Ngoại truyện II Thái Bình
“‘Thái bình’ nghĩa là gì hở thầy?”
“Là vớt lục bình về thái cho lợn ăn đấy con.”
Và đấy, là câu cắt nghĩa cái danh tự của cô Cả nhà này.
Tên đầy đủ của nàng là Đinh Thái Bình. Người ta nói, cô Bình nhà thầy Đồ Ông chính là điềm lành giời ban. Lại chả? Giặc vừa hàng, tân đế đăng ngôi chưa được nửa năm, nàng Bình nhà ta đã hăng hái chui ra khỏi bụng u đặng mà đón gió.
Bảo đón gió, là gió của cái ông thầy gàn dở nhà nàng. Rõ ràng, con gái sinh ra thì nên là hòn châu, hòn ngọc của thầy, Bình lại còn là điềm lành của huyện, thế mà cái ông cụ gàn dở lại cứ đi ganh vớ vẩn với nàng, từ nhỏ cho đến lớn luôn!
Mà ganh cũng ra dân lành nghề lắm ấy, còn biết ganh lặn ganh chìm, thâm tàng bất lộ, đến độ cả làng chẳng ai hay! Thậm chí, người ta nhìn vào, còn bảo nhà Đồ Ông này nuông con quá thể, cứ mà chiều như chiều vong ấy!
Nuông chiều gì mà chọn cái thứ lợn ăn đặt tên cho con chứ, rõ chán!
Nào có ai hay, đằng sau cái dáng vẻ thương con như mạng ấy, Đồ Ông luôn muốn gả quách Bình đi thôi. Nhỏ lớn cứ mỗi lần rượu vào, ông lại vỗ đầu con gái dịu dàng thúc giục.
“Chị Bình lớn nhanh đi nhỉ, để còn lấy chồng mà đeo mà bám. U chị già rồi, chăm con mọn cực quá đi thôi...!”
Những lúc ấy, Bình chỉ còn biết ngoan ngoãn cúi đầu, dù trong lòng thì thầm dè bỉu. Ô hay, u già bao giờ? Có thầy già thôi ý!
Thế rồi nghĩ sao đó, ông sẽ lại lắc đầu nói chữa. “Không, không. Phải là lấy thằng nào bám theo chị ấy...!”
Bình chớp mắt, cảm động dâng trào.
“Để nó còn về đây ở rể, sau này hầu hạ thầy u chị về già.”
“…”
Lỡ dâng rồi, có thể tràn ra nhận chìm ông cụ này luôn được không...?
Nghĩ hỗn vẩn vơ thế thôi, chứ Bình thương và kính thầy mình lắm. Bởi nàng biết, thời trai trẻ ông đã sống uất ức thế nào, nhưng lại vẻ vang ra sao, đều là người làng kể cho nàng nghe cả.
Lên mười tuổi, vì được sinh trưởng trong cái nôi Nho học, Bình cũng được tắm tưới chút đạo làm người của các bậc văn nhân, mở miệng là ra ngọc ra hoa, cả làng ai nấy đều phải gật gù khen ngợi.
“Tương lai cái Bình sẽ là tài nữ nhu hòa, đoan trang hệt như u nó cho xem!”
Phải tội, chỉ có ba người nhà họ biết rõ, Bình là rập nết ông Đồ cơ.
Chỉ là, nàng đủ khôn để biết giấu che cái đáo để, cái đanh đá kia vào bụng, không đem rêu rao khắp làng khắp tổng như lão thầy nhà mình.
Ừ thì nết người được u bình là giống thầy thế thôi, Bình lại không sao hiểu nổi những phép đối nhân lạ lùng của thầy. Đảo mắt ngó cả cái vùng này, có ai làm thầy đồ mà gàn dở như thầy nàng không?
Lễ bái sư lúc nào cũng đòi những mươi con gà, còn bắt con cái nhà người ta lúc thì ra ruộng thay trâu cày mươi sào đất, khi lại luộc kén, quay tơ, dệt sao cho đủ dăm ba thước lụa, ngày Tết ngày hội còn nọc các anh ra cắt cử đi mổ lợn, giết trâu.
