← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 41 TRỞ VỀ THĂM QUÊ CŨ

Mẹ con tôi đến đất Mỹ vào giữa năm 1980. Lại thêm một lần đổi đời nữa! Ở trên quê hương mới đã mấy tháng tôi vẫn còn bàng hoàng như gặp chuyện trong mơ! Khi cái tin này đến với cha mẹ tôi và vợ chồng anh Hảo ở Pháp, ai nấy đều ngạc nhiên, mừng rỡ cho rằng tôi đã được ơn trên ban phép lạ!

Thời gian đầu sống trên một đất nước hoàn toàn xa lạ, dĩ nhiên mẹ con tôi không sao tránh khỏi những khó khăn. Tôi đã gắng gạt bỏ những phiền muộn cũ để tập trung trí lực lo xây dựng cuộc sống mới. Trong khi các con tôi đến trường học, tôi cũng dựa vào đồng tiền chính phủ trợ cấp ráo riết trau dồi Anh ngữ. Tôi đã học đêm học ngày như thuở còn học trò trước mùa thi cử. Cứ có dịp là mẹ con tôi trao đổi, thực tập nói chuyện với nhau bằng ngôn ngữ của xứ sở tạm dung. Nhờ những cố gắng ấy, các con tôi đã mau chóng theo kịp bạn bè cùng lớp và tôi cũng thêm bạo dạn để bước vào xã hội mới. Khi vừa hết thời kỳ nhận được trợ cấp tôi cũng vừa có thể tự kiếm được vài công việc phù hợp với sức mình. Những khi rảnh rỗi tôi vẫn tiếp tục lo việc hoàn chỉnh ngôn ngữ.

Trong thời gian này cha mẹ tôi ở Pháp đã lần lượt qua đời. Anh Hảo có lẽ vì cuộc sống gia đình riêng tư ràng buộc, thư từ qua lại với tôi cũng thưa dần.

Tôi đã cố gắng không ngừng để bắt kịp nhịp sống trong xã hội mới. Thế rồi một thời gian sau tôi đã hân hạnh được trở lại với cái nghề cũ cao quí của mình: nghề dạy học. Nhờ cái nghề này, tôi đã có cơ hội nghiên cứu về ngành giáo dục nước Mỹ, tôi đã dìu dắt được các con tôi đi đúng đường, ít nhất là trong việc học hành. Tôi hết sức vui mừng khi thấy các con tôi đều trở nên những học trò ngoan, giỏi, có nhiều triển vọng trong tương lai.

Khi công việc làm ăn đã vững vàng, cuộc sống vật chất đã ổn định, thì giờ không còn gò bó nữa, tôi lại dần dần trở về với cuộc sống nội tâm. Có lẽ vì tôi chưa già lắm, nhan sắc còn khá mặn mà, nên vẫn còn một số đàn ông chú ý, theo đuổi. Nếu muốn lập lại cuộc đời tôi nghĩ cũng dễ dàng thôi. Thế nhưng tình cảm riêng tư trong tôi đã thật sự nguội lạnh. Ngoại trừ những liên hệ cần thiết trong công việc, tôi không còn muốn giao thiệp thân thiện với bất cứ một người đàn ông nào. Tôi chỉ đổ dồn hết tình thương cho các con tôi, cố gắng xây dựng cho chúng nên người.

