không có đèn sương mù ngoài kia. Mặt trời đang xuyên qua lớp sương mù dày đặc” anh thông báo. Vị thuyền trưởng gật đầu
“Nó sẽ tan trong chưa tới 1 tiếng nữa. Thời tiết sẽ ấm lên thôi. Dự báo thời tiết thế nào?”
“Đêm nay có bão, sir. Cơn bão này đã đi qua Dallas đêm qua. Có vài thiệt hại. Hai cơn lốc xoáy đã ấp vào bãi đậu xe đầu kéo”
Wegener lắc đầu “Cậu biết không, hẳn mấy cái đầu kéo phải có thứ gì hấp dẫn lắm mấy cơn lốc chết tiệt này….” Ông đứng dậy và bước tới radar “Sẵn sàng chưa Chief?”
“Sẵn sàng, sir”
Wegener chuyển trạng thái radar sang chủ động, rồi nhìn chằm chằm vào nó “đủ gần rồi, Chief. Hướng liên lạc 1-6-0, khoảng cách 6000 thước. O’Neil, tiến thẳng về 1-8-5. Oreza, cho tôi thời gian để tiến về mạn trái phía sau nó”
“Vâng thuyền trưởng, chờ 1 chút”
Wegener tắt radar và đứng dậy “Bắt đầu vào trận” Theo đúng kế hoạch, chuông báo động vang lên ngay sau khi mọi người vừa ăn xong bữa sáng. Tất nhiên, điều này đã được thông bao từ trước để mọi người sẵn sàng. Rằng có thể có một chiếc thuyền buôn lậu ma túy trong sương mù. Một chiếc thuyền cao tốc công vụ được lắp theo nhanh chóng rời đi. Mọi người đều mang theo vũ khí: 1 người mang súng trường tự động M-16, một người cầm súng ngắn chống bạo động còn những người còn lại đều mang khẩu súng lục tự động beretta 9mm. Phía trước, một thành viên trong đội đang nắm khẩu súng 40mm ở đầu thuyền. Đây là loại đạn pháo kiểu Bofors do người Thụy Điển thiết kế. Nó từng phục vụ trên một tàu khu trục hải quân, và bây giờ, ngoại trừ thuyền trưởng của chiếc tàu tuần tra này, không ai lớn tuổi hơn nó. Ngay phía đuôi tàu tuần tra, một thủy thủ đang mở lắp nhựa cho khẩu súng máy M-2.50 cũng già gần con Bofors
“Đề nghị chúng ta tiếp cận từ phía trái ngay giờ, sir” Trung sỹ Oreza nói
Viên thuyển trưởng lại bật radar “rẽ trái hướng 0-7-0. Khoảng cách với mục tiêu là 3-5-0-0 thước. Chứng ta phải tiếp cận phục tiêu phía mạn phải”
Sương mù đang dần tan. Tầm nhìn giờ khoảng 500 thước, nhiều ít hơn một chút. Trung sỹ Oreza nhìn về phía radar khi thời gian vào trận sắp bắt đầu. Có một mục tiêu mới cách đó 20 dặm, có thể đó là tàu chở dầu cho Galveston. Vị trí của nó tất nhiên cũng được đánh dấu
“Khoảng cách với người bạn chúng ta giờ là 2000 thước. Hướng đi vẫn duy trì 0-7-0. Hướng mục tiêu và vận tốc không đổi”
“Tốt lắm. Có thể nhìn thấy nó trong 5 phút nữa” Wegener nhìn quanh buồng lái. Các sỹ quan đang quan sát bằng ống nhòm. Thật lãng phí công sức, nhưng họ vẫn chưa nhận ra. Ông bước ra khỏi khoang điều khiển và nhìn về phía chiếc xuồng cao su ở phía đuôi tàu. Trung úy Wilcox đi theo ông. Phía sau là trung sỹ Riley gật đầu đồng ý. Một thượng sỹ dầy dạn kinh nghiệm đang điều khiển máy tời. Hạ thủy chiếc xuồng Zodiac xuống biển trong điều kiện này không khó, nhưng vùng biển này luôn khiến ta phải bất ngờ. Mõm của khẩu súng máy M-2 hướng lên trời, và một hộp tiếp đạn ở bên trái. Anh nghe thấy tiếng kim loại va chạm phía trước, và một quả đạn được nạp vào khẩu đại bác 40mm
Chúng ta vốn dùng tàu để cứu hộ cứu thương, nhưng giờ phải chất đống đạn pháo, Wegener nghĩ. Bọn buôn ma túy chết tiệt….
