CHƯƠNG 4 NHỮNG NGÀY ĐẦU SỐNG Ở ĐÀ LẠT
Cô Hậu là em út của ông nội, cô chỉ lớn hơn anh Thành mười tuổi. Chồng cô Hậu - dượng Tánh - cũng là quân nhân, đơn vị đóng ở Lâm Đồng. Cô Hậu buôn bán rau cải ở chợ Hòa Bình đã hơn mười lăm năm nay. Công việc làm ăn của cô khá thạnh lợi nhưng vì đông con nên cuộc sống gia đình cũng chỉ bình bình. Cô dượng có đến bốn con trai nhưng không có con gái. Các em đều ở tuổi đi học, em lớn nhất là Lâm đã mười bảy, kế đó là Sơn, Hải, em nhỏ nhất tên Hiếu mới mười hai. Vì vậy, hễ hết công việc ngoài chợ cô Hậu lại phải bận rộn với công việc trong nhà. Tuy không dư dả lắm, lại ở xa, nhưng không năm nào cô Hậu quên gởi tiền phụ ông bà nội để lo việc chạp giỗ. Ngoài ra, vài ba tháng cô lại gởi thư hỏi thăm sức khỏe ông bà nội. Dĩ nhiên cô cũng ít khi quên hỏi thăm sức khỏe vợ chồng tôi, có khi kèm thêm chút quà cho các cháu nhỏ. Vì thế, tôi vẫn thỉnh thoảng viết thư cám ơn và bày tỏ tâm tình với cô. Nhà cô Hậu lại ở ngay thành phố Đà Lạt, tôi định thời gian đầu sẽ xin ở tạm nhà cô.
Cuối tháng 1/75 thì mẹ con tôi đặt chân lên xứ hoa đào thơ mộng với bao nỗi rộn rã trong lòng. Cô Hậu đã nghỉ buôn bán trọn hôm đó để lo việc đón chúng tôi về nhà. Đà Lạt là xứ lạnh nên nhà nào dù giàu hay nghèo cũng luôn chuẩn bị giường, nệm, mùng mền thừa sẵn trong nhà để phòng khi có khách đến bất ngờ. Nhà cô Hậu giường mền không thiếu nhưng trong dịp này cô lại sắm cho chúng tôi một bộ giường nệm mới toanh rộng đủ chỗ cho cả bốn mẹ con nằm.
Hôm sau, cô Hậu lại bỏ thêm một ngày nữa để dắt mẹ con tôi đi mua sắm quần áo ấm, dù mũ, giày tất, nồi soong và nhiều vật dụng linh tinh khác... Trong khi đi mua sắm, gặp món ăn lạ nào cô cũng ép lũ trẻ ăn, đến nỗi khi về nhà bọn trẻ không ăn cơm nổi nữa. Có nhiều món tôi nghĩ chưa cần nhưng cô vẫn cứ mua, vài lần tôi muốn giành trả tiền nhưng cô nhất định không chịu. Cô cười cười nói:
- Tụi bây vào đây nhằm lúc này là hên lắm đó. Cô vừa mới bốc một cái huê, huê bốc chót mới ngon chứ! Thời buổi buôn bán ế ẩm, nếu tụi bây vào gặp những lúc khác chưa chắc cô đã có tiền để sắm sửa cho tụi bây đâu!
Lần đầu tiên nghe tiếng bốc huê, tôi không hiểu nên hỏi:
- Bốc huê là làm sao cô?
