← Quay lại trang sách

Chương 6 Lòng người xô bồ

Lòng gì đi chấm mắm ươn

Người ngay ăn phải hóa lươn trẹo đầu?

Miệng gì ăn phải muối dầu

Đời gieo ba khốn, mười sầu mới vui?

– Đáp án ở đầu mỗi câu –

Ai đã từng trải tình đầu, hẳn cũng biết, nó lâng lâng đến lạ. Ông huyện vùng này, cũng chẳng lạ hơn ai.

Tam-thập-ngũ tuế, đã đến hàng ba mất rồi, thế mà ông ta yêu vụng dại, yêu si khờ, yêu hâm dở như mấy thằng đôi tám. Mấy năm trời làm phường giặc cướp đội ô sa, ông đã sớm bị cái thói dung tục của lũ chánh lý quan làng ám cho hỏng mất bộ dáng hào hoa thời niên thiếu. Bây giờ, đứng trước người thương, ông lóng ngóng như con vịt lạc bầy, không biết đường lối nào để cư xử như một đấng tài tử phong lưu bóng bẩy.

Ví như cái câu “cô Trinh thương quan không”, một ngày ông phải hỏi dễ chừng hơn chục bận.

Gọi bằng “cô”, ấy là vì ông thấy bất an, nên muốn giếm lại hạt thóc để dành khi đói kém. Chứ mỗi lần nàng Trinh bẽn lẽn gật đầu, ông lại chả ném luôn cái bồ chứa thóc ra đồng, sà vào lòng nàng mà vờ vịt thở than. “Nàng ơi quan choáng, nàng ơi quan nhọc...”

Rồi có mấy đêm trằn trọc, ông lại mò sang phòng nàng vén mùng chui vào, lén lút thậm thụt như thằng gian phu gặp con dâm phụ. Ấy mà ông nào có gian dâm gì ai đâu, chỉ nằm đấy ôm chặt lấy nàng, quẫn lắm thì hôn hít cọ dụi linh tinh cho thỏa cơn say thịt, chứ làm ăn thì vẫn thôi cố kiềm.

Ban đầu, Trinh cũng hoảng lắm, mấy lần giật mình suýt đạp ông xuống giường, sau quen dần nên mặc, chỉ là cái thói táy máy của ông nhiều lúc chọc nàng muốn nôn ra máu.

Sau mỗi cuộc giằng co giữa tay quan ông và cái yếm đào, hay giữa cặp mông no tròn và đũng quần ướt đẫm; có lần nàng nhục quá sinh cáu, viết luôn một tràng đầy ấm ức thế này. “Quan ông đã muốn như vậy, thì con nằm luôn ra cho ông làm, can gì mà đêm nào ông cũng sang chọc phá con như thế?”

Đấy là lần đầu tiên ông nghiêm khắc nhìn nàng, miệng gằn ra từng chữ.

“Tôi cấm nàng nói năng như thế! Nàng phải nhớ mình không phải là đĩ điếm của tôi! Tôi đã định chừng lên được chức tri châu, sẽ dùng quyền lực xóa tội cho cụ nhà, để còn danh chính ngôn thuận cưới nàng, khoảng thời gian này vì thế không thể làm ra việc đáng khinh với nàng nữa.”

Ngó sự ngỡ ngàng trên mặt hồng nhan, ông bỗng hơi gằm đầu hổ thẹn.

“Nhưng mà... thương nàng đến cái nỗi này, không cho tôi gần, chắc tôi điên mất. Tôi... đã cố hết sức để không trắng trợn xâm phạm nàng rồi, chỉ mong rằng các đấng bề trên có thể khoan dung cho vài khi nông nổi...”

Trinh ngẩn ra một lúc, chợt cảm thấy nửa buồn cười, nửa thương thương tội tội. Quan ông muốn giữ gìn cho nàng ư? Nhưng nàng còn cái gì đâu mà giữ? Lần thứ nhất thất trinh, lần thứ nhì thất tiết. Thân con gái nhà gia giáo, nàng đã không còn có thể ngẩng cao đầu. Nàng không giống quan ông, phải vờ bội phản để cáng đáng non sông, nàng đã thật sự đầu quân cho giặc. Giặc ở đây, chính là sự trắc nết trong lòng.