“Tôi đã nhìn thấy nó” một sỹ quan thông báo
Wegener nhìn về phía trước. Rất khó để nhìn thấy chiếc du thuyền sơn trắng trong màn sương dày đặc, nhưng một phút sau thì bảng tàu vuông vức hiện rõ. Ông nhìn vào ống nhòm của mình để đọc tên. Empire Builder. Đúng là con tàu đó. Không có cờ treo trên cột cờ, nhưng đây cũng không phải điều bất thường. Ông chưa nhìn thấy bất kỳ ai và du thuyền vẫn tiến về phía trước như cũ. Đó là lý do vì sao ông tiếp cận trực tiếp từ phía sau. Ông nghĩ, ngay khi xuống biển thì mấy ai chú ý đến đuôi thuyền
“Anh ta hẳn sẽ rất ngạc nhiên đây” O’Neil nghĩ khi bước ra ngoài cabin để gia nhập cùng thuyền trưởng. “Luật của Biển”
Wegener tức giận một lúc nhưng rồi bình tĩnh lại “Ăng ten của radar không di chuyển. Tất nhiên, có thể nó bị hỏng”
“Đây là ảnh của người chủ tàu, sir” viên thuyền trưởng không nhìn vào ảnh trước đó. Người chủ du chuyển khoảng 40 tuổi. Chắc chắn là kết hôn muộn vì có ảnh hai đứa nhỏ trên thuyền, một đứa 8 và một đứa 13 tuổi, cùng với vợ. Anh ta to cao, khoảng 6.3 feet, tóc cắt ngắn và hơi mập, đứng trên bến với một con cá kiếm to bên cạnh. Wegener đánh giá bằng làn da rám nắng quanh mắt và dưới quần đùi, chắc hẳn anh ta đã phải tốn rất nhiều công sức mới bắt được con cá này..…. Sau đó ông lại nhìn vào ống nhòm
“Các anh đang tiến tới rất gần” ông nói “tiến vào mạn phải đi”
“Vâng, vâng, sir” O’Neil quay trở lại buồng lai. Mấy tên ngốc, Wegener nghĩ. Các anh sẽ nghe thấy chúng tôi ngay bây giờ. Chà, bọn họ phải có cách nào bảo đảm an toàn chứ. Ông quay đầu lại buồng lái “đánh thức bọn họ dậy”
Một nửa chiều dài cột buồm của Panache được trang bị còi báo động loại được sử dụng cho xe cảnh sát và xe cứu thương nhưng công suất lớn hơn nhiều. Ngay sau đó, tiếng hú gào lên suýt chút nữa khiến viên thuyền trưởng nhảy dựng. Âm thanh này quả thực đã nhận được hiệu quả như mong đợi. Trước khi Wegner đếm đến ba, một cái đầu lao ra từ nhà bánh của du thuyền, đó không phải là chủ nhân con thuyền. Chiếc du thuyền bắt đầu rẽ ngoặt sang phải.
“Bọn khốn!” viên thuyền trưởng rủa “Tiến gần!” ông ra lệnh
Chiếc tàu tuần tra cũng rẽ phải. Du thuyền tăng mã lực và đuôi hơi nghiêng về phía sau, nhưng chiếc Rhodes không thể nào chạy nhanh hơn Panache được. Trong vòng 2 phút chiếc tàu tuần tra đã đuổi kịp chiêc du thuyền, vốn vẫn đang cố quay đầu. Khoảng cách giữa họ quá gần để có thể sử dụng pháo Bofors. Wegener ra lệnh cho súng máy bắn vào mũi tàu của Empire Builder. Khẩu súng máy .50 bắn 5 phát. Ngay cả khi họ không nhìn thấy nước bắn tung tóe, tiếng gầm của viên đạn cũng không thể nhầm được. Wegener đi đến cabin và lấy micrô của loa thuyền ra.