Nhưng khốn nỗi những tủi nhục, cay đắng trong dĩ vãng vẫn mãi đeo đuổi quấy rối tôi! Nhất là cái thái độ thiếu thông cảm của anh Thành đối với tôi trước đây nó vẫn ám ảnh tim óc tôi mãnh liệt! Cứ nhớ tới chuyện cũ lòng tôi lại ray rứt xót xa hoặc uất hận ngập tràn! Tôi vẫn luôn bị dằn xé bởi hai trạng thái tình cảm tương phản đó. Sau nhiều lần suy ngẫm, tôi nghĩ chẳng nên đỗ lỗi cho anh Thành. Thật ra anh Thành cũng chỉ là một nạn nhân đáng thương. Anh đã bị chiến tranh cướp mất một phần thân thể! Anh đã bị mất hết bạn bè, đồng đội, những người từng chia sẻ gian nguy cùng anh! Anh đã bị mất hết tình thân yêu cần thiết của một gia đình (khi nghĩ rằng tôi đã hư hỏng, đã phản bội anh)! Anh cũng không còn khả năng để tự nuôi thân mà phải chịu nhục nhã làm một kẻ hành khất! Với một người khí chất cứng cỏi, bấy nhiêu điều đó đã đủ làm đầu óc anh dễ dàng trở nên điên loạn! Lòng anh đã chết, trí anh đã quẩn, anh làm sao giữ được một thái độ đối xử bình thường với tôi, kẻ đã làm anh thất vọng nhất? Không, dù sao anh cũng chỉ là một nạn nhân của hoàn cảnh. Tôi phải tìm cách cứu vớt anh, kéo anh ra khỏi bể khổ! Đó cũng là cách duy nhất giúp tôi tự giải tỏa nỗi khổ tâm của chính mình!

Từ khi sang Mỹ tôi vẫn liên lạc đều đặn với Phương Liên. Nó vẫn tiếp tục công việc buôn bán lớn. Tôi đã nhiều lần nhờ Phương Liên dò tìm xem anh Thành ở đâu nhưng không có kết quả.

Với ý nguyện phải cứu vớt anh Thành, tôi đã gắng tiết kiệm từng đồng để dành cho một chuyến đi Việt Nam khi có dịp thuận tiện. Đồng lương nhà giáo không cao, lại phải chi phí nhiều khoản cho các con ăn học, tôi phải chờ mãi đến tám chín năm sau mới thực hiện được ý định.

*

Khi trở về Việt Nam, tôi tạm trú tại nhà Phương Liên, coi như đó là căn cứ chính. Thấy nó vẫn làm ăn phấn phát tôi rất mừng. Sau mấy ngày nghỉ ngơi rong chơi với bạn, tôi lại về thăm Thiện Trường.

Lúc bấy giờ xã Thiện Trường đã thay đổi khá nhiều. Nhà cửa phần lớn đã lên ngói đỏ, trông khang trang hơn trước nhiều lắm. Đường sá trong thôn xã cũng đã xây đắp cao ráo, sạch sẽ, đẹp đẽ hơn xưa. Nói chung, những đổi thay về mặt hình thức đã khiến lòng tôi rộn lên bao nỗi vui mừng.

Tôi bồi hồi bước về ngôi nhà cũ của mình. Vừa thấy ngôi nhà, một mối xúc động trong tôi đột dâng như một cơn sóng, khiến tôi rơi nước mắt. Trông nó nhỏ bé, xơ xác một cách đáng thương! Tôi bước vào gọi cửa. Một hồi lâu mới có một ông già chỉ mặc độc cái quần đùi lọm khọm bước ra:

- Thưa cô hỏi ai?

- Cháu là Diệu Ngọc đây chú Đức ơi! Chú không nhìn ra cháu sao?

Ông già dừng lại nhìn sửng tôi một lúc rồi kêu lên:

- Trời ơi, Diệu Ngọc đó à? Bất ngờ quá ai mà đoán ra được? Cháu trông trẻ và đẹp hơn trước quá nhiều! Thôi, vào nhà rồi chú cháu mình nói chuyện.

Gần mười năm rồi còn gì nữa mà trẻ hơn trước khi đi? Dù sao lời tán thán của ông chú họ cũng tạo cho tôi ít nhiều thích thú. Nhìn lên bàn thờ thấy các bài vị vẫn nguyên vẹn vẻ quen thuộc, được lau chùi sạch sẽ, sáng sủa, tôi rất mừng. Sau khi sắp đặt ít quà và đốt hương để lễ bái xong, tôi nói:

- Chuyến này cháu về đây trước là thăm chú, sau để hỏi thăm tin tức về anh Thành. Lâu nay chú có nghe tin tức gì về anh ấy không?

