← Quay lại trang sách

Chương 7 Xứng lứa vừa đôi

Người ơi đùa phải có đôi

Dầu nhơ, dầu mốc, phải đôi mới vừa...!

“Quan ông ơi, cơm đã dọn xong rồi, xin ông hãy dùng cho vài miếng...”

“Quan ông ơi, cũng đã ba ngày rồi, ông hãy thả bà ra đi...”

“Quan ông ơi, ông định nằm miết... với cái xác ấy đến chừng nào...?”

Trinh nghe rõ ràng lời của bà bếp cứ cách một hồi lại vang lên đứt quãng, nàng muốn mở miệng song lại lực bất tòng tâm, toàn thân rệu rã như bị bóng đè, đành chỉ biết nằm ì ra đấy để quan ông ôm siết.

Ông chải tóc, đeo thoa cho nàng, có khi lại lau chùi mình mẩy rồi thay vào đồ mới, chăm chút tỉ mỉ không khác gì người ta trông con nít sốt ban. Ấy rồi ông cũng chả đi đâu, chỉ nằm lì ra đấy ôm nàng, hết vuốt tóc rồi lại vuốt lưng, hết hôn môi rồi lại hôn má, hết áp trán rồi lại rúc rích vào cổ, hệt con gà mái ấp ủ cái trứng ung chờ ngày nó nở vậy.

Thế rồi đến một ngày, cổ nàng chợt ướt đẫm. Ông sụt sịt buông nàng ra, lừ đừ đứng dậy kéo đến cái tráp gỗ đầu giường. Sau rồi ông đi đâu đó lâu lắm mới về, cả ngày hôm sau bên tai nàng không lúc nào ngớt các thể loại âm vang của bầy người hò hét.

Nào vác cái này, nào nâng cái kia, nào khiêng cái nọ... phải chừng nửa ngày sau mới im lìm lại. Hết cuộc dọn nhà, lại đến cuộc bày cỗ, nàng nghe tiếng bà bếp cả buổi không ngừng thét mắng, thúc giục đám con hầu nhanh tay chóng chân lo việc bưng mâm, châm chè, giết lợn...

Rồi ông Huyện ngồi xuống bên giường, đích thân lau rửa, thay đồ, trang điểm, đeo vào vòng vàng nữ trang cho nàng, đâu đó xong xuôi mới ra ngoài đón khách.

Trinh chỉ thắc mắc, cớ gì ông không bế xác mình ra gian chính khâm liệm? Hay vì thân phận của mình quá thấp hèn...? Mà thôi, đám tang mình rình rang như vậy, ông xem như đã cạn nghĩa với mình rồi.

Ấy rồi cuộc vui tiễn người chết diễn ra từ sáng đến tối, mà họ vui cũng đúng rồi, con đĩ hầu giặc của làng họ đã chết, nỗi nhục lớn nay đã tan, còn gì mà không vui?

Không biết cụ ngoại nhà nàng có đến thắp cho vài nén nhang không nhỉ...?

Mải nghĩ vẩn vơ, đám tang đã tàn tự lúc nào. Nàng biết thế vì lũ dế đã bắt đầu râm ran như con đào hát xướng. Quan ông nhanh chóng quay vào ôm nàng, có lẽ là muốn kề cận người thương trước giờ hạ huyệt.

Hôn hít chán chê, ông liền nhẹ nhàng đặt nàng nằm xuống, tiếng tráp gỗ cạ vào mặt giường lại vang lên cót két rợn người.

“Nàng ơi, tôi thật có tội với dân mình... Nhưng tôi mệt quá rồi, không thể tiếp tục nữa...”

Câu nói này... nghe sao mà quen vậy?

Trinh hoảng hồn nhớ lại cái đêm định mệnh năm nào, trong lòng ra sức thét gào, không được!

Dùng hết sức bình sinh của thai mệnh phá bào chui ra, nàng nặng nề hé mở đôi mắt, quả nhiên trông thấy người đàn ông khăn áo chỉnh tề đang thò đầu vào thòng lọng, mắt nhắm nghiền.

Không được.

Không được!

“Không được...!”

Cuối cùng thì cũng thều thào thành tiếng.

