← Quay lại trang sách

- 11 -

Nguyên lang thang một mình trong đền cô Bơ Thoải. Hôm nay không có lễ hầu nên đền vắng lặng. Hiếm khi đền vắng như thế này. Vài ba người giúp việc đang lau chùi nơi này nơi kia. Vì biết Nguyên là bạn của thủ nhang đồng đền nên mọi người không hỏi, để mặc anh tha thẩn một mình.

Thủ nhang đồng đền Kiên cũng đi đâu đó. Nguyên lẳng lặng đứng rất lâu trước ban tượng thờ cô Bơ Thoải. Anh lặng lẽ nhìn pho tượng có gương mặt đẹp, thanh thoát, đầu vấn khăn xám, cổ đeo vòng vàng, hai bàn tay để trên gối. Tướng ngồi nhẹ nhàng, gần gũi chứ không oai nghiêm như bên các Mẫu. Anh rất muốn hỏi cô rằng linh hồn Minh Mẫn giờ đang ở đâu? Liệu có phải vẫn đang quanh quẩn hầu bên cô chăng? Anh có thấy tôi không vậy Mẫn? Nguyên căng mắt nhìn khoảng không lờ mờ phía trước trong mùi nhang khói, tưởng tượng ra một thanh niên trẻ tên Mẫn đứng đó.

Giờ Nguyên chẳng nghi ngờ gì nữa về mối quan hệ tình cảm giữa anh trai mình và Mẫn. Như vậy sau khi anh trai mình chết, Mẫn xuất cảnh đi nước ngoài luôn, mấy năm sau đó, Long có cho biết là cũng có nghe tin Mẫn cũng bị tai nạn xe ô tô và qua đời. Có lẽ linh hồn họ giờ đây đã tìm về bên nhau, Long kết luận đầy cảm thán. Xem ra Nguyên đã có câu trả lời với người đàn bà kia rồi. Long cho anh biết, ngôi đền cô Bơ này là nơi Mẫn hay đến để hầu đồng và cũng chứng kiến tình yêu Hiệp dành cho Mẫn như thế nào. Nơi đây, theo Long nhấn mạnh là nơi chứng kiến tình yêu thăng hoa của họ.

- Kiên đi đâu đó về, vui mừng khi thấy Nguyên.

- Ủa anh đến khi nào vậy?

- Kiên nè, tôi muốn hỏi em một chuyện?

Kiên õng ẹo, che miệng nhìn Nguyên mủm mỉm cười. Đến bây giờ Nguyên mới phát hiện ra Kiên có một cử chỉ rất nữ tính, đó là rất hay che miệng khi cười. Nụ cười khơi gợi của gã trai đồng tính đã gợn trong lòng Nguyên những cảm giác khó chịu, nhưng anh cố trấn tĩnh giấu giếm bởi anh đang cần cậu ta giúp đỡ.

Mặc dù Nguyên xua tay từ chối, nhưng Kiên vẫn bày trái cây ra bàn và tự tay gọt bưởi mời anh. Sự nhiệt tình của cậu ta khiến Nguyên ngẩn ngơ.

- Hồi đó em có biết chuyện tình cảm giữa nhà thiết kế thời trang tên Mẫn và người yêu tên Hiệp không?

- Sao không biết! Tình yêu họ nổi tiếng trong giới tụi em lắm mà. Hồi em về với má thì hai ảnh đã không còn sống bên nhau nữa, anh Hiệp mất còn anh Mẫn xuất cảnh, má cho em biết hồi xưa hai ảnh thỉnh thoảng dẫn nhau đến đây chơi hoài mà. Má quý hai ảnh lắm, má còn nói, mong sao sau này em có một người như vậy thì đời em sẽ hạnh phúc.

Không hiểu sao khi Kiên nói câu đó má cậu ta lại đỏ lên vẻ thẹn thùng và thoáng liếc Nguyên, anh ngó lơ đi nơi khác.