Cô Hậu giải thích:
- Chơi huê con không biết à? Ngoài mình người ta gọi là chơi hụi đó mà! Thế này nhé, một người đứng ra rủ chừng mười lăm hai chục người thỏa thuận với nhau chơi một cái huê. Người chủ động rủ người chơi gọi là chủ huê. Huê được ấn định kỳ hạn là một tuần, nửa tháng hay một tháng tùy sự giao ước với nhau. Lần đầu, mỗi người chơi huê phải đóng cho chủ huê một số tiền nhất định. Thí dụ mỗi chân huê đóng 1.000 đồng chẳng hạn. Chủ huê toàn quyền tùy nghi sử dụng số tiền gom được đó. Đến kỳ thứ nhì, các huê viên ai cần tiền thì bỏ thăm để bốc. Giả như con cần tiền mà cô cũng cần tiền, con bỏ thăm 100 đồng, cô bỏ thăm 150 đồng, thăm của cô cao hơn nên cô trúng. Các huê viên khác mỗi người chỉ đóng 850 đồng cho chủ huê. Chủ huê có trách nhiệm thu tất cả số tiền đó ở mọi người rồi trao lại cho cô. Cô đã bốc được rồi tức chân huê của cô đã thành chân huê chết (để phân biệt với người chưa bốc được gọi là chân huê sống), từ đó mỗi tháng cô phải đóng 1.000 đồng để chủ huê chung cho người nào trúng. Kỳ tiếp theo, giả sử có người bốc cao nhất 120 đồng, những chân khác chỉ đóng 880 đồng, ngoại trừ chân huê chết. Nói chung, người nào đã bốc được thì trở thành chân huê chết, các kỳ kế tiếp phải đóng đủ 1.000 đồng mãi cho đến phiên người cuối cùng bốc. Người bốc chót, như cô vừa mới bốc trước khi tụi con vào, sẽ nhận đủ trọn vẹn từ mỗi huê viên khác 1.000 đồng.
- Như vậy ai bốc càng sớm càng thiệt thòi cô hả?
- Ừ, ai cần mới bốc chứ bốc sớm làm gì! Khi cần lại phải bốc thật cao mới chắc ăn. Thí dụ đầu huê mỗi chân đóng 1.000 đồng, nếu con cần tiền, con có thể bốc cao tới 300 đồng, mỗi chân huê sống chỉ đóng cho con 700 đồng thôi. Như vậy là con thành chân huê chết, mỗi kỳ phải đóng 1.000, chịu lỗ 300 đồng...
Chuyện chơi hụi tôi đã nghe nói từ lâu nhưng bây giờ tôi mới biết rõ. Chắc hẳn trong những ngày chúng tôi mới đến, cô Hậu đã tốn một số tiền khá lớn.
Những ngày kế tiếp, cô Hậu lại tiếp tục công việc buôn bán. Hằng ngày từ chợ về, lúc nào cô cũng có ít hàng quà cho các cháu. Tôi chưa đi làm nên ở nhà cũng phụ lo các việc nội trợ. Vài lúc tôi còn ra chợ trông hàng giúp cô nữa. Sạp hàng của cô Hậu cũng khá đông khách. Hình như là khách quen cả, tôi thấy người ta rất ít trả giá khi mua hàng. Nhìn các sạp hàng khác tôi cũng nhận thấy như thế cả, người mua kẻ bán rất hoà nhã với nhau. Quả thật dân Đà Lạt sống rất hiền hòa như người ta vẫn nói. Buổi tối về nhà được rảnh rang hơn trước, cô Hậu có vẻ hài lòng lắm. Cô cháu lại cùng nhau chuyện trò vui vẻ.
Những ngày đầu tiên sống ở Đà Lạt tôi cảm thấy dễ chịu làm sao!
Nhưng rồi một hôm, cô Hậu từ chợ trở về với vẻ mặt nghiêm trọng, cô vẫy tôi lại gần, nói thật nhỏ:
- Lại giới nghiêm 24/24 rồi. Người ta tranh nhau mua gạo, cá khô để trữ làm ồn cả chợ. Chắc kỳ này dượng Tánh con không về được. Thằng Thành nói muộn lắm là đầu năm 1975 đổi về đây mà giờ đã hết tháng 1/75 sao chẳng thấy gì cả? Con viết thư hỏi nó lại xem sao?