“Đây là lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ. Dừng thuyền ngay lập tức và chuẩn bị để bị lục soát thuyền” Bên kia hẳn nhiên đang lưỡng lự. Chiếc du thuyền quay trái nhưng không giảm tốc độ trong 1 hoặc 2 phút. Sau đó một người đàn ông xuất hiện trên đuôi tàu và treo cờ- cờ Panama, Wegener thú vị nhìn xem. Chỉ một lúc nữa sẽ có radio báo rằng họ không có quyền lên tàu cho mà xem. Nhưng sự thú vị của ông nhanh chóng trở nên nghiêm túc “Empire Builder, đây là lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ. Anh đang là con tàu mang cờ Hoa Kỳ và chúng tôi sẽ lên tàu kiểm tra. Dừng ngay- lập tức!”
Và nó dừng lại. Khi công suất của động cơ yếu đi, đuôi của nó nghiêng lên. Tàu tuần tra phải lùi nhanh để không đâm vào du thuyền. Wegener ra khỏi cabin một lần nữa và vẫy tay với đội thủy thủ. Khi ông thấy họ chú ý, ông liền ra hiệu hành động bật chốt an toàn của khẩu súng tự động. Đây là cách để ông báo cho họ phải cẩn thận. Riley vỗ nhẹ vào bao đựng súng hai lần để ra hiệu cho thuyền trưởng biết rằng họ không phải là những kẻ ngốc. Chiếc thuyền cao tốc Zodiac được hạ thủy. Sau đó, Wegener yêu cầu gọi loa yêu cầu thủy thủ đoàn trên du thuyền bước ra. Hai người bước ra. Một lần nữa, họ không giống như chủ nhân của chiếc thuyền. Khẩu súng máy của tàu tuần tra nhắm thẳng vào họ sẵn sàng nhả đạn. Đây là thời điểm căng thẳng. Cách duy nhất Panache có thể bảo vệ thủy thủ đoàn của mình là đánh phủ đầu, nhưng họ lại không thể làm vậy. Dù lực lượng bảo vệ bờ biển chưa bao giờ mất người vì bị tấn công thời điểm này nhưng vấn đề chỉ là thời gian và chờ đợi sẽ chỉ làm mọi thứ rối tung lên mà thôi
Wegener tiếp tục dùng ống nhòm nhìn chằm chằm về phía hai người đàn ông trong khi chiếc zodiac đia qua. Một trung úy ngắm khẩu súng máy cũng làm tương tự. Dù không nhìn thấy vũ khí trên người nhưng khó mà bảo đảm họ không dấu khẩu súng lục dưới áo sơ mi rộng rãi. Tình huống này phải có ai điên cuồng lắm mới dám chống trả, nhưng viên thuyền trưởng biết rằng thế thời này đầy những người điên- ông đã làm việc 30 năm đẻ cứu hộ họ. Giờ thì ông bắt họ, hành vi điên rồi của những người này không đơn giản là ngu xuẩn mà còn xấu xa
O’Neil lại tiến đến nó. Panache đã đỗ trên mặt nước, với động cơ đang chạy không tải, lúc này sóng và tàu đang ở góc vuông, và thân tàu lắc lư chậm hơn và nặng nề hơn. Wegener nhìn lại khẩu súng máy dưới đuôi tàu. Viên thủy thủ đang căn chỉnh nó nhắm thẳn mục tiêu, nhưng ngón tay cái của anh ta không chạm vào cò súng theo yêu cầu. Ông có thể nghe thấy năm chiếc hộp đạn rỗng đang lăn lộn trên boong. Wegner cau mày. Những vỏ đạn này sẽ cản trở sự an toàn. Ông muốn ai đó tìm một chiếc túi để cất chúng đi. Anh chàng phụ trách súng máy có thể lao qua hộp và gây ra lỗi bắn …
Ông quay lại. Chiếc thuyền cao su Zodia đã đến đuôi du thuyền. Tốt. Họ sẽ lên tàu từ đó. Ông quan sát thấy trung úy Wilcox lên tàu đầu tiên, rồi đợi những người còn lại. Sau khi thành viên cuối cùng lên boong, đội trưởng lùi lại và rồi tiến lên dẫn đầu. Wilcox chạy phía trước lên mạn phải, với Obrecki bọc hậu phía sau, khẩu súng ngắn đang hướng lên trời một cách an toàn. Riley đi bên trái cùng với người bọc hậu của mình. Chưa đầy một phút, viên trung úy đã tới chỗ hai ngời đàn ông. Nhìn cách họ nói chuyện thật kỳ lạ, nhưng lại không thể nghe được nội dung câu chuyện…..