- Vậy tức là hai người này chứ?

Nguyên ngập ngừng đưa ra tấm ảnh Mẫn và anh Hiệp mình. Quá trình đi điều tra vụ án lạ lùng này, trong lòng Nguyên luôn dấy lên những cảm giác hồi hộp không yên. Tại sao lại là anh chớ không phải là người khác làm vụ này, tại sao bà ta chọn anh? Tại sao dạo này trong anh luôn loáng thoáng về hình bóng người anh trai đã chết mà anh không thể nào nhớ nổi gương mặt. Khi nhà thiết kế Long gặng hỏi rằng anh có anh, em trai nào không? Nguyên đã giấu giếm không trả lời. Thế nhưng trong lòng anh đã rất hồi hộp. Một cảnh sát hình sự tên Vũ Hiệp. Tên họ ư, thế gian thiếu gì tên người giống nhau là chuyện thường. Đến khi Long đưa mấy tấm hình chụp giữa Mẫn và Hiệp ra thì Nguyên thấy chấn động như đất sụp đổ dưới chân mình. Hiệp, người đàn ông mà Mẫn yêu thương điên cuồng kia, té ra lại là anh trai của Nguyên. Người anh trai làm công an đã hy sinh, vốn là niềm tự hào của ba má, anh chị trong gia đình, thậm chí là của bà con dòng họ lối xóm nữa kìa. Sau này thi thoảng Nguyên vẫn nghe má kể về anh với giọng tràn đầy tự hào. Không, Nguyên không thể nào tin rằng anh Tư mình là người đồng tính, anh có một mối tình trai. Nguyên đau khổ phủ nhận điều đó nhưng thâm tâm anh hiểu rằng điều đó là vô ích. Sự thật là thế chối làm sao được. Phải chăng vì thế người đàn bà kia mới nhờ anh đi tìm linh hồn Mẫn đang đau khổ lang thang đâu đó đưa về với bà, cũng có nghĩa và thông qua anh để đưa anh trai anh về với Mẫn. Cho họ sum họp nhau như Long đã nói.

Sự thật rõ ràng mười mươi rồi nhưng Nguyên vẫn cố chấp phủ nhận điều đó, anh quyết định đến tìm Kiên, thủ nhang đồng đền cô Bơ Thoải để hỏi thêm một lần nữa về chuyện này.

Kiên liếc qua tấm hình, nói gọn lỏn.

- Thì “vợ chồng” ảnh chớ còn ai nữa.

Hai tiếng “vợ chồng” của Kiên nói, Nguyên nghe thật chướng tai nhưng anh không dám phản đối, ờ mà phản đối gì khi đây là anh trai của anh.

- Ủa em chưa gặp hai ảnh lần nào kia mà.

- Xời… ảnh hầu đồng của anh Mẫn đầy nhóc đây nè, dĩ nhiên còn có anh Hiệp nữa. Họ yêu nhau mà, tiếc là hồi đó có quay video nhưng không rõ giờ đĩa đâu rồi.

Cố giấu câu thở dài, Nguyên hỏi khẽ.

- Em thấy anh Mẫn… anh Hiệp như thế nào?

- Vợ chồng họ rất đẹp đôi, tụi em ngưỡng mộ và ghen tỵ với họ.

Chẳng biết nói gì nữa, Nguyên ngơ ngác nhìn những đốm nắng đang nhảy nhót bên thềm.

- Sau cái chết của anh Hiệp, anh Mẫn xuất cảnh luôn. Đâu hơn một năm sau đó, anh Mẫn có quay lại Việt Nam. Ảnh có đến đền, má em an ủi ảnh nhiều lắm, tội nghiệp ảnh khóc ngày khóc đêm vậy đó – Kiên chép miệng vẻ thương cảm – Rồi ảnh đi thăm đâu đó, sau đó đi luôn, từ đó đến nay không quay về nữa.