Thế mà, quan ông lại muốn lấy một người như vậy.

Trinh thấy vui, thấy cảm động, mà cũng xót xa cho ông lắm. Phải năm xưa không bị ép làm quan, ông hiện đã đề huề con cháu cùng một tiểu thư lễ độ gia giáo, nào có phải nhọc thân vì con đàn bà sa cơ lỡ vận như nàng? Muốn lên được tri châu đâu phải chuyện dễ dàng? Không tốn kém vàng muôn bạc lượng, thì cũng phải mưu kế thâm sâu, mà ông thì đủ nhọc lắm rồi...

Phải phận đa mang, nàng xót cho ông lắm, nàng không muốn trở thành gánh nặng của ông. Nếu ông đã quyết làm chồng nàng, nàng sẽ một lòng chờ đợi, dù không được cũng chẳng oán nửa lời.

“Con và quan ông thương nhau thật dạ. Các đấng bề trên nhất định sẽ hiểu mà,” nàng dịu dàng hé miệng mở lời, má đỏ hồng bẽn lẽn nhìn ông.

Nàng có thể cảm nhận rõ ràng tim ông đang run rẩy. Vì đây là lần đầu tiên nàng chính miệng nhận mình thương ông.

“Gớm đời nhà cô...!” ông Huyện nhào vào ôm lấy nàng, trán kề trán sẽ sàng lẩy bẩy. “Cứ ăn nói linh tinh, khiến quan phải tội với thần linh mãi thôi...”

*

Rồi đấy, Trinh cứ nghĩ cái phận hèn mọn của mình sẽ vậy mà trôi. Nàng không có lòng trông đợi gì vào lời hứa được làm vợ quan của ông Huyện. Không phải nàng không tin ông, nàng chỉ không tin vào lề nước thói làng và lẽ đời cay nghiệt.

Rồi nàng lại không tin cả vào chính mình, thân là gái đã mất trinh trước cưới, làm gì còn tư cách hưởng cái phúc của người trong sạch? Nàng thấy nàng không xứng.

Đến cả kiên cường bền chí như ông, còn phải chừa ra cái thòng lọng lơ lửng trên xà nhà phòng khi muốn thoát, một cô gái trẻ như nàng... tránh sao khỏi nhiều lúc mềm gan? Đạp lên tiếng đời gai góc mà sống, nói nghe thì dễ, nhưng để làm được việc đó, da chân trước tiên phải hoàn toàn chai sạn.

Mà nàng, thì vẫn chưa đi đủ nhiều để có được thứ đấy. Điều duy nhất níu kéo nàng lúc này, chính là tình yêu mới chớm dành cho ông Huyện. Nhưng thứ nào có chớm, ắt sẽ có lúc tàn. Nàng liệu có thể kiên tâm suốt đời đuổi theo tình ái?

Trước mặt quan ông, nàng chẳng hề để lộ ra ngoài những suy nghĩ lụy phiền đó, nàng không muốn ông lo. Mãi cho đến năm bà Thái Đinh Văn ốm chết, không muốn ông lo, cũng không được nữa.

Sự bắt đầu từ cái ngày có người báo với ông u ông đã ốm mất, dưới làng Ẻn họ đang để tang rình rang vô cùng. Ông Huyện lúc ấy đang dùng bữa trưa, vừa nghe đến đó thì đánh rơi cả bát cơm dang dở, mặt mũi trắng bệch, nửa đi nửa chạy về phía chuồng ngựa, đến giày cũng chẳng buồn mang.

Biết ông định một thân một mình cưỡi ngựa về làng, Trinh không an tâm nên vội vã cắp bừa cái nón rồi chạy luôn ra ngõ. Vừa lúc ông đang phóng ngựa cưỡi đến, không nói chẳng rằng, nàng đưa tay ra, ông rướn tay xuống kéo luôn nàng lên yên ngựa, cứ như cả hai đã định trước nàng sẽ luôn theo sau ông vậy.

Về đến cửa lớn nhà họ Đinh Văn, kẻ có vai vế trong làng đều đã tụ tập cả đấy; lớp già lớp trẻ kẻ uống, người ăn, đứng, ngồi, lăn la liệt trên những dãy chiếu cạp xanh trước gian nhà chính. Mặc kệ người nào người nấy đua nhau chỉ trỏ, ông Huyện phóng xuống ngựa ào ngay vào nhà, chưa kịp quỳ xuống vái u thì bác Cả và bác Hai đã nhào ra túm lấy.