Ai đó nói gì đó, đầu Wilcox quay sang một bên, rồi quay sang bên kia. Obrecki bước nhanh sang một bên và hạ khẩu súng xuống. Cả hai người đều cúi đầu, nhìn xuống rồi biến mất khỏi tầm nhìn
“Có vẻ có chuyện gì đó, sir” O’Neil lưu ý.
Wegener bước vào buồng lái “Radio”. Một thủy thủ ném chiếc điện thoại motorola cho ông. Wegener chỉ lắng nghe chứ không gọi điện. Bất kể người của ông tìm thấy gì, ông không muốn làm họ phân tâm. Obrecki đứng với 2 người đàn ông trong khi Wilcox đi vào trong du thuyền. Riley chắc chắn đa tìm được cái quỷ gì đó. Khẩu súng ngắn giờ chắc chắn ngắm thẳng vào họ và lực căng trên cánh tay của chàng trai trẻ truyền qua biển như một làn sóng vô tuyến đối với tàu tuần tra. Vị thuyền trưởng quay lại viên sỹ quan phụ trách súng máy vẫn đang nhắm thẳng vào chiếc du thuyền
“Sử dụng súng an toàn!”
“Rõ!” viên thủy thủ trả lời ngay lập tức và buông tay ra. Viên sỹ quan đứng bên cạnh anh ta lúng túng lùi lại. Lại học thêm 1 bài học khác. Trong 1 hoặc 2 giờ tới chắc chắn một bài học đào tạo là khó tránh khỏi. Đây là một lỗi khi sử dụng súng
1 lúc sau Wilcox lại xuất hiện trên boong, Chief Riley theo sau anh ta. Anh ta đưa 2 chiếc còng cho viên sỹ quan, người cúi xuống còng họ lại. Họ chắc chắn là 2 người duy nhất trên tàu; Sau đó Riley cho khẩu súng lục vào bao và Obrecki lại hướng khẩu súng lục lên trời. Wegener nghĩ mình đã thấy chàng trai trẻ lại đưa khẩu súng về chế độ an toàn. Anh chàng nông dân này biết sử dụng súng, rất được, cậu ta đã học cách bắn súng như thuyền trưởng của mình. Tại sao cậu ta lại cởi chốt an toàn…? Radio vang lên kéo suy nghĩ của vị thuyền trưởng quay trở lại
“thuyền trưởng, đây là Wilcox” viên trung úy đứng gần như đối diện với thuyền trưởng, chỉ có điều cách mặt biển 100 thước
“tôi nghe đây”
“Tình huống tệ lắm, sir…sir..máu ở khắp nơi. Một trong số chúng đang cọ rửa cabin nhưng…nó thật khủng khiếp, sir”
“Chỉ hai người bọn chúng à?”
“Xác nhận. Chỉ có hai người trên thuyền. Chúng tôi đã còng tay cả hai người bọn họ”
“Kiểm tra lại” Wegener ra lệnh. Wilcox hiểu ý thuyền trưởng: Anh đứng canh hai tên tù nhân và để Chief Riley đi kiểm tra lần nữa. Vị trưởng đội thủy thủ boong xuất hiện lại sau 3 phút, lắc đầu. Wegener thấy qua ống nhòm, gương mặt anh vẫn đang tái nhợt. Cái gì có thể khiến Bob Riley tái nhợt thế?