Bốn mắt nhìn nhau, nàng nhươn nhướn khóe môi. “Quan ông bỏ cuộc rồi, con còn biết sống với ai?”

Nghe nói đêm đấy, có ông quan mừng quá nên luýnh quýnh tay chân, lỡ đá ngã cái tráp kê mình, suýt bị thòng lọng siết chết.

Lại nói ở thời điểm hiện tại, nàng Trinh đang phải cố hết sức liễu yếu của mình ôm lấy đùi ông Huyện, chừng đến khi ông thành công thoát đầu ra khỏi thòng lọng, nàng cũng đuối sức, cả hai ngã lăn kềnh ra giường.

Bà bếp và đứa hầu thấy động liền chạy vào, thấy cái xác lạnh giờ đang mỉm cười để quan ông đỡ dậy, cả hai xám ngoét mặt mày tháo chạy ra ngoài.

Thoang thoáng bên tai, còn có tiếng họ vọng lại.

“Bở làng nước ơi, người chết sống lại...! Đám cưới ma làm người chết sống lại...!”

Rục rịch trong vòng ôm siết của ông, Trinh ngẩng đầu khẽ hỏi. “Đám cưới ma?”

Ông gật đầu với cặp mắt đỏ hoe, đôi bàn tay áp chặt má nàng, mừng mừng tủi tủi.

“Ừ, cưới rồi, tôi cưới nàng rồi, nàng giờ là bà Huyện rồi.”

Thấy nàng ngớ ra một lúc rồi dang tay nhìn áo đang vận, mắt dần đỏ lên chừng như sắp khóc đến nơi. Sợ nàng mới tỉnh không nên xúc động, ông vội áp trán thì thầm một cách khôi hài. “Quan sợ xuống đó gặp nàng mà chưa có danh phận, nàng lại không cho quan chui vào mùng.”

Ừ thì nàng đỏ mặt ngượng ngùng, nhưng khóc thì vẫn cứ khóc, cho đến lúc bụng nàng quặn lên nôn liền mấy chập mới nín được.

Dọn dẹp phòng ốc xong xuôi, ông Huyện rót chè cho nàng súc miệng, vuốt tóc qua tai và sửa sang lại áo xống. Sau rồi chợt nhớ ra gì đó, ông lại lăng xăng chạy ra bê một mâm đồ cúng vào để hai vợ chồng lấp bụng.

Từ lúc nàng lăn ra chết đến giờ, ông có bỏ bụng miếng gì đâu, cả ngày hôm nay làm ông rể ma cũng chỉ toàn uống rượu sầu, bụng dạ bây giờ quặn thành một nút. Thôi thì nhân lúc bà dâu ma đây đội mồ sống dậy, hai ông bà cùng nhau ăn một mâm cỗ cúng cho ấm cái lòng.

Cuộc ăn chán chê, lại đến cuộc nằm, ấy là cái quyền ăn nằm của người đã cưới, thôi thì chẳng có gì đáng phải chê cười. Ông bảo nàng vừa mở mắt thì đã thành vợ quan rồi, chưa kịp có người sang mối lái chi cả, liệu có uất ức gì chăng. Nàng chỉ tay lên trần nhà mà rằng, có ạ, con uất cái thòng lọng kia đấy.

Thế là, ông đã nằm rồi lại phải đứng dậy, leo leo trèo trèo tháo dây quăng xuống.

Ném vật đi rồi, nàng quay sang đỏ mặt sẽ sàng. “Có vợ rồi, quan không cần đến nó nữa đâu.”

Ừ thì quan cần cóc gì cái vật khô khan lạnh lẽo ấy nữa? Hiện tại, quan chỉ muốn chú tâm vào việc “nằm” làm sao để ép nàng bỏ thói xưng “con” với chồng.

“Nằm” đến già nửa đêm, nàng bỏ thói ấy thật. Một chữ “chàng” buông ra giữa cơn mặn nồng, ông gần như bật khóc. Đời thằng Huyện... cuối cùng đã là chàng của một người đàn bà.