Tội thay cho cả đám mày râu, tưởng là cắp sách đến trường thì ra người nho nhã, ai ngờ toàn bị thầy đồ ép thành dáng dấp mấy gã nông dân.
Nhưng mà người làng họ có oán, có giận, cũng nào có chọn lựa khác? Phần là họ kính ông, phần lại vì các ông có chữ khác đều bổ lên kinh đầu vào nhà quan hết rồi, nghe đâu là tân đế đang buổi khai triều vô cùng khát tài, các ông sĩ đều muốn cống hiến một phần sức để kinh bang tế thế40.
Nên là thôi, bỏ ruộng lên kinh thôi. Để lại làng vài cụ đồ già lẩn thẩn và ông huyện tham một thời.
Ừ thì thôi, kể ra Đồ Ông là người nhân nghĩa, tài học cũng thuộc bậc nhất đẳng khi xưa, có chút gàn bướng thì đã là gì. Chẳng là, họ đoán vị ấy nết người khiêm nhường, không quen được dân tâng bốc, mới tỏ ra ương ngạnh thế thôi. Cái giống ác mồm lành tâm, cái phường rộng lòng hẹp tiếng, tưởng còn lừa họ được chắc? Họ đều biết tỏng ông rồi!
Chỉ có Bình là rằng, họ toàn biết trật lất.
Phải mà họ động đến u nàng xem, bụng dạ thầy nàng chắc thu lại còn bằng hạt đậu! Ở đấy mà lòng rộng với cả tâm lành! Có lúc nghĩ dại, Bình còn cho rằng ông muốn giành luôn cái phận làm con của nàng cơ, để mà u càng thương càng chiều ấy!
Đem so với các bậc hiền nhân trong sách vở, thầy nàng đúng là khác quá cơ...
Có một năm, Bình đã không nén được tò mò, bèn lân la dò hỏi.
“Sao thầy lại bắt các anh ấy kéo cày, gặt lúa, dệt lụa với cả mổ trâu, mổ gà vậy ạ? Hôm nay con vừa thấy sách có đề rằng, trong “Tứ dân41“ thì “Kẻ sĩ42“ đứng đầu, sau mới đến người nông dân cày ruộng. Thầy bắt các anh ôm lấy con chữ thanh cao mà giẫm vào bùn lầy, các anh ấy oán thầy thì sao ạ?”
Đồ Ông đương lúc dở tay cào thóc phơi ngoài sân, nghe con gái nói thế thì ngạc nhiên lắm, gác cào đấy dừng tay vào nghỉ. Đón lấy bát mơ Bình đưa, ông uống cạn rồi ngồi xuống thềm nhà, tay vươn ra xoa đầu con trẻ, dùng một vẻ mặt đăm chiêu, thấu đời bình thản dạy chuyện.
“Thầy mà không thế, các anh ấy thi rớt về làng, có cạp đất mà ăn con ạ.”
Bình ngẩn ngơ ngó thầy. Ơ, hóa ra con người ta có thể vừa ác mồm, vừa ung dung như bậc quân tử thế à?
“Các anh ấy đã thi gì đâu ạ...” nàng cảm thấy mình nên thay mặt các anh tìm lại chút danh dự.
“Với sức học cỏn con của cái đám ấy, ngoài vài đứa có chút thiên tư, còn lại đều sẽ rớt rụng như sung cả thôi.”
“…”
“Lúc đấy, về nhà thì còn biết làm gì? Ễnh bụng ra cho các chị nhà nuôi? Lo cả đường lùi cho môn đệ, thầy chị thế là có tâm nhất làng rồi. Mà chúng nó than với chị đấy à? Chờ đấy, mai thầy sẽ bắt luồn khố quất roi cảnh tỉnh cả bọn!”
“Thầy ơi...” Bình níu tay áo thầy, mắt láy lên van nài, miệng tha thiết khuyên giải. “Thầy còn muốn gả con, tốt nhất việc này cứ giữ trong lòng thôi, không cần cảnh tỉnh ai đâu, thầy nhé...!”