“Chỉ có hai người này, sir. Không có ID. Tôi nghĩ chúng ta không cần phải tìm kiếm thêm nữa, tôi nghĩ…”
“Được rồi. Tôi sẽ cử thêm người và để Obrecki ở lại. Cậu có đưa được du thuyền đến bên cảng không?”
“Được, thưa thuyền trưởng. Nhiên liệu trên du thuyền còn rất nhiều”
“Đêm qua thời tiết có chút thay đổi đấy” Wegener cảnh báo
“tôi đã kiểm tra về thời tiết sáng nay. Không có vấn đề gì, sir”
“Được rồi, vậy hãy để tôi gọi điện và sắp xếp mọi việc. Chờ nhé”
“Tuân lệnh. Sir. Tôi kiến nghị ông cần gửi một máy quay qua đây quay và chụp những hình ảnh có thể còn thiếu”
“Được. Sẽ gửi trong vài phút nữa”
Phải mất gần nửa giờ về lực lượng bảo vệ bờ biển mới nhận được sự đồng ý từ FBI và DEA (Cục cảnh sát chống ma túy). Trong khi chờ đợi, chiếc Zodiac đã đưa 1 thủy thủ kacs cầm theo máy quay TV và băng đến. Họ đã chụp 60 bức ảnh bằng máy ảnh Polaroid, và ghi lại tất cả các cảnh trên đó bằng một cuộn băng video dài nửa inch. Mấy người lính khởi động lại động cơ Empire Builder và đi về phía tây bắc hướng Mobile, với chiếc tàu tuần tra kẹp bên cạnh. Cuối cùng họ quyết định Wilcox và Obrecki sẽ lái du thuyền về Mobile và 2 “thủy thủ du thuyền” sẽ được đưa đi bằng trực thăng vào chiều hôm đó- nếu thời iết cho phép. Căn cứ trực thăng ở rất xa. Panache cần có trực thăng riêng nhưng lực lượng bảo vệ bờ biển không đủ kinh phí để mua. Môt thủy thủ thứ 3 lên du thuyền và đã đến lúc đưa mấy tù nhân về Panache
Chief Riley đưa các tù nhân về đuôi tàu. Wegener xem cái viên đội trưởng thủy thủ boong gọn gàn ném cả hai bọn chúng lên chiếc Zodiac. 5 phút sau, chiếc xuồng cao su này được cẩu lên boong. Chiếc du thuyền hướng về phía tây bắc và chiếc tàu tuần tra thì tiếp tục thực hiện nhiệm vụ tuần tra. Người đầu tiên đến khoang điều khiển là viên thủy thủ đã phụ trách chụp ảnh bằng máy Palaroid. Anh đưa ra khoảng 6 bức ảnh màu
“Chief chọn ra vài tấm ảnh đưa ông xem, thuyền trưởng. Hiện trường còn khủng khiếp hơn thế. Ông sẽ thấy khi nhìn cuộn băng phim. Cuôn băng đó đang được sao chép”
Wegener đưa lại mấy tấm ảnh “Được-giữ tất cả ở két bằng chứng. Cậu quay lại với mọi người và bảo Mayers quay thêm 1 cuộn cho vào VCR và tôi muốn cậu nói vào đó những gì mình nhìn thấy. Cậu biết phải làm thế nào rồi đấy. Hãy bảo đảm chúng ta làm đúng thủ tục”
“Tuân lệnh”
Riley xuất hiện 1 phút sau. Robert Timothy Riley là người trung sỹ đúng với quan niệm truyền thống của mọi người. Cao 6.2 feet và nặng 200 pound, hai tay đầy long như vượn, bụng có thể chứa cả can bia và giọng nói vang vọng như gấu mùa đông. Bàn tay phải ngoại cỡ đang cầm hai túi thực phẩm nhựa. Khuôn mặt hiện rõ vẻ tức giận đã thay thế cho vẻ sốc lúc nãy