Nhìn cây nến thờ người phương Bắc hay dùng trong các đám cưới ma lập lòe trên văn kỷ, nhớ lại những suy nghĩ lụy phiền của hai lần cùng quan ông chung chạ, nàng Trinh chợt thấy lần thứ ba này, mình cũng mất toi một thứ rồi.

Mất ngủ.

Ôi là... bây giờ nàng mới thấm thía những câu ca gió của mấy chị mới–chồng ngày xửa xưa ấy.

“Thương chàng, mất ngủ thâu đêm

Chàng thương, chàng bảo, nốt thêm hai lần

Một, hai, rồi đến ba lần

Chàng thương, chàng bảo, chẳng cần ngủ luôn!”

Rồi thì vợ chồng thằng Huyện vẫn thường mất ngủ, nhưng cũng chẳng phải vì cái sự ăn nằm của con nhà mới-yêu. Đời mà, có khối sự khiến con người mất ngủ ra đấy.

Ví như cái sảnh trống hoác của nhà quan Huyện vậy.

Thì ra, để lấy được nàng, ông đã bán hết ruộng điền và đồ đạc trong phủ nhà, bòn được một-trăm hai-mươi-mốt quan, đem một phần ba sửa trăm mâm cỗ để thết họ hàng làng mạc, còn lại kính dâng cho đức ngài Hữu Tham chính.

Lão này cũng là tay tham có tiếng. Nếu là bình thường, để xóa tội cho Nho sĩ mắng mỏ triều đình, lão có lẽ sẽ đòi tên quan huyện tận cả ngàn quan cho bõ, nghe bảo nó lắm của cơ mà? Ngặt vì con gái lão năm xưa quyết chết cũng không lấy người ta dù lão đã gạ gả, xét về mặt mũi, giờ lão cũng nợ nó một bề, bèn cứ đồng ý cho xong.

Đến lúc sự đã rồi, lão cùng mấy gã ở phủ, châu và chánh lý đến dự đám cưới, mới ngã ngửa ra là nó lấy người chết!

Ôi giời ơi đất hỡi! Lúc ấy lão và chúng sợ đến muốn són ra quần, cả lũ toan bỏ về lập tức. Ngặt nỗi có vài ông quan nhà Minh thấy sự lạ cũng xúng xính áo mũ đến dự, lão mà bỏ về chẳng khác nào đang nhạo họ? Hóa ra cái sự rùng rợn này với họ vẫn bình thường, ở bên ấy thỉnh thoảng vẫn có nhà làm thế, khách khứa đến dự nghe bảo còn phước lộc đầy nhà.

Thì thôi, cứ dự vậy, xem có cái phước, cái lộc nào không. Mà lão đã mạo hiểm dấn thân thì đố có đứa nào được thoát! Thế nên họ hàng hai bên của làng Ẻn ấy, lão xui bọn vệ binh kéo hết cả lên đây. Đám cưới thì phải có hai họ mới ra cái trò chứ nhỉ? Ai đâu mà trách lão được?

Cho nên, mới ra cái đám cưới ma linh đình nhất Thanh Ba năm ấy.

Bà Huyện nghe kể nguồn cơn xong, ngó đến quang cảnh trống không của nhà chồng, không nén được tiếng thở dài ảo não. “Của tích cóp bao năm để phòng khi dân nạn cũng đem ra tiêu hết, nhỡ sau này có gặp binh biến thì lấy đâu mà lo? Đáng ra chàng không cần tổ chức rình rang như vậy...”

Ông Huyện vuốt tóc vợ mà rằng.

“Không làm thế thì làm sao thiên hạ biết nàng được chồng thương, chồng trọng? Huống hồ, phải như thế mới kéo được lũ người Minh và lão Tham chính đến đây, ấy rồi họ mạc hai nhà bắt buộc phải khăn áo đến dự chứ! Con gái lấy chồng mà không trưởng bối đến trông, chẳng họ hàng đến chúc, người lớn bên chồng không ai đem cho bộ thoa, cái vòng... thì tủi thân nàng lắm...”

Dẫu lúc ấy... nàng chỉ là một cái xác sao? Ông thương nàng thế nào, mới sợ nàng chết đi cũng còn phải tủi...? Trinh nhỏ lệ trong lòng, khẽ kêu một tiếng, chàng ơi...