“Đây là việc tang của u chúng tôi. Không khiến quan ông phải quỳ! Quan ông rời gót giúp cho!” Bác Cả nghiêm giọng nói to, đoạn đẩy ông ra ngoài.

Ông Huyện sụp xuống. “Em lạy các anh...! Các anh làm phước làm đức cho em vào lạy u để đẫy tròn đạo hiếu. Tang u xong rồi, các anh muốn đánh, muốn đuổi, em không dám oán trách nửa lời...”

Cô Tư vừa khóc vừa vội vã chen lời.

“Chết nỗi! Quan ngài ơi, ông đừng có lạy mà chúng tôi phải tội...! Khéo rồi cái đám Tam Giang Vệ ấy lại bảo nhà chúng tôi bất kính với quan chức triều đình, bắt hết chúng tôi thì tội lắm quan ơi...!”

“Hừ! Nhiều lời với thằng chó này làm gì! Để tôi tống nó ra ngoài cho rảnh nợ!” Bác Hai trừng mắt thét lớn, đoạn hùng hổ lao đến xách cổ áo ông Huyện lôi xệch ra ngoài cổng, như lôi một con chó hoang lạc bầy.

“Đấy! Đây là đất quan đấy, mày muốn quỳ, muốn bò, muốn nằm ra ăn vạ thì cứ việc! Nhưng từ cửa này vào là đất của họ Đinh Văn chúng tao, trước lúc tắt thở u tao đã trối tuyệt đối không để mày bước vào nửa bước! Mày còn nhớ đến cái tình với u thì tuân theo cho!”

Thấy cả làng đều đang lố nhố ngóng ra, ông Huyện biết các anh vì mặt mũi họ tộc sẽ không nương tình cho mình vào vái lạy, ông chỉ đành nuốt nức nở vào lòng lồm cồm bò dậy, chống chân lên thành dáng quỳ thểu não, chỗ đầu bị đẩy ngã va vào cửa vẫn còn rỉ máu.

U của ông, người sinh ra ông, đến lúc chết cũng không bằng lòng tha thứ.

Là tội của ông, là nghiệp của ông...!

Ấy rồi trời động, gió gào, mưa tháng Bảy ào ào trút xuống, bọn người làng đang xơi cỗ trong rạp đều chỉ trỏ ra ngoài rồi oang oác kháo nhau: “Đấy, thấy chưa? Đến ông giời cũng còn thù thằng Huyện. Nó vừa quỳ đấy mà giời đã mưa rồi!”

Nàng Trinh từ nãy đến giờ vẫn đứng ngoài trông ngựa, vừa thấy dấu hiệu sắp mưa thì vội vã quay sang ngóng nhìn bóng ông. Khi giọt lệ trời đầu tiên nhỏ xuống mặt, nước mắt nàng cũng theo đó chảy thành dòng. Ông Huyện của nàng, ông giời của nàng... lại đang thẳng lưng quỳ giữa cảnh trời mưa gió, hệt con chó đá gác trước cổng đình ngày cả làng mở hội thịt cầy.

Dạ nàng xót như bị người lộn ra xát muối, vội vã chạy vào nhà họ Đinh toan mượn tạm cái áo tơi, chân chưa qua cổng thì đã bị một thằng nhóc con cản lại. Nó nhìn nàng đầy khinh bỉ rồi hét lên rằng: cút đi, con đĩ, ở đây không ai muốn chứa chấp lũ chó phản chủ chúng mày!

Phóng mắt vào trong, nàng thấy cả gia đình Đinh Văn đang bình thản ngồi ăn, bác Cả còn đứng lên kéo roẹt tấm mành che mưa xuống. Người làng trong cái rạp ngoài chỉ nhìn nàng với vô số nụ cười nhếch lên thành hai từ, “đáng, kiếp”.

Nàng ngửa mặt nhìn trời. Khốn nạn cái thân ông tôi! Bao nhiêu năm còm cõi gầy mòn vì bọn chúng, đổi lại chính là hai từ này?