Kiên đứng dậy lục lọi tìm trong hộc tủ ra một cuốn sổ con con, đưa cho Nguyên, thở dài.

- Ảnh có ngủ mấy đêm tại đền, đêm nào cũng thức đến khuya, viết gì đó khóc hoài, khóc hoài. Thế rồi khi đi, ảnh lại làm rớt cuốn nhật ký này, em đọc buồn rơi nước mắt luôn. Em giữ, tính khi nào ảnh quay lại sẽ trả nhưng không ngờ ảnh đi luôn.

“Sapa đẹp, điều đó không cần bàn cãi. Lần đầu tiên em đến Sapa, ngồi trong xe hơi, mây mù phủ quanh, em có cảm giác như mình đang trôi lạc đến một xứ sở thần tiên nào đó với nhân vật Tôn Ngô Không cầm Cân đẩu vân bay trên chín tầng mây, e rằng cũng như thế này mà thôi. Khi xe dừng ngay trước ngôi nhà thờ cổ nổi tiếng của thị trấn, Thánh giá Chúa cô đơn vươn cao trong sương mù mờ mịt mà nhìn xa, mọi người lao xao tưởng đó là đỉnh núi. Trưa ăn cơm tại nhà hàng Công đoàn, cô dọn bàn nhắc em, đóng cửa lẹ lên kẻo mây bay vào. Từng ánh mây lững lờ trôi nhè nhẹ quấn quýt bước chân người. Sapa ám ảnh em từ đó và vì thế mà em cùng anh hay rủ nhau lên đây mỗi khi có dịp. Hai người mình nắm tay nhau dung dăng đi khắp nơi, hầu như nơi nào của Sapa cũng có dấu chân của anh của em, trong bầu không khí tĩnh mịch nơi này. Mỗi một mùa đến, Sapa lại thay áo đẹp như trong chuyện cổ tích.

Em nhớ lần hai đứa chúng mình đến Sapa vào một buổi chiều sương mù xuống thấp. Phố xá ngập chìm trong sương. Xa hơn một mét là không ai có thể thấy ai nữa. Ngồi uống café tại cái quán đầu đường vào thị xã, lạnh quá, em run cầm cập, bất chấp ánh mắt tò mò lẫn khó chịu của người khác, anh đã dang hai cánh tay khỏe mạnh ôm chặt lấy em, ủ em trong lòng, ấm áp vô cùng. Rồi chúng mình lang thang thơ thẩn quanh chợ thị trấn, bên tai luôn inh ỏi tiếng chào mời mua hàng của người Mông. Những gương mặt tím tái, ngờ nghệch xen lẫn sự thông minh láu lỉnh nào đó khi bám theo du khách nước ngoài. Thế rồi anh chợt nhìn thấy một sạp hàng nhỏ, trên cái mẹt con con bày dăm ba thứ gọi là hàng lưu niệm linh tinh. Vô tình ánh mắt em nhìn thấy một đồng tiền cổ trên đó có khắc hình một con rắn. Rắn vốn là tuổi em thế nên anh mua ngay cho em vừa đúng lúc một khách hàng khác cũng đưa tiền mua không được nên họ nhìn đầy tiếc rẻ. Ngồi trên xe em cứ mân mê mãi đồng tiền có in hình con rắn này nghĩ đến một sự ứng nghiệm linh thiêng mơ hồ nào đó và anh đã nói rắn là một con vật trong Ngũ Linh, thường được ví với sức mạnh thần thánh. Em tủm tỉm cười tiếp lời: Là biểu tượng của linh hồn và của tham vọng, nó gắn liền với ý tưởng của sự sống… Tình yêu luôn có sự đồng điệu kỳ diệu phải không anh? Chúng mình đã nắm tay nhau lang thang khắp mọi miền đất nước mỗi khi có dịp và yêu nhau ngày càng nhiều hơn, cuồng nhiệt hơn. Sapa luôn là điểm hẹn đến.