Xong rồi đến cái đám ông giời bà đất trong làng, những kẻ mà suốt ngày lo sợ nàng chính là quỷ nhập tràng, có ngày sẽ trỗi cơn đói thịt luôn trẻ con làng họ.

Họ cứ nói mai nói mãi, nói đến độ có lúc nàng thật sự nghĩ mình sẽ biến thành thứ quỷ ma tham ăn lòng người đó, lúc nào dùng cơm cũng cố tình tránh các món lòng ra.

Thế mới thấy sự lợi hại của miệng đời. Nó khiến cho con người ta đến bản thân mình cũng sinh nghi kỵ.

Nhiều khi có con gà bị cáo tha mất, con lợn để qua đêm bị trộm khoắng bộ lòng, họ cũng quy cho nàng đã ra tay, vì ngại quyền quan nên họ chẳng dám đem kiện. Mãi đến lần có đứa trẻ nhà phú hộ bị mất tích hẳn ba ngày, nhà kia ức quá bèn đổ tiền tài đem chuyện thưa lên tận phủ.

Đợt ấy rùm beng cả một vùng, chứng cứ liên can như cái quần dính máu và đôi hài lấm bùn cứ lần lượt bị dân chúng lôi ra, ai nấy đều đinh ninh con Huyện kia chính là quỷ nhập tràng ăn mất đứa trẻ. Đến cả quan phủ cũng đòi dựng đài để thiêu sống nàng.

Nào ngờ, chưa đầy một ngày, đứa trẻ kia đã được tìm thấy. Lính khám xét cũng nói rằng cái quần là dính máu nguyệt đàn bà, còn hài nọ lấm phân voi bị tiêu chảy.

Ông Tri phủ thẹn quá, lôi nhà đi kiện ra đánh luôn một hồi, đoạn cấm tất cả dân chúng không bao giờ đả động tới quỷ ma gì nữa.

Dĩ nhiên, so với quỷ, dân lại sợ quan hơn. Thế là từ đó cũng không còn quỷ nhập tràng trong nhà quan Huyện.

Mãi sau nàng mới biết, việc đứa trẻ bị lạc kia chính là đức ông chồng nhà mình ra sức sắp bày, như một đòn phủ đầu cho những gì có khả năng xảy ra nếu họ cứ liên tục quy tội cho nàng từ năm này qua tháng nọ.

“Thật ra, họ cũng không nói quá... Năm đó, em thật sự đã cải tử hoàn sinh, nôn lần đầu tiên ra bùn đất và rong rêu, tính ra cũng là điều rùng rợn. Nhiều lúc em trộm nghĩ... có lẽ mình thật sự là quỷ cũng nên...”

“Thì đã sao?”

Trinh đã nghĩ đến ông sẽ bảo ông tin nàng không phải quỷ ma, hoặc mắng nàng nói năng bậy bạ, nhưng lại không ngờ là ba chữ bất chấp này.

Thể như ông đã sớm nghĩ qua nàng là thứ uế tà, và đã từng cam tâm chấp nhận. Ba chữ thôi, nó đơn giản như miếng cà, bát mắm, ấy mà nặng đến làm đắm tim nàng.

Rồi ngày lại, ngày đi, năm về, tháng đến, bà Huyện vẫn tiếp tục cái nghiệp đắm đuối đức ông chồng, ông Huyện vẫn kiên trì cái thú trông vợ mình đắm đuối. Người ngoài nhìn vào, họ vẫn mắng vợ chồng thằng Huyện là phường vô lương, nhưng cũng phải thừa nhận chúng sao mà thương nhau quá.

Có đợt, ông Huyện lần nữa cõng nàng Trinh trên con đê ruộng nhớt nhầy ẩm ướt, nàng chỉ khẽ đảo mắt lướt một vòng những địch ý xung quanh, phụng phịu áp má ông mà rằng.

“Họ lại giễu chúng ta là hai đứa chó săn nữa đấy chàng ạ. Chúng ta vợ chồng đã mấy năm trời, có còn lẻ đâu mà gọi ngông như thế...!”

