Phần III - 3 -
Con chim đầu tiên mà thằng Còm bắn được bằng cái thnou khet mà Tà Soa cho nó, làm cho nó tưởng chừng sướng đến phát điên.
Đó là một con chim bông lau lông đít cũng đỏ hồng, tương-tự như con chim chào-mào.
Khi nhìn thấy con chim lau trúng đạn lộn cổ từ trên cây xuống, tim nó đập rộn ràng đến nỗi nó tưởng vỡ tan lồng ngực.
Con chim đã ngã xuống, nằm tênh-hênh trên làn cỏ xanh, phơi cái bụng đỏ chét, mà thằng Còm vì cảm động quá, cứ đứng run bắn lên, không tài nào lại nhặt được.
Mãi một lúc lâu, thằng Còm mới thở dài một cái như vừa xua đuổi được một sức bí-mật nó đàn áp cơ thể, rồi chạy lại. Cầm con chim trong lòng bàn tay, mà nó tưởng chừng như cầm đươc chìa khóa hạnh- phúc của đời mình, tưởng chừng như cầm nắm được một cái gì vô cùng quý giá. Và giữ được ở trong lòng bàn tay một cái gì vô cùng huyền-ảo có thể giúp nó đạt được cái nguyện-vọng thiết-tha và thầm kín của đời mình.
Nó đứng ngây ra nhìn con chim một lúc lâu, rồi vùng chạy bay về nhà, định đưa cho Tà Soa xem.
Nó chạy xuống vựa lúa, nhưng Tà Soa không có đấy mà chỉ có mẹ nó đang đứng coi cho người ta quạt thóc.
Nó sung sướng chạy đến đặt con chim vào tay mẹ nó:
– Con vừa bắn được đấy!
Nỗi mừng của nó, Néang Srai không hiểu. Néang vốn tính sợ máu, thấy con chim bị vỡ đầu máu đầm-đìa liền rụng-rời, buông rơi con chim xuống đất.
– Trời ơi! Con bắn làm gì những chim chóc như thế, có tội với Giời Phật không? Mùa này, người ta còn mua chim cá phóng-xá đi chẳng vẻ thay.
Sự mẹ nó không biết cùng chia cái vui cháy lòng của nó làm cho nó thất vọng: nó có phải bắn chim để chơi, để ăn thịt đâu, nó bắn vì một mục đích khác.
Đang bực mình như thế, cho nên nó tàn-nhẫn. Vì thế, lúc Mi Mia chạy đến cầm con chim để xem thì nó liền đá vào tay chị nó.
– Đàn bà biết gì vào đấy mà xem!
Rồi nó cầm con chim, xịu mặt đi ra. Mẹ nó và chị nó nhìn theo:
– Ồ thằng ấy, từ độ thầy mất đến giờ, nó làm sao ấy!
Mà thầy nó bị giết, tính đến nay đã được mười một tháng rồi. Người ta vẫn gọi nó là thằng Còm, nó vẫn lẻo khoẻo, nhưng nó không còn là thằng Còm gió thổi bay như trước nữa. Bây giờ nó đã là thằng Còm mạnh dạn, chẳng sợ một cái gì cả.
Nhiều khi mẹ nó trông thấy nó nhảy nhót hay hay phải bật nói ra:
– Ồ trông thằng chó nó như con sóc!
Mà nó là con sóc thật. Lên thang nhà sàn, không bao giờ nó chịu xuống hay lên bực một. Ít là hai bực. Một hôm, mẹ nó thấy thế, chỉ trích sự hấp tấp của nó thì nó liền giả nhời:
– Nếu cứ đi bực một thì bao giờ nhanh nhẹn như con sóc được. Mẹ thích con sóc, mà con đi thế mẹ lại kêu.
Vì muốn cứng chân và chạy cho nhanh, bao giờ lúc đi học ra khỏi ngõ, nghĩa là khuất mắt mẹ nó, nó cũng chạy một hơi đến chùa. Mà lúc về, ra khỏi cổng chùa, nghĩa là khuất mắt ông Sãi, nó cũng chạy một hơi về nhà.
Bây giờ, ra tới chùa thì đứa nào cũng sợ nó một phép. Có lúc nó bỏ xu ra mua bánh thách đứa nào dám đánh nhau, vật nhau với nó, nó cho. Họa chăng mới có đứa được, nhưng cái đứa được ấy chỉ mười hôm, hay nửa tháng sau là lại phải thua nó ngay. Nó đã học thêm được ở Ả Sieng những mánh khóe để hạ.
Nó để vào sự đánh nhau một say sưa tuyệt đối cho nên lúc xắn tay áo, mắt nó sáng quắc, khiến đứa nào cũng phải sợ:
– Đánh nhau chơi đấy thôi nhé.