Nghe nói đến chuyện giới nghiêm là tôi đâm hoảng. Mỗi lần quân đội giới nghiêm là y như có chuyện chẳng lành. Tôi cứ sợ dại vì nhà tôi đã có một cái huông không tốt. Anh Hữu tôi trước cũng phục vụ trong quân đội. Lần đó anh đã nhận được sự vụ lệnh đi tu nghiệp một ngành chuyên môn ở ngoại quốc. Không ngờ trong khi còn ở lại đơn vị để chờ bàn giao công việc, anh đã bị pháo kích chết. Vụ ấy cứ ám ảnh mãi trong đầu óc tôi...
Liền đêm đó tôi viết thư cho anh Thành để thúc giục. Nhưng thư chưa kịp gởi tôi đã nhận được thư anh báo tin:
"Vì tình hình chiến sự, vụ thuyên chuyển của anh đã bị tạm đình".
Ông trời trêu tôi đến thế này sao? Tôi cảm thấy lúng túng và càng đâm ra lo sợ thêm. Suốt mấy ngày liền tôi cứ bần thần, hoang mang không làm gì được. Cô Hậu lại phải an ủi tôi, khuyên tôi cứ lo thu xếp cho mấy cháu vào trường học và lo đi trình diện nhiệm sở mới.
Nỗi lo sợ của tôi không ngờ đã biến thành sự thật một cách phũ phàng. Mấy ngày sau thì tôi nhận được cái tin anh Thành đã bị thương nặng. Anh đã được đưa về chữa trị tại Quân y viện Cộng Hòa! Thật éo le hết sức! Nếu chưa đi Đà Lạt, tôi còn dễ xoay xở tiền nong và gởi mấy cháu cho bà nội để vào thăm anh. Nhưng bây giờ thì tôi kẹt cứng! Việc sắm sửa để di chuyển vào Đà Lạt vừa qua tôi đã bị hao tốn khá nhiều. Tới Đà Lạt lại làm gia đình cô Hậu hao tốn cũng không ít. Chẳng lẽ giờ lại tiếp tục làm phiền cô Hậu? Hơn nữa, tôi trình diện nhiệm sở mới đã trễ mất một thời gian, giờ lại xin phép nghỉ để đi thăm chồng càng khó nói. Dù có xin được phép, cô Hậu buôn bán đầu tắt mặt tối, tôi biết gởi lũ con cho ai? Cuối cùng, tôi chỉ còn nước đánh điện cho ba mẹ tôi ở Sài Gòn biết để nhờ ông bà lo liệu thế nào đó rồi tính tiếp.
Tối hôm đó, đợi cô Hậu ăn uống xong tôi mới đưa bức điện tín ra nói chuyện. Cô hoảng hốt kêu trời than thở một hồi rồi hỏi tôi:
- Bây giờ con tính sao?
Tôi thành thật nói ra những điều mình đã suy nghĩ. Cô Hậu nói:
- Cô cũng đang lo bấn cả ruột. Cả tháng nay dượng Tánh con không về thăm, cô không yên bụng chút nào. Giờ lại thêm cái vụ thằng Thành nữa! Cô hiện giờ cũng không được dư dả chi lắm, thôi để cô liều bốc cái huê non lấy tiền cho con đi. Mới đầu huê phải bốc hơi cao, nhưng mình có việc cần, thiệt thòi một chút cũng chẳng sao! Cô cũng muốn vào thăm nó lắm nhưng đi bỏ sạp hàng lâu ngày đâu có được! Con phải ráng đi thăm để săn sóc an ủi nó! Nếu không, lỡ xảy ra việc gì cô cháu mình sẽ ân hận cả đời! Con lo chuẩn bị đi, chừng năm bữa nữa người ta thu tiền xong cô đưa cho!