Nỗi uất ức phừng phực trong nàng như lửa đỏ ngày hanh; nàng muốn gào, muốn thét lên oan khuất của ông để tất cả bọn chúng biết mặt. Lại chẳng hiểu tại sao chẳng thể thành lời, cục nghẹn trồi lên nơi cổ hệt cái ngày nàng chính mắt trông thấy người ta treo thầy nàng lên cây đa đầu xóm. Nàng uất nên câm, bây giờ cũng thế.

Siết chặt tay, Trinh rũ mắt quay về cạnh ông Huyện, tháo cái nón thúng trên đầu đưa ra.

Thân vẫn chưa là vợ chính thức của quan ông, nàng không dám mạo lễ quỳ cùng, chỉ có thể đứng đó trong bão dông nhạt nhòa che mưa cho quan huyện. Nàng không giục ông quay về, cũng không ép ông nép vào hàng cây bên lề trú nấp. Nàng biết ông sẽ quỳ trước cổng họ Đinh Văn đến hết tang lễ, vì đây là nơi gần nhất ông có thể nhìn thấy u mình.

Có hề gì? Nàng sẽ ở cùng ông đến tận cùng dông bão.

Gió vẫn thét, mưa vẫn gào, trời vẫn trút hận cho đến hồi tối mịt. Cuộc ăn uống trong đám tang bà Thái vẫn chưa vãn đi chút nào.

Không phải người ta tiếc mẩu xôi, miếng thịt; mà họ tham cái lẽ sống bầy đàn. Cứ trông mà xem, ông giúp bà xỏ miếng đầu, bà phụ ông xiên miếng sau, chắt chít đua nhau vỗ tay rần rần; “à ôi... ông bà xỏ xiên chúng nó thật hay, cháu thích, cháu thích!”

Đến cả lão Thượng Eo và cụ Trùm Thăng thù nhau như chó với mèo, cũng rót cho nhau miếng chè trong cuộc vui xỉa xói. Họ bóng họ gió đủ thứ dưới đất trên trời, nào con đào nhà giáo trên tuốt Đông Quan, nào thằng cướp đội mão quan ở trên núi Vì. Rồi họ cạn chén khen đối phương ví giỏi, đối tài... đoạn nhìn ra hai bóng người mờ mịt trong mưa và cùng cười hềnh hệch.

Họ sung sướng nhất là những lúc bỗng dưng sáng dạ mỉa được một câu tuyệt cú, cả rạp liền ồ lên tung hô hết lời, ví như bậc thánh sống giời cao phái xuống. Ấy thế là họ phải động não nặn ngay một lời hay mới để tiếp tục được khen, không còn nhớ gì đến hai kẻ ngoài mưa kia nữa.

Từ thuở giặc Minh tràn vào làng, đây có thể là lần đầu tiên họ đồng tâm đồng lòng như vậy, tình cảm thiết tha hệt một đám chó chung bầy.

Đang lúc người người hăng say, đột nhiên có tiếng bát đánh vỡ cùng giọng cười lè nhè men rượu. Hóa ra là cụ Tỉnh điên nổi danh ngớ ngẩn nhất làng. Cái ông cụ này lại lên cơn gì đây, cớ gì lại phá lên cười như thế? Đã vậy còn chỉ tay lên mẩu trăng đỏ oạch mà nghêu ngao hát rằng:

“Trăng kia ngự ở cung Hằng

Rọi soi cho rõ một thằng, một con

Thằng phường cướp của dân con

Con phường đê tiện bán non thân gầy

Trung, trinh, hai cặp thúng đầy

Thằng gồng, con gánh, một bầy coi khinh!”

Rồi cụ lại cười sằng sặc.

“Cái bầy ấy, giễu thay, chẳng đứa nào gánh đến một phần mười cái thúng...”

Cả rạp người xám mặt. Thơ thì có hay, nhưng câu cuối cùng là ý gì đây? Chẳng trách mà người ta bảo cụ học nhiều quá nên điên, suốt ngày chỉ toàn thơ phú xằng bậy! Phải hợp nhau lại mắng cho cụ tỉnh ra mới được!

Nhưng cụ ông đã lăn ra ngủ mất rồi.