- Trước đây chú có nghe con mẹ Búa nói qua một lần. Nó gặp thằng Thành đang bò lết ăn xin đâu ở bến xe Ninh Thuận! Ngoài lần đó chú không còn nghe gì nữa.

Tôi vừa bùi ngùi vừa mừng rỡ hỏi lại:

- Nghe lâu chưa chú? Bây giờ bà Búa ở đâu?

- Khoảng chừng một năm. Nhưng bây giờ con mẹ Búa chết rồi làm sao mà hỏi.

- Khổ chưa. Mà bà Búa nào thế chú?

- Vợ cái thằng Búa dời cồn mồ gian dối bỏ xương cốt người ta lăn lóc khắp nơi đó. Trời phạt mà! Nghe gia đình nó vào Nam làm ăn không ra gì, đau lên đau xuống cả nhà, vợ nó sói tóc sói tai hết, phải về lại đây nhưng rồi cũng không qua khỏi.

- Ồ, cháu nhớ rồi! Dời cồn mồ để đào hồ thủy lợi đó mà! Cái hồ đó chắc đồ sộ lắm chú hả? Biết bao nhiêu công sức của dân đổ vào đó cả. Lúc này mùa nắng xã mình chắc đỡ lo nước tưới phải không chú?

Chú Đức cười nói với giọng hài hước:

- Nước tưới cái khỉ khô! Hàng vạn công đổ vào đó trong suốt mấy năm đào được cái hồ cũng to rộng thật đó. Nhưng cứ tới mùa khô nước chỉ còn lại một vũng đủ chỗ cho vài chục con vịt tắm!

Tôi hết sức ngạc nhiên hỏi lại:

- Thật vậy sao chú? Thế mấy cái suối nước chảy quanh năm đó cũng khô à?

- Cây cối đốn sạch để làm rẫy thì cái gì mà chẳng khô! Nhưng xã hội chủ nghĩa mà! Đào cái hồ như vậy cũng là cách biểu hiện được sức mạnh của quần chúng anh hùng lao động rồi!

Tôi thở dài, nhưng vẫn chưa tin hẳn đó là sự thật.

Vì vấn đề an ninh, buổi chiều tôi lên Huế tìm chỗ nghỉ. Trước khi đi, tôi đã nhờ chị Lâm với chị Hiền giúp chuẩn bị một bữa tiệc nhỏ vào trưa hôm sau. Mục đích trước cúng ông bà, sau đãi hàng xóm và một số người quen biết. Tôi cũng nhờ chú Đức và hai chị lo giúp luôn việc mời khách. Chị Lâm và chị Hiền lại nhờ thêm mấy người phụ việc...

Hôm sau, khoảng chín giờ sáng, khi tôi đang nói chuyện với mấy người quen đến thăm thì chị Lâm với chị Hiền cùng hai cô gái trẻ đi mua các thứ vật hạng về. Tôi rất ngạc nhiên thấy một trong hai cô gái bận bộ đồ tím y trang bộ đồ kỷ niệm quí báu mà anh Thành đã tặng tôi ngày xưa. Chẳng lẽ đây là bộ đồ của tôi đã bị mất trộm ngót mười lăm năm trước? Hình bóng vật xưa đã gợi tôi nhớ đến anh Thành, lòng tôi bỗng nao nao xúc động. Như một phản xạ tự nhiên, tôi bước lại gần cô gái vừa khen vừa cầm hai chéo áo lật xem:

- Chà, bộ bồ này may ở đâu mà đẹp vậy?