Nghe nói chuyện bốc huê, lại bốc kỳ đầu, tôi phát hoảng:
- Đừng cô ơi! Chúng con đến đây đã làm cô hao tốn quá nhiều, giờ cô lại bốc huê kỳ đầu lỗ nhiều lắm, con không dám nhận đâu!
Cô Hậu nói:
- Không, cô bắt con phải nhận! Con không được quyền thả liều! Con phải vào thăm cho nó lên tinh thần chứ!
Thật ra tôi cũng muốn chắp cánh về Sài Gòn để gặp chồng tôi ngay! Nhưng cứ bấu víu vào cô Hậu như vậy lương tâm tôi không cho phép! Vì thương cháu cô Hậu không suy tính hơn thiệt nhưng tôi cũng phải biết tự trọng chứ! Đi chuyến này xong trở về bốn mẹ con tôi lại xúm vào ăn bám gia đình cô chứ biết làm sao?
Có lẽ do suy nghĩ, lo lắng quá nhiều nên tôi lại bị phát bệnh. Một trận sốt đã buộc tôi nằm liệt giường ngót nửa tháng. Tự nhiên tôi lại hành hạ cô Hậu thêm một đợt nữa! Cô Hậu đã bốc lỡ cái huê với giá khá cao cũng đành để dành đó.
Tôi vừa lành bệnh cô Hậu liền thúc giục tôi đi thăm anh Thành ngay. Cô đích thân kéo tôi cùng đi lo phương tiện. Tôi áy náy quá - mình đã làm cô tốn kém nhiều rồi, vả lại tôi đã viết thư nhờ ông bà ngoại lo chuyện đó - nên tôi không chịu đi. Tới lúc này cô Hậu mới đưa tôi xem một lá thư:
- Thư của con đây! Thư đến nhằm lúc con đang bệnh nặng, cô nóng lòng muốn biết tin nên mở ra xem trước. Không ngờ tình trạng thằng Thành bi đát quá nên cô phải giấu chưa dám cho con biết! Giờ con coi thư đi rồi muốn tính sao thì tính!
Thì ra thư của ông ngoại! Tôi hoảng hốt vội mở ra xem. Trời ơi: anh Thành đã bị cưa mất cả hai chân! Không ngờ tình trạng chồng tôi lại thê thảm đến thế! Thế là hết! Tôi bưng mặt khóc òa. Cô Hậu lặng lẽ để mặc tôi khóc lóc một hồi rồi mới nói:
- Giờ con phải giữ gìn sức khỏe, phải bình tĩnh sáng suốt để lo tính mọi việc. Trước hết, bằng mọi cách con phải vào thăm nó! Lúc này nó cần người thân an ủi hơn lúc nào hết. Đừng để nó tủi thân tội nghiệp! Chuyện tiền bạc cô sẽ gắng chạy cho!
Lúc ấy ý khí của tôi hình như đã tan biến hết. Cô tôi nói rất phải: Tôi phải tìm mọi cách để thăm nom an ủi chồng tôi kịp thời. Tôi hối hả giục cô Hậu giúp tôi lo phương tiện để đi Sài Gòn...
Nhưng khi bước ra bên ngoài chúng tôi mới biết tình hình an ninh đã trở nên hết sức bi quan. Ở đâu tôi cũng thấy thiên hạ hoảng hốt, nhốn nháo! Người ta nói đường bộ đã bị gián đoạn nhiều nơi, hãng hàng không thì lúc nào người cũng chật như nêm, chen không lọt. Trên đường phố cũng đã xuất hiện những người lính thất trận từ Pleiku, Ban Mê Thuột chạy về lang thang lếch thếch tìm người thân. Việc đi lại ngay tại địa phương cũng đã trở nên khó khăn. Những người quen của cô Hậu biết tôi đang cố gắng tìm cách đi Sài Gòn thăm chồng đều can ngăn:
- Tình hình này đi Sài Gòn cũng khó khăn lắm. Không chừng đã không tìm được chồng lại lạc luôn con có khổ thêm không? Lúc này phải mẹ đâu con đấy cho rồi bà ơi!