Mặc kệ! Xung quanh làng xóm hò vào mắng chửi, kẻ bảo cụ già rồi thì chết đi, người dọa cụ nói năng cẩn thận không lại họa đến con cháu, có đứa trẻ còn hếch mũi phán cụ dốt thế này mà bày đặt xưng danh ông đồ...

Mưa, thì vẫn cứ đổ.

Lòng người, vẫn cứ xô bồ...

*

Cái đêm tang lễ dầm dề năm đó, ông Huyện có lẽ sẽ quỳ luôn đến sáng, nếu nàng Trinh chẳng đuối sức ngất đi.

Nàng bệnh, bệnh liền năm hôm chưa dậy. Trong những ngày này, ông Huyện lo ngay ngáy trong lòng, luôn miệng tự trách bản thân mải lo đau thương mà chẳng để ý đến người bên cạnh. Thân gái mỏng manh phải đứng che mưa cho ông từ trưa đến tối... thê thảm đến cỡ nào? Vì sao ông lại vô tâm như vậy?

Cũng may, đến ngày thứ sáu nàng đã tỉnh dậy.

Lý do, là vì có dì nàng đến thăm.

Sự xuất hiện của người đàn bà này khiến nàng Trinh mừng vui khó tả. Cũng đúng thôi, bà chịu đến, nghĩa là cụ ngoại vẫn còn nhớ đến nàng...? Nàng không phải là con mồ côi mồ cút bị vạn người khinh bỉ nữa...?

Nhưng rồi bà mở lời, và nàng biết rõ, mình vẫn phận cút côi.

“Hôm trước có lão Thượng Chi ở bên làng Ngói sang thăm cụ ngoại nhà chị, lão khen kháy cụ chị có đứa cháu gái vô cùng hiền lương thục đức, đứng cả đêm ngoài giời nhường nón che mưa cho chủ. Tội thân cụ ngoại, nghe đến đấy liền thở hồng hộc, ngã lăn ra phản bất tỉnh nhân sự.”

Mặt nàng đã trắng lại càng trắng, rệu rã đưa tay ra viết lên mặt giường. “Thế ông cháu có sao không hở dì?”

“Còn sao nữa?” bà thở dài, mắt rưng rưng sắp khóc. “Cụ nằm mãi từ hôm ấy đến giờ vẫn chưa dậy được, bác chị và tôi phải thay nhau thức đêm lo cho cụ. Lúc trước, chỉ nghe chị bán mình chôn u, cụ dù giận song nghĩ chị bất đắc dĩ, cũng mặc người ta dè bỉu. Sau lại nghe chị đứng ra hết lòng che chở cho ông Huyện, người trong vùng họ có thêm chuyện để đắp để bồi. Họ bây giờ nói, con gái nhà họ Trần Lương đã bán thân, giờ bán luôn tim lòng cho cho giặc. Chỉ sợ nỗi nhục này quá to, cụ ngoại chị chẳng thể nuốt xuống.”

Mắt nàng rưng rưng, lệ chẳng bao lâu đã trào ra.

“Được sự đồng ý của hai cụ, dì lần này xuống đây là muốn xin chị thương cho cái thân các cụ, cũng thương cho mặt mũi của bọn già chúng tôi. Hãy vớt lấy chút danh giá còn sót lại cho nhà Trần Lương chúng ta.”

“Tự vẫn đi, chị Trinh ạ.”

“Ít ra, chị chết rồi, người ta sẽ nghĩ chị bất đắc dĩ.”

Trinh cảm thấy sống lưng lạnh toát. Đây là ý của ông ngoại nàng sao? Cái ông lão hiền từ đã xốc nàng lên đôi vai gầy chơi trò cưỡi trâu, cái ông lão phúc hậu vẫn luôn dúi cho nàng miếng bánh cốm đầu tiên trong ngày Tết?

Trước khi cắp nón ra về, bà còn rầu rầu nói thêm lời cuối.

“Cụ ngoại còn dặn, nếu chị chẳng thuận theo, cụ sẽ xóa tên thầy u chị ra khỏi tộc phả.”

Cả người nàng run rẩy rụng rời.

Giời ơi...! Đây là cái lẽ gì? Hổ dữ còn không ăn thịt con, thầy nàng ở rể, bị bôi đã đành, nhưng u nàng là con ruột của các cụ cơ mà, hà cớ gì lại xử ác với bà như vậy...? Không có tên trong tộc phả, khác gì phường cù bất cù bơ? Chết đi rồi thì cũng là cô hồn vất vưởng. Sao họ lại nỡ đành...?