Em cứ tưởng chúng mình vĩnh viễn là của nhau, mãi mãi không xa rời nhau. Trái tim em tràn ngập hình bóng anh, em yêu anh đến từng hơi thở, nhưng cũng chính vì quá hạnh phúc với tình yêu của anh nên sâu thẳm trong em luôn có những mơ hồ ám ảnh nào đó. Em sợ, sợ trời già sẽ ghen ghét với chúng ta và sẽ đem anh đi mất, không ngờ, cuối cùng điều đó là sự thật.

Em nhớ có lần nghe bài hát “Anh Còn Nợ Em” của Anh Bằng và em đã khóc. Anh cười chọc em sao đa cảm quá. Nhưng người yêu dấu của em ơi, anh mãi mãi còn nợ em, suốt cuộc đời này anh nợ em một món nợ không bao giờ có thể trả nổi, anh có nhớ - “Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm… Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua song… Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ. Anh còn nợ em…” Anh có biết điều đó không Hiệp ơi?

Nay anh đã xa em, mãi mãi xa em, mang theo món nợ suốt đời này làm sao trả hả anh yêu.

Trở về Việt Nam lần này, em xa lánh tất cả mọi người và cũng không đủ can đảm tìm về gia đình anh để thắp cho anh một nén nhang. Em sợ. Em sợ khi gặp má. Em biết rằng má biết chuyện anh và em, dĩ nhiên chẳng người mẹ nào muốn con trai mình như vậy hết. Thế nhưng bằng trái tim bao dung cao cả, má đã âm thầm chấp nhận em và anh. Má thiệt vĩ đại anh à, cũng chính vì thế mà em không thể nào gặp lại má, bởi em không chịu nổi nỗi đau ấy. Gặp, chắc em chết mất, xin anh hãy hiểu và tha thứ cho em.

Sapa lạnh, những ngày cuối năm rất lạnh.

Em nằm cuộn tròn trong chăn, thò mỗi mũi ra để thở. Chiếc quạt sưởi quay chầm chậm phả hơi ấm thoang thoảng mang đến cảm giác bớt trống trải trong căn phòng lạnh lẽo mà bên ngoài sương mù vây kín. Em lạnh từ trong lòng lạnh ra ngoài và cô đơn muốn khóc, lạ thay không giọt lệ nào trào ra ngoài. Khóc ư, sau khi anh không còn nữa bỗng nhiên lạ làm sao em không thể còn rơi giọt nước mắt nào nữa, dù đau đớn đến cùng cực, nhiều lúc muốn rơi giọt lệ dù giả tạo để biểu thị cảm giác nhưng xem ra hoàn toàn không thể. Nhiều lúc em tự hỏi phải chăng tâm hồn mình trơ lì rồi chăng? Thế nhưng có những đêm chợt thức giấc em nghe tiếng khóc hoang hoải của mình trong đêm vắng. Khóc bởi nhớ anh vô cùng. – Trong đêm, anh bước ra trong thăm thẳm, nhìn em nghẹn ngào không nói. Em ú ớ chồm dậy chìa tay ra như muốn nắm lấy bàn tay anh, nhưng chỉ là mờ ảo đến hư vô. Em tuyệt vọng nhìn anh chìm dần vào trong bóng tối, một lần nữa em muốn khóc nhưng nước mắt chỉ rưng rưng.