Những lời khuyên ấy thật có lý. Nếu tôi về Sài Gòn được, biết đâu lại chẳng xảy ra thêm tình trạng mẹ một đường con một nẻo! Cô Hậu lại càng tỏ vẻ bối rối hơn vì tình hình đã quá nghiêm trọng mà dượng Tánh vẫn bặt tăm hơi. Tôi lấy tiền bạc của cô Hậu để đi thăm chồng rồi lỡ dượng Tánh gặp chuyện không hay cô Hậu lấy gì để lo? Nghĩ như vậy nên tôi lại quyết bỏ ý định đi thăm chồng!
Cuối tháng 3/75 thì hầu hết các đơn vị quân sự cũng như hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa tại Đà Lạt đã di tản hết. Mấy ngày sau thì bộ đội miền Bắc tới. Thế là xong - có thể không bao giờ tôi được gặp lại anh Thành nữa! Tôi lại khóc ngày khóc đêm, hối hận về việc mình lỡ mất cơ hội đi thăm anh khi vừa nghe tin anh lâm nạn! Cô Hậu tuy cũng lo bấn xác nhưng vẫn khuyên giải tôi:
- Thôi con ơi, số phận xếp đặt cả! Bây giờ đang đánh nhau lớn, biết đâu ngày hòa bình lại chẳng sắp tới! Con cứ gắng ngày đêm cầu nguyện Trời Phật phù hộ cho nó đi! Chứ khóc lóc, rầu rĩ chỉ hại thân thôi, đâu có giải quyết được gì!
Phải, tôi đâu có thể làm gì khác được! Hằng ngày ngoài việc giúp đỡ cô Hậu trong nhà hay ở sạp hàng, tôi chỉ biết tập trung tâm trí vào việc cầu nguyện.
Giữa lúc ấy thì có hai chú bộ đội rất trẻ đến xin ở tạm trong nhà cô Hậu. Đây là lần đầu tôi gặp những con người mà trước kia tôi chỉ nghe tiếng và rất sợ họ. Cả hai đều ăn nói từ tốn, lễ phép, họ tỏ ra rất biết cách ăn ở. Thấy trong nhà có chút rác họ tự động tìm chổi để quét. Thấy thùng phuy chứa nước cạn, họ cũng tìm thùng đi xách nước đổ đầy. Nhiều lúc họ hồn nhiên đùa giỡn, làm đồ chơi hay dạy chữ cho các con tôi nữa. Họ cho biết, vì thương đồng bào ruột thịt, họ phải từ bỏ cảnh sống thanh bình ở miền Bắc, xẽ dọc Trường Sơn để vào giải phóng miền Nam. Họ cũng giải thích chính sách khoan hồng của chính phủ cách mạng đối với kẻ thù khiến lòng tôi cũng giảm được phần nào lo lắng. Tôi nghĩ thầm hóa ra lâu nay mình chỉ sợ bóng sợ gió thôi. Dần dần tôi đâm ra mến phục họ, coi họ như những đứa em ngoan.
Trong thời gian ấy, thằng Tí con tôi đã vô tình gây nên một chuyện cười ra nước mắt. Số là chiều hôm kia giới hữu quyền ở Đà Lạt đã tổ chức một buổi chiếu phim phổ biến những chiến thắng của cách mạng trên chiến trường miền Nam tại công trường Hòa Bình cho dân xem. Hai chú bộ đội ở nhà cô Hậu có nhiệm vụ giữ an ninh trong buổi chiếu phim ấy. Em Lâm con cô Hậu rảnh rỗi nên cũng dắt thằng Tí đi xem. Do óc tò mò buổi đầu, thiên hạ đi xem rất đông. Vì thằng Tí bé quá đứng dưới đất không xem được nên em Lâm công kênh lên cổ cho nó xem. Khi mọi người đang mải miết theo dõi phim, thằng Tí thấy trên màn ảnh có một chiếc máy bay xuất hiện khoái quá kêu lên:
- Máy bay! Máy bay!