Thằng Còm tủm-tỉm cười:
– Ừ chơi, chứ thật thì tao chấp tất cả, không thằng nào trong bọn chúng mầy địch được tao. Nếu không tin, hỏi thằng Ka Krich.
Rồi nó quay sang thằng Ka Krich:
– Có phải thế không poukmak. [2]
Thằng Ka Krich gật đầu:
– Anh không khỏe được hơn tôi, nhưng anh gan và liều lắm.
Thằng Còm khoái chí cười nhe răng sún:
– Ở đời, chỉ ăn nhau có cái gan và liều đấy thôi, Tà Soa nhà tao bảo thế.
Bây giờ ngày nào cũng như ngày nào, nó dậy từ mờ mờ đất. Nó chạy bay xuống vựa thóc vần những khúc gỗ ra sân, rồi lại vần từ sân vào, cứ như thế cho tới bao giờ nó vã mồ hôi ra.
Nó ngồi nghỉ cho hết mệt là nó bảo Ả Sieng dậy cho nó tập võ, nhưng Ả Sieng nào có biết bao nhiêu, chỉ dậy nó trong có chừng một năm thì hết cả miếng.
– Chỉ thế cũng đủ rồi, cậu cứ luyện mãi đi rồi nó thành cừ.
Thằng Còm cười:
– Cừ cái con khỉ. Thế sao mày không luyện cho cừ. Bao giờ chùa mở hội đánh nhau, mày cũng bị đánh chạy dài.
Tà Soa xua xua tay.
– Nó biết bao nhiêu đâu, cậu bây giờ hãy cứ luyện những miếng của nó và chịu khó tấn cho cứng gân cốt, rồi chờ khi nhớn lên, tôi sẽ bảo Méphum Trandoeu y dạy. Trước y cũng dạy ông nhà đấy.
– Thế y giỏi hơn thầy tôi à?
– Ồ, y thì ông nhà búng một cái chết tươi, có cái ông nhà học miếng của y thôi, chứ cái sức với cái gan của ông, giời cũng không đương được. Y hơn ông mấy miếng võ, nhưng y kém ông trong sự bắn súng, phóng dao, chơi nhau thật với ông, chỉ một nháy là y chết.
Những giờ nghỉ ở chùa, thằng Còm không chơi đùa với trẻ con, nó học tấn, và phóng đinh. Trong hai giờ, mà ông Sãi cho nghỉ buổi trưa, nó chẳng bỏ phí một chút nào.
Bây giờ, nó phóng đinh đã khá lắm. Nó lấy lưỡi dao vẽ một hình người vào thân cây xoài, rồi thì nó phóng, bất cứ muốn trúng đâu là trúng. Có cái nó yếu, nên chưa phóng xa được. Chỉ trong bốn năm bước thế thôi.
Một hôm, không hiểu, nó nghĩ ngẫm thế nào, nó liền nẩy ra cái ý định thử cái tài phóng đinh của mình.
Cách xóm nhà nó độ chừng một cây số, có một cái trại rộng lắm. Chủ trại là một người Chvia [3] nuôi một đàn chó dữ lắm. Người nhớn trẻ con không ai dám lảng-vảng gần đấy cả.
Người ta đồn rằng có một lần trộm vào, bị đàn chó vây cắn gần chết, sáng mai chủ trại ra tìm thấy nằm phục ở bờ giậu. Người ta lại còn nói rằng với đàn chó ấy, cướp cũng không thể vào được.
Một buổi trưa, nó thủ mười cái đinh thuyền đã mài sắc và thắt con dao đi rừng mà Ta Soa đã thửa riêng cho nó, rồi nó đi về phía trại người Chà-dà Châu-giang.
Quả như lời đồn, đàn chó ấy đông lắm, và dữ thật. Thoáng trông thấy nó, đàn chó đã nhâu-nhâu cả lên.
Nhìn những cái răng nanh trắng nhởn, nó đã có ý trợn, nó đứng lại, không dám đi tới nữa. Nhưng đứng một lát lâu, không biết nó ngẫm nghĩ thế nào, nó giậm chân xuống đất, rồi lại đi lên.
Cái giậm chân ấy như để xua đuổi cái sợ hãi đang đến xâm chiếm lấy nó, và để đè dí cái yếu hèn, vốn là bản thể của con người ta.
Nó tiến lên chừng mười bước nữa thì một con chó vện rẽ đàn chó xô đến. Chà con chó lao mình ra khiếp quá, nó đã quay mình toan chạy, nhưng nó muốn chạy cũng không được nữa. Con chó đã đến gần sát nó rồi, chỉ cách có năm bước. Nó biết, nếu nó chạy thì nó sẽ bị cắn chết, nó xoay mình lấy đà, rồi bật tay ra.
Cái đinh nhọn cắm phập ngay váo trán con chó kêu cái « ẳng », con chó quắp đuôi chạy về.
Đàn chó sồ ra, nhưng thấy một con bị thương thành thử chỉ đứng xa mà cắn.