Ông Huyện cười khì, tay vỗ lên mông vợ như người ta đét mông trẻ nhỏ. “Thế quan bà vẫn căm cái đôi chữ hai đứa ấy à? Vậy theo quan bà, họ phải gọi gì mới đúng ạ?”

“Đôi cẩu nam nữ.”

Thế là người ta lại nghe ông Huyện hềnh hệch cười to, vừa cười vừa ngâm thế này:

“Thói gì thói lạ gì đâu

Rủa đơn chẳng chịu, quyết cầu rủa đôi

Người ơi đũa phải có đôi

Dầu nhơ, dầu mốc, phải đôi mới vừa!”

Ấy chết, rặt một đôi không biết xấu hổ...!

Nắng đổ lên thềm, trăng vương trên ngọn, năm lại tháng qua, đôi cẩu nam nữ này vẫn không biết xấu hổ như vậy đấy, riết rồi họ cũng mệt mỏi với cái nghiệp mắng người cứu nước của mình. Thôi thì chẳng rủa sả chúng nó hằng ngày làm chi cho nhọc, cứ giữ lại đấy dạy cho đám trẻ con để mai sau chúng lớn thành người chính nghĩa là được rồi.

Cứ rồi xem, nanh nọc lắm vào cũng có giời trừng trị, lấy nhau non sáu năm rồi mà chẳng có nổi một mụn con. Đấy, là giời cao có mắt.

Ngày chải tóc thấy lược vương vài sợi bạc, ông Huyện thở dài hỏi vợ. “Tôi đã già rồi, mai sau chắc sẽ đi trước nàng một quãng, ấy mà chẳng thể để lại cho nàng một đứa con vui cảnh xế chiều, nàng có oán tôi chăng?”

“Ấy cũng là ý của em, sao lại oán chàng cho được?” bà Huyện buồn bã lắc đầu, cầm bát chè dâng lên cho chồng, đoạn phóng mắt ra cảnh vườn xơ xác mà than.

“Thời buổi đói kém, lắm nạn lưu vong, làm con của bậc trung lương còn nhiều đường cực khổ, huống hồ là con của thằng Huyện, con hầu. Sinh nó ra rồi lại bắt nó gánh tiếng nhơ con nhà đĩ đào bán nước, bị người ta khinh rủa cả đời, có cha mẹ nào lại nhẫn tâm như thế? Thôi thì đành vậy, chàng à.”

Ông siết tay nàng, sẽ run giọng ngậm ngùi.

“Chờ ngày đất nước thanh bình, ta lại sinh, nàng nhé...!”

Ông và nàng đều biết, đấy chẳng qua chỉ là lời tự an ủi mà thôi...

Hóa ra, cái tội không-con, đều là do miệng đời; chứ Trời có mắt hay không... cũng nào buồn nhìn xuống?

Suốt mấy năm nay, cái nghiệp quan tham của ông ngày càng khó gánh. Vì dân bị xâm lăng thì cứ như bãi đất màu mỡ vào tay kẻ dở việc ruộng đồng. Cứ bòn, cứ mót, cứ thu hoạch mà chẳng biết bón phân, chăm bẵm... thì màu mỡ cỡ nào cũng đến hồi cạn kiệt.

Dù triều đình Đại Minh sợ loạn phản nên cũng có khi bày đặt ra những chính sách vỗ về dân, song đó là chính sách nổi của triều đình, chứ còn chính sách chìm của bọn quan chức Giao Chỉ thì không như vậy.

Thế cái thứ chính sách chìm này là gì ư? Là chỗ nào có của cứ nhiệt tình vét, chỗ nào không của thì nhiệt tình khoét, khoét đến tận xương tủy thì thôi.

Bọn quan hoạn được điều sang ra sức ép dân khai thác nào ngọc trai, nào vàng bạc, tài nguyên quý hiếm để dâng về cho vua chúng. Mà những của ấy thì ở đâu ra? Thì cũng là moi gan, móc ruột Đại Việt mà ra cả thôi!