Nào ngờ một số người nghe kêu máy bay thình lình tưởng báo động nên cũng hoảng hốt kêu theo "máy bay, máy bay" đồng thời xô nhau chạy tán loạn! Em Lâm sợ quá vội cõng thằng Tí chạy một mạch về nhà. Khi chạy được một đoạn em Lâm nghe tiếng loa phóng thanh vang lên:
- Yêu cầu đồng bào ổn định, yêu cầu đồng bào ổn định! Xin đồng bào trở lại vị trí cũ để xem phim tiếp. Vừa rồi kẻ xấu đã cố tình loan tin thất thiệt với mục đích phá hoại buổi chiếu phim nhưng âm mưu đen tối của chúng đã bị cách mạng đập tan! Xin đồng bào trở lại vị trí cũ để tiếp tục xem phim!
Em Lâm về tới nhà liền đem chuyện ấy kể lại làm ai nấy phải cười vỡ bụng. Buổi tối, hai chú bộ đội đi an ninh trở về hớn hở khoe với cô Hậu:
- Cô biết sao không? Tụi Ngụy quả thật ngoan cố! Chiều nay, trong khi chính quyền đang chiếu phim cho đồng bào xem, chúng dám đột nhập vào để phá hoại đấy! Nhưng chúng con đã phản ứng kịp thời, đánh đuổi chúng chạy có cờ! Tiếc rằng đồng bào ta đi xem quá đông nên chúng mới lợi dụng lẫn lộn trong dân mà chạy thoát!
Cả nhà chúng tôi lại một phen nhìn thằng Tí mà cố nín cười! Ai ngờ kẻ phá hoại ghê gớm ấy lại chính là một cậu bé năm sáu tuổi trong nhà mình! Hóa ra mấy chú bộ đội trông thật thà thế kia cũng nói dóc quá trời!
Nhờ cái radio của hai chú bộ đội, tôi cũng theo dõi được ít nhiều tình hình cuộc chiến. Mặc dầu phe cách mạng đang chiến thắng dồn dập nhưng Sài Gòn vẫn còn đó, tôi vẫn còn hi vọng Việt Nam Cộng Hòa sẽ có một cuộc phản công để tái chiếm những phần đất đã mất như hồi tết Mậu Thân. Nhưng dần dần nghe các đài ngoại quốc bình luận miết về tình thế bi quan của miền Nam, tôi cũng tuyệt vọng theo. Thế rồi trong lòng tôi bỗng nẩy sinh một sự thay đổi lớn: Tôi lại mong cho phe cách mạng sớm chiến thắng! Chỉ có cách đó tôi mới có hi vọng gặp lại anh Thành.
Khi nghe được lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh trên đài phát thanh, tôi đã sung sướng đến rơi nước mắt!
Thế là niềm hi vọng gia đình đoàn tụ lại chớm dậy trong tôi. Tôi đã biểu lộ nỗi hân hoan thật tình đối với cuộc chiến thắng của phe cách mạng. Bắt chước những người sẵn có cảm tình với cách mạng từ trước, tôi cũng sắm cho các con tôi mỗi đứa một chiếc khăn quàng đỏ. Lũ nhỏ quàng khăn đỏ trên cổ sung sướng ra mặt khi chúng được người ta gọi là cháu ngoan bác Hồ. Ngoài chuyện đó, những khi được cô Hậu giao cho việc cân bán rau cải, tôi đã cố tình cân trội khi bán hàng cho những người phe cách mạng. Tôi nghĩ đây cũng là một cách bày tỏ cảm tình, chuộc lại phần nào những hiểu lầm của tôi đối với họ trước kia...