Trong giấc mơ buồn, em lại nghe tiếng khóc của mình. Tiếng khóc mà mấy năm nay tưởng như khô cạn vĩnh viễn, lặn sâu mất đâu đấy trong đáy tâm hồn, nay bỗng trở lại. Những tiếng nức nở đầy cay đắng của nỗi niềm đau đớn cô đơn vô hạn. Nhớ ngày nhỏ, có một lần em cùng má đi xem lên đồng, giá cô Bơ Thoải về đã cầm tay em, nói: Số con sẽ cô đơn, cô đơn đến hết cuộc đời trần thế này. Dù con đang yêu, vẫn cô đơn. Dù con sống trong gia đình nhưng vẫn cô đơn. Dù trong cơn say giữa bạn bè con vẫn cô đơn. Bởi số phận đời con là cô đơn. Cô đơn là định mệnh của con. Ngay từ khi là đứa bé, tim em đã tràn đầy đau đớn cảm nhận những lời nói định mệnh tàn ác ấy. Vâng em đã nhận ra cô đơn ấy là phần số sẽ theo em suốt cuộc đời. Thế nhưng khi anh yêu em, y như thần ái tình đem đến men say làm cháy bỏng lời nguyền kia dưới những nụ hôn tham lam đến ngộp thở. Để cho em hiểu rằng thế gian này vốn là bất biến. Mọi sự vốn chuyển động không ngừng trong một vòng quay lẫn lên những vòng quay khác kéo dài từ sát na này sang sát na khác với câu nói, đó là luân hồi, là định mệnh, là yêu và hãy yêu, phải yêu. Tình yêu ơi, mi là gì, sao giày vò trái tim ta đau đớn thế. Em muốn gào lên rằng, em yêu anh, yêu anh nhiều lắm.

Trở lại Sapa, em đi trong sương như một kẻ mù lòa, quờ quạng mong tìm lại quá khứ. Hy vọng sẽ nắm được bàn tay ấm áp của anh. Bóng anh như lẩn khuất đâu đó sau gốc thông già huyền ảo. Anh rất gần nhưng cũng bỗng xa xôi làm sao. Em muốn khóc, em muốn cười và muốn tru lên như loài thú hoang gọi bầy đâu đó nhưng đôi môi khô nẻ lại lặng câm. Em khụyu xuống trước căn nhà thờ đá vô thức, ngơ ngẩn nhìn cây thánh giá câm lặng, im lìm trong sương mù. Chúa ơi, hãy ban cho con tình yêu, hãy cho con một lần được gặp anh, con xin ngài.

Em trở lại Sapa trong đơn côi như số phận của đời mình còn anh thì đã xa mãi, xa mất rồi còn đâu. Anh đâu rồi, anh đâu rồi, sao lại bỏ em, sao lại bỏ em?”

Cuốn nhật ký rơi khỏi tay. Nguyễn Nguyên khuỵu xuống run rẩy, ứa lệ, anh nghe trái tim mình đang thổn thức đau đớn, một cảm giác đau đớn cô đơn đến mệt nhoài thân xác. Chưa bao giờ Nguyên có cảm giác này, chưa bao giờ. Không hiểu sao như anh cứ có cảm giác như người này đang viết những trang nhật ký cho chính anh thì phải. Từng lời thì thầm đẫm nước mắt, từng tiếng kêu khóc khắc khoải như tiếng hạc lẻ bầy khi chiều muộn đang về vậy.

*

Từ ngoài kính mờ, Sẹo ngầm quan sát hai tên sát thủ võ sỹ Kendo đang ngồi im lặng như hai pho tượng tạc bằng đá dưới ánh đèn mờ ảo.

Hai tên sát thủ cởi trần, người xăm hình vằn vện từ cổ xuống bả vai, ngực cho đến khắp người. Sẹo biết, hầu như mọi thành viên trong thế giới ngầm tại Nhật Bản đều có hình xăm, song hiếm khi để lộ chúng ra ngoài. Cả hai tên đều đang ngồi im phăng phắc, mắt khép hờ, người thả lỏng, căn phòng thoáng, thoảng hương nhang trầm. Chúng đang ngồi thiền. Thiền vốn là một hoạt động được đưa vào chương trình huấn luyện của các sát thủ Yakuza. Sau khi thiền xong là bọn chúng luyện tập kiếm với nhau.