Trinh lại nằm vật ra ốm liền thêm hai tuần, thuốc thang gì đều không công hiệu. Ông Huyện quẫn quá, mời luôn cả bà mo về gọi vía, ông thầy đạo về trừ ma, tám cách thiêng mười cách tà đều đem ra dùng hết. Thế mà cái căn bệnh quái ác của Trinh cứ như đỉa đeo bám, rút cạn máu rồi mà chả chịu nhả ra cho nhờ...!

Mãi cho đến khi có vị sư già từ đất Bắc đi ngang qua, ông chỉ ngó người bệnh hồi lâu rồi buồn bã lắc đầu. “Người đã không thiết sống, không thể chữa.”

Thiền sư đã rời khỏi lâu rồi, người ta vẫn còn nghe tiếng ông Huyện gầm gào; lý nào lại thế, lý nào lại thế...?

Nhưng hỡi ôi... Lý của những kẻ trung trinh, là phải như thế.

Trinh biết mình chết rồi, vì nàng đã chẳng còn nghe ra tiếng ông Huyện oang oang mắng trời chửi đất, xung quanh chỉ còn sự im lặng nặng nề, đến cả bầu trời cũng âm u xám xịt.

Nàng tung người leo lên một con ngựa ô, lòng có chút hoang mang vì không thấy quỷ sai đến đón như trong các câu chuyện cõi âm của người già hay kể. Lại nhớ, chẳng phải chỉ những kẻ sinh thời có công với dân, có đức với nước, mới được ngựa âm phủ đến đón hay sao?

Con ngựa ô đưa nàng qua trùng điệp núi sông, vượt qua một cái cổng đến một con suối cửu sắc. Nàng chậm chạp bước xuống con thuyền đã đợi sẵn, tức thì gió từ đâu ập lại đẩy nó tròng trành xuôi dòng, chẳng biết qua bao lâu mới đến gần hạ nguồn con suối.

Xa xa, thấp thoáng hai bóng người đứng đợi trong sương. Nàng xúc động đến rơi nước mắt, miệng mấp máy ba chữ, thầy u ơi...

Hai cụ dang rộng vòng tay rồi mỉm cười. Thời điểm tay rướn ra toan chạm vào sự giải thoát bấy lâu khao khát, nàng lại nghe được tiếng khóc nỉ non. Nó nghẹn ngào, nó héo hon, nó hao mòn như tiếng đàn bà hiếm muộn khóc tang đứa con cầu tự.

Mà nó, lại thoát ra từ một gã đàn ông. Kẻ ra đi thoát kiếp long đong, người ở lại ngàn thu trống rỗng. Rồi trong những đêm dài, còn ai khóc cho thằng Huyện bây giờ...?

Quỳ sụp xuống trên thuyền, nàng Trinh thổn thức, thầy u ơi, hãy tha thứ cho con...

Thầy u đã sinh ra con, nhưng kẻ ấy mới là người giữ con sống sót. Chữ trinh hiếu khó đặng vuông tròn, con chỉ đành mang tội...

Hai cụ thở dài bước đến bên nàng. Bà nâng, ông dỡ cái đòn gánh trên vai không biết tự khi nào đã nằm dài ra đấy.

“Con gái nhà Trần Lương ta ơi, dẫu mãi chẳng thoát kiếp gánh đời, nhưng phải ngẩng cao đầu mà gánh.”

Ngậm ngùi dặn dò xong, cụ Đồ Nghị đẩy con mình rơi lại xuống dòng, cái dòng suối ngược xuôi như đời người xuôi ngược. Làm cha mẹ, nào ai lại muốn con cái phải mang vác tội nợ vào thân? Chỉ muốn ích kỷ giấu nó vào lòng, để nó được bình an cái phận.

Nhưng rồi có lúc, cũng chỉ có thể để nó dấn thân đặng mà sống, sống cho đáng kiếp người chìm nổi phù hoa.

Hai ông bà già, chỉ còn nước ngồi đây tiếp tục đợi...

Hỡi ôi... tấm lòng của những bậc cha mẹ trên đời!