Rõ ràng có chữ Ngọc và chữ Thành bằng chữ Hán ở hai chéo áo do chính tay tôi thêu! Đúng là bộ đồ của tôi rồi! Nhưng tôi càng ngạc nhiên hơn khi cô bé trả lời một cách tự nhiên:

- Đồ của mẹ con may lâu lắm rồi, nay con mới lấy ra bận đấy!

Kỷ vật rõ ràng đó mà giờ đây chồng tôi lưu lạc phương nào? Tôi rùng mình hình dung ra một người ăn xin què quặt đang lết giữa chợ! Lòng thương cảm chồng bất ngờ ập đến khiến tôi bật khóc òa. Mọi người ngạc nhiên xúm lại rối rít hỏi:

- Sao thế? Chuyện gì vậy?

Cô bé tỏ ra rất vô tình - lúc tôi mất bộ đồ này có lẽ cô mới bốn năm tuổi là cùng - chính cô cũng kinh ngạc hỏi tôi:

- Tại sao thím khóc vậy? Thím nhớ mấy đứa con thím hả?

Mấy người kia cũng tỏ vẻ thắc mắc. Một lát sau tôi mới trấn tĩnh lại được. Tôi nói:

- Có gì đâu! Tự nhiên tôi nhớ mấy đứa con thôi!

Thật tình tôi cũng chẳng biết cô bé ấy con nhà ai và cũng chẳng dám hỏi ai nữa. Tất nhiên chẳng một ai hiểu nguyên nhân thật sự đã làm tôi xúc động đến thế. Tôi cũng muốn cho chuyện qua luôn nên giả vờ nói lảng sang chuyện khác. Tuy thế, lòng tôi vẫn rưng rức nghĩ tới vật cũ người xưa...

Khoảng một giờ sau tôi nghe chị Lâm nói:

- Cái con Mãn tôi đã nhờ nó lo việc nấu cơm, không biết sao nó nói về nhà một lát sẽ qua, giờ lại nín luôn thế kìa? Thằng Tuất mày sang nhà bà Lộc gọi nó thử coi!

Thằng nhỏ cháu chị Lâm chạy đi một hồi trở về báo:

- Ngoại ơi, bà Lộc đang mắng chửi cô Mãn dữ lắm! Cô Mãn thì đang ôm mặt khóc. Con kêu cô nhưng cô lắc đầu nói: "Nói bà ngoại nhờ người khác làm đi!"

Tôi chột dạ hỏi chị Lâm:

- Cô Mãn nào thế chị Lâm? Còn bà Lộc có phải là thím Lộc em ông Nhiêu ở phía sau nhà em không?

- Đúng là bà Lộc đó chứ ai nữa. Con Mãn là con út của bà Lộc, cái con bận bộ đồ tím khi nãy đó!

Trời đất ơi! Bây giờ thì tôi hiểu lý do tại sao cô Mãn về nhà rồi không chịu sang nữa! Chắc cô Mãn đã nói cho thím Lộc biết vụ tôi bị lên cơn xúc động bất thường. Nhất định thím Lộc đã biết rõ cái nguyên nhân gây ra sự xúc động đó. Tôi hỏi:

- Thế chị có mời thím Lộc đến dự không?

- Có mời nhưng bà ta nói không đi được. Cô Ngọc chưa biết bà ta đã bị mù cả mấy năm nay rồi à?

Tôi kêu lên:

- Chết cha, em đâu biết! Thôi, cô Mãn không qua nữa để cơm em nấu cũng được!

Chị Lâm không hiểu ý tôi nên nói:

- Con Mãn không qua thì thôi. Để tôi kiếm người khác thế, thiếu gì người. Cô Ngọc cứ lo nói chuyện với khách đi!

Buổi tiệc hôm ấy đã diễn ra khá vui vẻ. Với một số người thân thiết tôi còn tặng riêng một chút quà nhỏ. Trong xóm chỉ thiếu gia đình thím Lộc không có ai đến dự. Nhưng hình như ngoài tôi ra cũng chẳng ai để ý đến chuyện đó.