Sẹo biết, không khí tập luyện Kendo bao giờ cũng khá ồn ào so với các môn võ khác bởi các kendōka thường sử dụng tiếng thét, để biểu lộ tinh thần thi đấu và đe dọa đối phương. Đồng thời các kendōka cũng sử dụng các bước dậm chân để tăng thêm sức mạnh của đòn đánh. Riêng với hai tên võ sĩ Kendo này lại khác, chúng luyện tập trong im lặng. Chỉ có tiếng gió vùn vụt, tiếng chạm nhau của những thanh kiếm tre, kiếm gỗ kêu chan chát.

Thanh kiếm tre Shinai được hai tên võ sĩ Kendo dùng thay thế cho thanh kiếm Nhật Katana trong tập luyện và nó được làm từ bốn thanh tre ghép lại, giữ chặt với nhau bằng các miếng da. Ngoài ra còn có thêm cây Shinai được làm từ vật liệu carbon được gia cố bằng các thanh nhựa tổng hợp lẫn những thanh kiếm gỗ cứng dùng để tập luyện Kata, Sẹo thấy rồi. Tuy nhiên chưa bao giờ gã được thấy thanh kiếm Nhật thật của hai tên võ sĩ đạo này. Gã không hình dung nổi nó như thế nào, như trên phim ảnh ư? Có lần Sẹo tò mò hỏi Bạch Vân về lý do thuê hai tên võ sĩ Kendo, lão ta nhếch mép.

- Con biết tại sao ta phải tốn rất nhiều tiền bạc để thuê hai tên võ sĩ đạo này về bảo vệ không? Bởi bọn chúng luôn nuôi tinh thần trung thành, hy sinh, tín nghĩa, lễ nghi, liêm sỉ, chất phác, giản dị, tiết kiệm, thượng võ, danh dự, nhân ái... theo kiểu võ sĩ đạo.

Sẹo nín thinh không biết nói gì. Im lặng giây lát, Bạch Vân lẩm bẩm.

- Nhưng đó là sự ngu xuẩn, rất ngu xuẩn. Tuy nhiên lại cần cho ta.

Hồi ấy Sẹo rất tự ái khi biết Bạch Vân đã tốn rất nhiều công sức, tiền của để chèo kéo bằng được hai tên sát thủ Yakuza vốn là võ sĩ Kendo này về bảo vệ lão. Chẳng lẽ lão không tin Sẹo và bọn đàn em sao? Sau này Sẹo mới hiểu, việc mướn hai tên Yakuza này là Bạch Vân muốn dựa vào thanh thế băng nhóm của bọn chúng, ngoài ra máu điên của những tên võ sĩ đạo này là một lợi thế bảo vệ lão ta. Ngoài kiếm ra, hai tên này cũng là những cao thủ võ thuật và bọn chúng vốn là những thiện xạ dùng súng. Quá nhiều ưu điểm cần thiết cho Bạch Vân dù lão đã phải tốn một số tiền lớn để chi trả. Suy cho cùng mạng sống quan trọng hơn hay tiền quan trọng hơn?

Thấy tiếng động, hai tên võ sĩ Kendo mở mắt sáng quắc như mắt mèo, Sẹo cúi đầu vẻ lễ phép.

- Ông chủ chờ hai ông ở phòng trà.

Trong nhà Bạch Vân có một phòng riêng dành cho uống trà, đọc sách. Thông thường mỗi khi có một quyết định gì quan trọng, Bạch Vân đều vào đây, tự tay pha trà uống một mình trước khi quyết định và thường là một quyết định ghê gớm, đa phần là đổ máu. Điều đó bọn đàn em đều biết cả. Căn phòng làm bằng tranh đơn sơ, vách tường chỉ treo một tấm ảnh tiên sinh Lục Vũ rất lớn cùng một bộ sách trà kinh để dưới ảnh. Một bộ bàn ghế bằng tre, một bộ bàn trà, có bộ ấm chén cổ nghe đâu lên đến mấy ngàn USD, tất cả chỉ có vậy thôi.