Rồi thì xong cái sự gàn, ta bàn sang cái sự bướng. Người đâu mà bướng ghê cơ, chả hiểu vì cái lẽ gì mà chấp nhất với con chữ ghê gớm! Nói đâu xa, có đợt u tập cho Bình nấu cơm, Bình canh lửa thế nào mà để nó khê cả, thế là hoảng loạn chạy đi tìm u la toáng lên; u ơi cơm khê mất rồi, khê rồi!
Chả hiểu ra sao, giữa đường liền bị thầy túm cổ lôi lại.
“Không được gọi là ‘khê’, phải kêu là ‘khét’, chị Cả rõ chửa?”
Bình chả rõ cái cóc khô gì, nhưng vẫn một hai vâng dạ. Lão thầy nhà nàng sao kỵ từ này thế nhở? Đừng bảo là cơm khê, cháo khét, đến cả giọng bị khàn, thầy nàng cũng không cho bảo là khê nốt, ô hay! Hỏi u thì u cũng chỉ cười hiền lành rồi nhũn nhặn bảo.
“Chắc thầy chị kiêng húy ai trong họ thôi, mặc ông ấy.”
Nhưng Bình là Bình thấy nó nặng lắm rồi, không mặc kệ được đâu!
Số là, lần đấy có anh học trò, nghe bảo cũng tài tử chi đó ở vùng ngoài đến thăm. Anh ta thưa rằng vốn dĩ mến tài thầy Đồ Ông, mới nhọc công sang dự cuộc bình văn của học trò làng này.
Hôm bình văn ấy, anh ta ra bộ tự tin lắm, cầm bài lên nhờ thầy Bình khảo giúp. Thầy Bình gật gù trông văn của anh trò hồi lâu, lát sau hỏi han thêm vài câu rồi hạ bút phê xuống một chữ “bình”43.
Ừ thì nghĩa là bảo bài anh này cũng chỉ bình bình, kha khá thôi ấy. Anh ta uất lắm, suýt đã trớ máu tại chỗ, phải nhờ các đồng học dìu lên võng khênh về làng.
Sự này xảy ra, tất cả đều lâm vào trầm tư suy nghĩ. Thật thì hôm bình văn ấy còn có các cụ đồ danh vọng khác dự cuộc. Họ cũng từng đọc qua bài văn của anh này và đều cho đấy là tuyệt tác, xứng đáng lấy mấy cái “ưu” cơ. Lại chẳng hiểu vì cơn cớ gì mà Đồ Ông lại khăng khăng hạ đi một bậc.
Ôi thì người ta là bậc nhân nghĩa cao thâm, làm gì cũng đều có lý riêng cả, họ cũng chẳng nên phản đối chi vội. Quả nhiên, về sau có người bỗng vỗ đùi vỡ ra; thì là Đồ Ông vì mến tài hậu bối, nên mới có ý rèn giũa mà thôi!
Ông sợ anh trò ấy cậy giỏi sinh kiêu, mới chịu tiếng ác phế đi một bậc hòng cảnh tỉnh người trẻ! Ôi chao, chịu oan làm thiện, lại chẳng là cái bài cũ rích của ông Huyện nhà này...?
Thấy người làng đều xúm vào tỏ vẻ ta-đây-biết-tỏng-rồi, sau còn xuýt xoa tâng bốc hết lời, Bình cứ giữ đấy, chờ tối đến học lại với thầy, sau còn giương đôi mắt long lanh lên hỏi, có thật không ạ?
“Thật gì?” ông trợn mắt, xua tay. “Thầy chị không rỗi hơi như thế.”
“Ơ thế sao thầy lại phê ‘bình’ vào bài anh ấy ạ?”
“Vì nó gì không lấy, lại lấy ‘Khê’ làm tên hiệu, còn đề cả lên văn bài.”
Cô Bình nhà ta thế là đơ luôn. Ơ sao lại căm cái chứ “khê” bất chấp cuộc đời luôn ấy nhở? Năm đó, có ông bác quen thân trên kinh về chơi, khi cuộc chuyện đến hồi nóng nảy, bác ấy tự xưng cả húy của mình, Bình mới vỡ ra cơ sự.