“Sir, nó giống như cái lò mổ khốn khiếp. Như thể ai đó đã đổ cả thùng sơn màu nâu – nhưng nó không phải là sơn. Chúa ơi” Anh ta đưa ra một chiếc túi “Thằng nhỏ con hơn đang dọn dẹp thì chúng ta xông vào. Đây là thùng rác bằng kim loại trong phòng khách với 6 viên đnạ bên trong. Hai viên đạn này được lấy từ tấm thảm- đúng như cách họ dạy chúng ta, thuyền trưởng. Tôi nhặt chúng bằng bút bi và cho chúng vào túi. 2 khẩu súng tôi vẫn để lại trên tàu. Tôi cũng đã để chúng vào túi. Có những thứ còn gây sốc nữa”
Túi tiếp theo chứa một bức ảnh nhỏ đã được cho vào khung, chụp ảnh người chủ du thuyền và gia đình. Ngoài ra túi còn đựng một…..”Tìm thấy nó dưới gầm bàn. Bị hiếp dâm. Cô ấy hẳn đang trong thời kỳ kinh nguyệt nhưng bọn chúng cungx không tha. Có lẽ chỉ có người vợ bị. Nhưng cũng có thể cả đứa con gái nhỏ. Trong phòng trưng bày còn có vài con dao, tất cả đều dính máu. Tôi đoán bọn chúng xả xác và ném sang một bên. Cả 4 người chắc đều bị làm đồ ăn cho cá mập rồi”
“Ma túy thì sao?”
“Khoảng 20 gói bột trắng được dấu trong cabin thủy thủ. Có cả cần sa nữa, nhưng dường như được sử dụng cho mục đích cá nhân” Riley nhún vai “tôi thậm chí cũng chẳng buồn kiểm tra xem chúng có dương tính ma túy không nữa, sir. Không quan trọng. Đây là tội cướp biển và giết người. Tôi còn thấy một lỗ đạn trên boong, bị xuyên thủng. Red, tôi chưa bao giờ nhìn thấy cảnh này trong đời. Giống y như trong phim, thậm chí còn kinh khủng hơn” Anh thở một hơi dài “sir, ông thực sự nên đi xem xét”
Chúng ta biết gì về mấy tên tù này?”
“Không gì cả. Chúng chẳng làm gì, ít nhất là khi tôi ở đó chúng chẳng nói hay làm gì. Không ID (thẻ căn cước) và tôi cũng không muốn lục tung chỗ đó để tìm hộ chiếu. Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta hãy để việc đó cho những cảnh sát thực thụ. Buồng lái sạch sẽ và một trong những nhà vệ sinh cũng sạch. Tôi nghĩ Wilcox sẽ không gặp vấn đề gì khi lái con tàu đó quay về cảng. Tôi nghe thấy anh ấy dặn Obrecki và Brown đừng đụng vào thứ gì. Trên thuyền đó còn rất nhiều nhiên liệu và anh ấy có thể chạy hết công suất. Nếu thời tiết ổn thì có thể về đến Mobile trước nửa đêm, Con thuyền rất tuyệt” anh lại nhún vai
“Mang chúng lên đây đi” Wegener nói sau một chút suy nghĩ
“Tuân lệnh” Riley đi về phía đuôi tàu
Wegener nhét thuốc vào tẩu nhưng không nhớ đã để diêm ở đâu. Thế giới giờ đã thay đổi khi ông bận làm việc khác và Wegener không thích nó 1 chút nào hết. Ngoài kia đã đủ thứ nguy hiểm rồi. Gió và sóng đã là những kẻ thù chết người và biển luôn rình rập cơ hội. và bất kể bạn giỏi đến đâu thì chỉ cần một lần quên, chỉ cần 1 lần thôi là sẽ không bao giờ quay về được nữa. Wegener là người không bao giờ quên và luôn ghi nhớ để bảo vệ những người hay quên nó và vì vậy ông có cuộc sống đầy đủ và thỏa mãn . Ông thích được là thiên thần bảo hộ trên con thuyền trắng như tuyết này. Bạn sẽ không bao giờ phải chết nếu Red Wegener ở bên. Bạn luôn có một cơ hội, một cơ hội tuyệt rời, rằng ông sẽ vượt