Sự đắc-lợi đầu tiên ấy làm cho thằng Còm mạnh bạo và tin ở mình. Nó tiến lên, tiến gần sát hàng rào.
Bỗng ở bên trong có tiếng hộc thật to, rồi một đôi chó vàng kếch sù chạy bay ra. Cả đàn chó ùa theo..
Đôi chó này dữ lắm, nó xông ra liền nhau. Thằng Còm cũng hơi thấy trợn, vì thế khi đôi chó đến còn xa tầm, nó đã phóng đinh ra.
Trượt!
Hai con chó xông đến chỉ còn cách một bước. Nó phóng cái thứ hai. Trúng mũi một con kêu "ẳng'' quay lại. Nhưng còn con kia đang đà chạy. Ấy thế là nó bị độp mất một miếng thịt bắp đùi, rồi con chó đè được nó xuống. Nó bị ngã văng cả đinh.
Nó giơ tay đấm đá để chống cự. Đàn chó đã chạy, thấy con vàng đè được người, lại nhâu cả đến, nó đã tưởng chết thì may nó kịp nghĩ đến con dao.
Nó rút ra, và chỉ một nhát, con chó xổ ruột ẳng chạy, kéo cả đàn chó chạy theo.
Nó tấp tểnh về nhà, không dám hé răng kêu ca một tiếng. Nó không dám vào đằng cổng, vì sợ mẹ nó và chị nó trông thấy. Nó vạch rào chui vào, rồi len lén vào vựa thóc.
Tà Soa trông thấy nó máu me đầm đìa, rụng rời:
– Trời ơi! Cậu làm sao thế?
Nó xua tay:
– Tôi không làm sao cả. Chó cắn đây. Ông buộc thuốc cho tôi,và làm thế nào vá cái sarong lại cho tôi, chứ không mẹ tôi biết thì tôi chết!
Nhìn vết thương thấy to quá, Tà Soa hoảng sợ:
– Trời ơi! Chó nhà ai cắn cậu mà khiếp thế!
– Chó của Néak Chvia đấy,
Tà Soa trợn mắt:
– Cậu lảng-vảng ra đấy làm gì. Cậu không sợ chết à? Đến người nhớn không cầm gậy cũng không dám qua đấy nữa là.
Lúc ông già Soa rửa và lấy thuốc rịt cho nó, nó cắn răng để không kêu, mặc dầu đau lắm.
Da mặt nó lúc ấy tái nhợt, hai hàm răng nó cắn chặt, mắt nó sáng quắc, nó nhăn, nhưng nó không rỉ một câu ra khỏi môi.
Vẻ đẹp của can đảm làm cho ông già Soa phải kính phục:
– Cậu gan thật, cậu khá thật, con nhà nòi có khác thật. Nhưng đầu đuôi ra làm sao?
Nó kể, kể hết cho ông già Soa nghe. Nghe xong, ông công-kênh nó lên, chạy khắp vựa thóc:
– À, thế thì cái thù của ông thể nào cũng trả được rồi! Tôi yên lòng mà nhắm mắt rồi, nhưng không biết tôi có sống cho được đến ngày cậu nhớn để nhìn cái đầu lâu nó và uống một tí máu cổ nó không? Cậu năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
– Thế là tôi mười bốn.
Tà Soa nhìn ngắm nó một lát:
– Cậu mười bốn mà trông bé quá nhỉ! Tôi tưởng cậu chỉ độ mười một, muời hai.
– Thì tôi còm kẻo là. À, ông, ông thử đoán xem độ bao giờ thì tôi có đủ sức cầm nổi súng nhỉ?
– Như tạng cậu thì ít nhất cũng phải mười bẩy, mười tám. Ấy là cầm thôi, chứ muốn bắn giỏi, ít gì cũng phải hai năm. Ấy là tôi nói, tập riết từ nay đi đấy.
Thằng Còm thở dài:
– Thế thì còn những sáu bẩy năm nữa cơ à? Thế thì lâu quá nhỉ?
Tà Soa giơ tay lên giời:
– À, dù một trăm năm mới báo được thù thì mình cũng phải biết đợi chứ. Tôi sống đủ một trăm năm cho cậu xem. Năm nay tôi sáu mươi nhăm rồi.
Thằng Còm bâng khuâng nhìn lên những nét nhăn ở mặt ông già Soa:
– Nhưng sợ đến ngay ấy,thằng Kmut nó chết mất rồi thì làm thế nào?
Câu ấy vụt làm cho lòng hai người lạnh giá.
– À, thế là cái số giời không muốn cho cậu báo thù thì làm thế nào.
Chú thích:
[2] Poukmak: Bạn, cánh hẩu.
[3] Chvia: Người Chàm còn sót lại. Người Nam-kỳ thường gọi là Chà-dà Châu-giang.