Bạch Vân đang ngồi im như pho tượng, có vẻ lão cũng đang thiền. Nghe tiếng chân người, lão mở mắt nhìn hai tên sát thủ, ra hiệu mời ngồi.

Bạch Vân tỉ mỉ pha trà, nói giọng nhỏ nhẹ.

- Người Phúc Kiến chúng tôi luôn tự hào về phong vị ẩm thực, về trà Ô Long thuộc núi Vũ Di quê tôi, vốn được gọi là “Phúc Kiến đệ nhất sơn”.

Hai tên Kendo im lặng. Bạch Vân thong thả nói tiếp.

- Đỉnh Vũ Di sơn của tôi cao đến bốn trăm mét với hơn ba ngàn bậc dốc đứng. Người Phúc Kiến chúng tôi luôn tự hào về “tam tam lục lục”, có nghĩa chín dòng suối chín khúc uốn lượn quanh eo núi. Lục lục là ba sáu đỉnh núi hùng vĩ với diện tích gần ngàn mét vuông, nơi này từng là bối cảnh quay bộ phim Tôn Ngộ Không nổi tiếng, không biết các ông có biết không?

Không chờ trả lời, Bạch Vân thong thả nói tiếp.

- Trong việc uống trà, người phương Bắc và người phương Nam Trung Hoa chúng tôi cũng có ít nhiều sự bất đồng. Khi nói đến trà đạo của Trung Hoa, chắc các ngài thường nghĩ đến công phu trà với các động tác võ thuật, ấm nước có vòi dài hoặc là hình thức uống trà với chén ngửi, chén chuyên, chén quân... điều đó cũng đúng nhưng đó lại là một sự nhìn nhận phiến diện về văn hóa trà của Trung Hoa nói riêng và nền văn hóa Trung Hoa nói chung. Trung Hoa có một sự đa dạng về văn hóa trà hơn những gì mọi người đã nghĩ rất nhiều. - Lão liếc hai tên sát thủ người Nhật, nói vẻ tán dương.

Người Trung Hoa chúng tôi đã có công đưa cây trà đi khắp thế giới và thi vị hóa việc thưởng trà nhưng chỉ có người Nhật mới nâng nó lên thành đạo.

Gương mặt hai tên sát thủ vẫn kín như bưng, thậm chí một cái nhướng mày, nhếch môi cũng không thấy, cảm giác như là hai pho tượng, chứng tỏ công phu hàm dưỡng của những tên này rất cao thâm.

Bạch Vân cầm một chiếc ấm nho nhỏ, xinh xinh màu đỏ gụ trên bàn trà lên, trầm ngâm. Có nên nói cho hai sát thủ này hiểu rằng: Trà hồ là chiếc ấm làm bằng đất còn gọi là tề pán tức trà bình trên nguyên tắc với ấm đất tốt nhất phải là đất tử sa và nếu dùng ấm đất, ấm đã pha trà loại nào thì mãi mãi chỉ dùng pha trà loại đó vì ấm đất có khả năng lưu hương, nên nếu dùng ấm pha ô long để pha thiết quan âm thì thiết quan âm sẽ bị pha tạp với mùi ô long, mà đó là một đại kỵ trong việc thưởng trà của người Tuyền Châu1 xứ lão ta. Cũng như trà chung là chén dùng để trực tiếp uống trà, cũng gọi là tề pui cũng là trà bôi, trùng với cách gọi khác của trà hải. Người sành trà như lão không bao giờ sử dụng trà chung bằng đất tử sa vì chén bằng đất rất nặng, ngoài ra trà khi đã rót vào chén đất sẽ không đúng với màu vốn có của nó, gây khó khăn cho việc thưởng thức sắc trà.