Khi khách đã vãn, tôi tự mình mang một ít thức ăn sang thăm thím Lộc. Thím có vẻ ngượng khi nghe tôi đến:

- Cô Ngọc ở Mỹ về thăm đó hả?

Thím Lộc vừa nói vừa chống gậy bước ra. Trông dáng mù lòa xơ xác của thím tôi xúc động quá.

- Dạ, tôi mới về thăm. Không ngờ bây giờ thím lại bệnh hoạn thế này...

Thím Lộc khóc sụt sịt:

- Tôi xin lỗi hồi ấy gặp lúc cùng túng quá nên tôi đã làm chuyện không tốt... Bây giờ tôi đang bị trời phạt cô à...

Tôi chận lại:

- Chuyện đáng gì mà thím nói vậy! Thôi, bỏ qua đi, tôi không nghĩ gì về chuyện ấy nữa đâu! Lúc này gia đình thím làm ăn ra sao?

Thím Lộc mời tôi cùng ngồi trước bộ phản để nói chuyện. Trước kia cả nhà thím chỉ trông vào đồng lương lính của chú Đán. Vì thế khi chú Đán mất, gia đình thím trở nên túng thiếu. Thím Lộc phải một mình lăn lộn nuôi con. Cũng may là khi ba đứa con thím bắt đầu làm việc được thím mới ngã bệnh. Lấy mình mà suy, tôi rất thông cảm hoàn cảnh của thím Lộc. Sau khi nói vài câu bâng quơ cho thím yên lòng, tôi đứng dậy giã từ:

- Tôi về thăm lần này thì giờ ít quá nên không thể tâm sự với thím lâu được. Xin thím vui lòng nhận một chút quà nhỏ để dùng cho vui... Hai trăm ngàn đó thím!

Tôi đặt xấp tiền vào tay thím Lộc. Thím bỗng nắm tay tôi khóc òa lên:

- Cô tốt quá làm tôi xấu hổ lắm! Cô tha cho tôi nhé!

- Được rồi thím, tôi quên hết chuyện xưa rồi! Thì giờ ít quá, thôi tôi xin phép thím. Lần khác về tôi sẽ sang thăm thím.

*

Hôm thứ ba tôi rủ chú Đức cùng vài người bạn đi thăm mộ ông bà nội. Khi đi ngang qua hồ thủy lợi Thiện Trường, chú Đức nói với tôi:

- Cháu thấy chưa, tốn hàng vạn công lao động để rồi đạt được kết quả như thế đấy!

Trước mắt tôi là một cái hồ bờ rất cao, rộng bao la, nhưng đã khô cạn. Quả đúng như lời chú Đức nói. Hàng vạn công bỏ ra đào, kết quả chỉ còn một vũng nước nhỏ đủ để cho mấy chục con vịt tắm thật! Giờ đây muốn lấp lại cái hồ này cũng khó lắm đấy! Chị Hiền tiếp lời:

- Chị Diệu Ngọc may mắn không nhúng tay nhúng chân tới đó chứ tôi sơ sơ cũng đóng góp cả tháng công!

Chị Vàng cũng mở cái miệng đã móm xọm, nói giọng chua chát:

- Chuyện Thiện Trường mình mà nói chi ngạ!

Tôi nhìn quanh rồi nhận xét:

- Việc đào hồ thủy lợi thất bại nhưng nhiều mặt khác cũng tiến bộ nhiều đó chứ! Lúc này em thấy nhà cửa xã mình lên ngói quá nhiều, ngoại trừ ngôi nhà của em, đâu còn ngôi nhà nào lụp xụp như xưa?

Chị Vàng đáp ngay:

- Ngói thì ngói thật đấy! Nhưng là "ngói đủ" cả thôi. Bên ngoài nhà nào cũng có vẻ bề thế hơn trước, nhưng bên trong nếu cô Ngọc có thì giờ tìm hiểu rồi sẽ biết!