Vua chúng năm nào cũng chiếu xuống ôi chao là nhân từ hòa ái, quay lưng đã cử một bầy quỷ quái sang cướp bóc dân ta. Bọn chó săn tham cho vua chúng bao nhiêu, lại bắt ép dân địa phương cúng vào mõm chúng bấy nhiêu, có khi còn hơn cả thế! “Thượng bất chính, hạ tắc loạn”29, thói đời xưa nay đã vậy.

Cũng bởi sự ngày càng nhiễu nhương, ông Huyện biết mình cần có thêm người hỗ trợ. Tin vào con mắt của mình, ông dò xét nhiều lần rồi quyết định chiêu dụ một vị Phó Tuần kiểm30 trong vùng. Anh này là cháu cụ Tỉnh xóm Đông, con người nhiệt huyết có thừa, đã nhiều lần rình thả phu dịch chạy trốn, một hôm bị ông canh bắt ngay tại trận.

Thế là ông thóp anh về chạy việc cho mình. Anh chàng ban đầu chỉ theo lệnh ông làm những việc vặt như thả phu hay chuốc say bọn lính tuần kiểm, lâu dần đâm nghiện, chả cần ép uổng cũng đâm đầu dự cuộc. Thời loạn mà, cứ trông mãi những cảnh đau thương, máu anh hùng nó cứ xông lên óc, nhịn thế nào được?

Có đôi khi, chính ông cũng không cản được cái tráng chí cuồn cuộn của con người trẻ tuổi đó; thì thôi, cứ mặc đời nuôi lớn hùng tâm anh tài. Mảnh đất này, cần những con người như vậy.

Lần ấy, anh chàng đòi theo thuyền bảo hộ đám cống sinh trốn xuống Giao Châu, ông đã toan can rồi lại thôi, nghĩ bụng dẫu gì cậu chàng có người thầy đương làm giáo quan trên trường Nho học, nhỡ có bị bắt, bọn nhà Minh hẳn cũng không dám giết càn.

Vụ chiêm31 năm ấy, nước sông Thao đưa xác chàng trai nhiệt huyết dạt về bờ bãi của làng.

Ôi thì dâu bể dọc ngang, cứ là con thì đất mẹ cũng phải cố mà mang về cho được. Đất Giao Châu ấy là ở hạ nguồn, chẳng có bàn tay thần linh thì cớ gì lại dạt ngược dòng lên được trên đây? Xác anh ta sình lên, trắng hếu, ruột bị đao đâm xuyên phòi cả ra ngoài, thế mà chúng vẫn còn nguyên, không hề bị cá rỉa.

Trời ơi, là cá đưa anh ta về đây chăng? Về với làng, với xóm chăng? Hay là chính anh ta tự bơi ngược về? Mệnh của những người yêu quê, có phải đều thành như thế?

Đêm ấy, bà Huyện thấy chồng mình mò mẫm lên mỏm đá sau làng, nơi ông cụ Tỉnh hay ngồi nhìn non nước rồi ngâm ca ngớ ngẩn. Ông quỳ xuống trước con người điên dại ấy, nắm lấy đôi bàn tay gầy guộc khô héo úp trán mình lên, òa khóc.

“Con lạy cụ, cụ tha cho con, đều vì con, tất cả đều vì con...!”

Dù biết ông xin tội thế này với người điên hay đi nói dại là rất dễ bị lộ, Trinh cũng không cản chồng, chỉ lặng lẽ đến bên cạnh quỳ theo. Đời này, có những nỗi đau mà ngay cả cái chết cũng không đàn áp được, nó bắt buộc phải được xóc lên, được moi ra, được xỏ xiên, nhấm nháp. Nếu không, chắc là điên mất.

Gió thổi qua đỉnh đồi, mang theo tiếng cú kêu và hương đất nồng nàn của trời đêm tháng Sáu. Cụ Tỉnh đang hát thì chợt thinh bặt, cúi đầu xuống nhìn gã quan huyện đang sụp khóc như một đứa trẻ lạc loài. Ôi là lạ, mắt của cái con người già cỗi, héo hon ấy, sao mà trong như thế...?

“Thời này, cứ ai chết cũng khóc như thế, chắc là anh mù sớm, anh Ba ạ.”