1 Tuyền Châu là thành phố trực thuộc tỉnh Phúc Kiến

Gương mặt Bạch Vân chìm vào xa xôi, những hình ảnh mờ ảo lướt qua đầu lão như gió thoảng. Tiếng Tuyết Lan vang lên đâu đó thánh thót.

- Anh chỉ uống nhiều trà Ô long nên chỉ hiểu về Ô long. Khi còn là trà khô, Ô long có thể có từ màu xanh vàng đến ngả hẳn sang vàng, viên trà phải chắc, mùi thơm dịu, các viên phải có độ lớn nhỏ bằng nhau. Khi đã pha, về sắc, trà Ô long phải có màu vàng sóng sánh, về hương thì mùi đặc trưng của Ô long phải được lan ra ở độ đậm nhất, về vị thì không đắng lắm, không chát, phải có vị đặc trưng của Ô long và sau khi uống phải có hậu ngọt.

Nàng tủm tỉm cười nhẹ, khoe hàng răng trắng đều như hạt ngọc, tiếp lời.

- Nước phải đun bằng than, đun từ từ cho đến khi nước sôi mắt cua, nước mới sôi, sủi bọt nhỏ như mắt cua thì dùng, không để sôi to vì nước sôi già rồi mà đem pha sẽ làm biến chất của trà. Mỗi lần đun chỉ đun bằng cái thủy hồ nhỏ đủ cho một lần sử dụng, không để nước thừa lại và mỗi lần đun phải là nước mới, không đun đi đun lại nhiều lần vì nước đun nhiều lần hàm lượng chất hòa tan trong nước rất cao, đúng không anh?

Bạch Vân nhấc ấm trà lên thủng thẳng nói với nàng.

- Ấm nước đầu tiên em nên nhớ là phải đầy vì nước lần này phải sử dụng để rửa qua một lần trà khí rồi mới bắt đầu pha trà như các lần sau. Nước bắt đầu sôi mắt cua, điều này có thể dễ dàng nhận biết, khi ở vòi ấm có một làn khói mỏng bốc lên là lúc nước bắt đầu sôi, chờ thêm hai đến ba phút chính là thời điểm nước sôi mắt cua, là hai hay ba phút thì tùy vào lượng nước và ngọn lửa to hay nhỏ thì bắc ấm nước lên lâm bình, lâm bôi.

Bạch Vân rót nước bằng tay phải, vừa rót vừa xoay nắp sao cho cả chiếc nắp đều được qua một lần nước sôi, sau dời nắp ra, rót nước sôi vào ấm, đậy nắp lại. Lão giảng giải tiếp.

- Nếu dùng ấm đất thì rót thêm một lượt nước sôi bên ngoài ấm cho cả chiếc ấm nóng đều, dùng trà hải hoặc ấm trà bằng sứ thì bỏ bước này. Cầm ấm trà lên em nghiêng đều cho cả phần thân đều được nước sôi đi qua. Chỉnh nắp trà hải lệch sang một bên để có đường thoát nước rồi bắt đầu xả bỏ nước trực tiếp xuống khay trà, còn nếu dùng ấm đất thì cứ thế mà rót bỏ.

Pha trà, vốn là một nét văn hóa đặc trưng của Trung Hoa tuy chẳng khác với Nhật Bản bao nhiêu. Thói quen uống trà kỹ lưỡng của Bạch Vân có từ nhỏ với cha lão, tiếc là từ đó đến nay ít ai làm cho lão hài lòng, thế nên mỗi khi lên cơn ghiền lão thường lọ mọ tự đi pha trà lấy để uống một mình. Mấy mụ vợ lẫn đàn con đông đảo, đệ tử em út từng thử pha trà đều bị lão chê hết. Ai nghe cũng nản. Lão luôn nhấn mạnh, pha trà còn làm thức cái hồn của trà, đó là sự rộng mở của trời đất vạn vật khi ta gom vào pha một ấm trà.