Tôi hiểu ý chị Vàng, "ngói đủ" tức "ngủ đói".

- Chị nói sao chứ nhà cửa xây dựng lên như vậy mà vẫn còn đói à?

- Cô chưa biết đó! Khoản tiền xây nhà cửa phải vay của nhà nước chứ mình làm gì có? Nhà nước vay "Quỹ Phát Triển Kinh Tế Thế Giới" rồi cho mình vay lại đó mà. Ngày trước nhà cửa xập xệ tuy lo sợ mưa gió nhưng ít lo nợ. Bây giờ nhà cửa kín đáo nhưng lúc nào cũng lo lắng trong lòng. Nợ tuy trả dần nhưng mỗi khi tới kỳ trả nợ có người phải chạy sói đầu! Nộp nợ không kịp nhà có thể bị tịch thu như chơi! Vì vậy bây giờ có nhiều hộ còn túng thiếu hơn khi chưa có nhà! Ngói đủ là vậy đó!

Chị Lâm nói thêm:

- Kể ra khu vực mình đây cũng được ưu tiên lắm đó. Nhà nước muốn trang điểm cho bộ mặt xã hội mà! Chỉ có những nơi gần quốc lộ hoặc gần thành phố mới được vay tiền quỹ phát triển kinh tế thế giới chứ không phải bất cứ chỗ nào cũng được vay đâu! Ở các vùng xa xôi hẻo lánh dễ gì mà lên ngói!

Thì ra là thế! Nhưng cũng có điều đáng mừng. Nghe nói những cán bộ thôn xã đã giảm bớt thói hạch sách chèn ép dân chúng. Việc đi lại đây đó cũng tương đối dễ dàng hơn trước. Ruộng đất chính quyền đã khoán cho dân để thu sản phẩm ít nhiều theo qui định. Ai muốn làm thì làm, ai không muốn làm cứ mặc tình tìm việc khác. Vậy cũng là tốt rồi!

*

Trước khi ra đi tôi lại ân cần nhờ chú Đức thường xuyên coi sóc giúp hai ngôi mộ cha mẹ chồng tôi. Tôi cũng chi một số tiền để chú tu sửa lại ngôi nhà ở. Đồng thời tôi cũng nhờ chú Đức gắng hỏi thăm về tin tức anh Thành. Sau đó tôi trở về Bà Rịa với Phương Liên.

Khi nghe tôi kể lại chuyến về thăm Thiện Trường xong, Phương Liên nói:

- Thế là chàng vẫn bặt tăm! Diệu Ngọc nghĩ có nên đăng báo để tìm không?

- Không thể được! Cái tự ái của anh ấy cao như ngọn núi đời nào anh ấy chịu tìm mình. Mình nhờ Phương Liên hướng dẫn mình đi chơi một vài nơi được không? Mục đích chính không phải là du lịch mà đây chỉ là một dịp đi cầu may. Mình muốn có cơ hội đi qua một số bến xe ở các thành phố, biết đâu trời còn thương, mình lại gặp anh ấy ở đó!

Phương Liên lắc đầu mà cười:

- Đối với bồ mình không tiếc công đâu. Nhưng tìm chim giữa trời khó lắm! Vả lại thì giờ của bồ ở lại đây cũng không còn mấy mà trông bồ cũng mệt mỏi rồi. Bây giờ hãy du lịch thật sự đi, bồ muốn đi chơi đâu mình sẵn sàng hướng dẫn. Lo cho tâm trí mình thoải mái cái đã. Lần sau bồ chuẩn bị kỹ càng hơn, về một chuyến nữa, mình sẽ giúp bồ thực hiện ý nguyện. Đồng ý không?

Thấy đề nghị của Phương Liên cũng có lý, tôi đồng ý. Nhưng rồi tôi cũng không du lịch đâu cả. Tôi chỉ lên Đà Lạt thăm gia đình cô Hậu mấy ngày rồi trở về Mỹ.