Cả ông Huyện và Trinh đều sững sờ, đồng loạt ngẩng đầu nhìn ông cụ.

“Anh chị thấy gì không?” cụ Tỉnh ngây thơ cười, vươn tay chỉ về phía những đồng lúa chiêm sắp bị nước lũ nhận chìm bên dưới, nói. “Lúa đều sắp trổ hoa rồi.”

Vợ chồng ngơ ngác. Cụ nhìn họ, dường như dỗi, lắc đầu vơ gậy đứng lên.

“Nói với các anh chị thật là phí lời! Thôi, anh chị để đấy, chờ thác xuống dưới gặp thằng cháu tôi, nó cắt nghĩa cho nghe về cái giống lúa chiêm. Càng là lụt lội, càng là kiên cường...”

Hai vợ chồng nhìn nhau, đồng loạt phủi áo đứng dậy chạy theo đỡ tay ông cụ.

Ừ, mảnh đất này còn bọn giặc Minh ngày nào, có ai mà không phải khóc đến lòa? Và rồi, lúa nào mà chẳng có lúc ra hoa? Thời buổi đảo điên, có lẽ kẻ điên mới là người tỉnh nhất.

Vài tháng sau, ông Huyện và vợ mình dù đã vắt kiệt óc, cũng không thể ngăn nạn đói xảy ra, chỉ có thể cắt xén vài món sưu vặt vãnh, khiến cho ít ra ở Thanh Ba, người ta không đói như các nơi khác.

Nhưng đói, thì vẫn cứ đói mà thôi.

Sự là năm đó, đồng chiêm dù đã trổ hoa, lại bị vệ quân vơ vét làm quân lương tất. Lúa gạo không còn, người ta bắt đầu từ đói chuyển sang một giai đoạn khác khốn nạn hơn, chết.

Các cụ già là lớp ra đi đầu tiên, một cách tình nguyện. Già rồi, còn tranh ăn với lũ trẻ làm gì, chết đi để cháu con còn được sống. Nhìn cái xác già đong đưa dưới thòng lọng, ông Huyện siết tay vợ mình đến gần gãy vụn.

Có hai đứa bé khóc nháo trong sân, bà mẹ vội vàng nhào đến ôm chầm chúng nó, nước mắt sụt sùi điên dại hát to; con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc cướp ngày là quan...

Đẩy mụ vợ và hai con vào nhà, gã nông dân tái mặt quỳ sụp xuống. “Con lạy quan ông, vợ con nó đau thầy chết nên hát dại, quan ông đừng trách nó...!”

Ông Huyện không nói gì, lặng lẽ quay đầu ra khỏi nhà đó, tay vẫn nắm chặt lấy tay vợ mình, vẳng lại phía sau vẫn là tiếng người đàn bà than mãi câu hát, cướp ngày là quan, cướp ngày là quan...

“Cướp ngày là quan, cũng đã đến lúc rồi, chàng nhỉ?” bà Huyện sẽ hỏi.

Ông Huyện sững người, giương đôi mắt hồng pha giữa ngạc nhiên và cảm kích nhìn nàng, ấy rồi đằm xuống thành loại cảm tình sâu nặng. Ông nhoẻn miệng cười.

“Nàng vẫn hiểu quan như vậy, vợ ơi...”

Thanh Hóa là đất sinh Vua32

Thanh Ba là đất xin thua thói làng!

Thua son, thua sắt, thua vàng

Thua ông quan huyện, thua nàng hầu con.

Chú thích:

[28] Ngũ: đơn vị đo lường thời cổ ở Việt Nam. 1 ngũ bằng độ 2 mét.

[29] Người trên mà làm bậy thì kẻ dưới tất sẽ làm càn, làm loạn.

[30] Phó Tuần kiểm: một chức quan coi sóc cửa khẩu đường thủy, hàm tòng cửu phẩm.

[31] Vụ chiêm: vụ lúa chiêm, là lúa gieo cấy ở miền Bắc Việt Nam vào đầu mùa lạnh, khô và thu hoạch vào đầu mùa nóng, mưa nhiều.

[32] Thanh Hóa là quê của nhiều đời vua chúa, tiêu biểu nhất là Lê Lợi.