“Sao bác lại cứ cứng cổ thế này hở Văn Trung? Vi Khê tôi tự thấy bản thân đã rất nhẫn nại cầu hiền, bao năm rồi dù nhiều phen bị cự tuyệt, vẫn gắng gượng lết về làng khuyên bảo, lòng thành này tự thấy còn hơn cả Hán Chiêu Liệt Đế thời Tam Quốc!
‘Tam cố thảo lư’44, tôi đây dễ chừng đã hơn ba mươi bận! Chí làm trai là nên đặt để ở non sông, kẻ có tài mà cứ chui rúc nơi xó xỉnh bo bo giữ mình, rõ ràng có thể kinh bang tế thế, lại chẳng chịu ra làm quan giúp nước!
Bác Văn Trung à, bác bảo tôi nghe, sao lại đớn thế hả bác? Hùng tâm tráng chí cái thuở ẩn mình hầu giặc chờ ngày quật khởi đi đâu mất rồi?”
Bình thấy thầy bị mắng mà tức ghê lắm, đã toan bay ra xô ông bác nọ. Gì chứ, cái lão này một năm về đây được mấy lần đem văn thư sang biếu, bèn tự cho là ông tổ nhà này rồi đấy phỏng?
Nhưng Bình chưa kịp làm gì, đã thấy thầy mình khẽ bưng chè lên uống, thái độ bình đạm, khác hẳn vẻ phởn phơ thường ngày.
“Tôi hầu giặc, cũng chỉ là muốn bảo vệ dân, quan ngài à. Tôi nào có lòng muốn kinh bang tế thế, lại càng chẳng có cái tài tranh đấu quan quyền. Ừ, cũng là cái tài mà ngài nghĩ tôi có, mới về đây hết lòng chiêu dụ đấy.”
Đang lúc nọc dâng lên cổ, ông bác tên Khê chồm người bật dậy, hùng hổ quát hỏi. “Bác nói thế là sao? Lẽ nào bác chối mình có tài trị nước? Vậy thì mấy thứ ngày ngày bác dạy cho đám trò mình là gì?”
“Tôi dạy chúng là đạo giúp dân, không phải là đạo trị quốc, càng không là đạo quan trường. Quan ngài à, bỏ đi, tôi không lên kinh đâu.”
Bác ta tức đến cười lên khô khốc. “Rõ ràng có thể làm một danh nhân, rõ ràng có thể lưu danh sử sách, thế mà bác lại không dám! Bác hèn đến thế cơ à? Bác sợ cái gì? Sợ cái con đàn bà đang buông rèm thao túng triều cương kia sao? Bác có biết trong triều đã loạn đến thế nào rồi không? Ấu chúa còn non, gà mái gáy sáng, bốn trăm mạng người máu chảy thành dòng...”
“Ấy chết!” thầy Bình bật dậy đưa tay bịt mồm ông bạn. “Bác đừng trống mồm dại miệng, lại hại đến vợ con tôi!”
Nghe đến đây, ông bác mới sực tỉnh, thả người ngồi phịch xuống phản, gương mặt đờ đẫn khô héo như quả hồng phơi. Đồ Ông thấy thế cũng khoanh chân ngồi lại, rót một bát chè khác đẩy đến trước mặt bạn. Đoạn ông nhìn ra ngoài sân, phe phẩy quạt cười xòa.
“Triều đình loạn đến độ nào, ngoài kia chẳng phải vẫn cứ thái bình hay sao? Đừng cứ chăm chăm vào hận thù trước mắt, lùi một bước, nhìn cho rõ đại cục rồi hãy liệu bề hành xử bác Cả à.”
Bẵng đi hồi lâu, ông bác đương cúi đầu ủ rũ đột nhiên lên tiếng.
“Bác cam chịu sống hèn như này, có phải là vì chị nhà và cái Bình níu chân...?”
Đến đây thì thầy Bình phát cáu, ông đập tay lên trà kỷ rồi hất cả bát chè lạnh vào mặt quan ông. Đây là lần đầu tiên Bình thấy ông cáu tiết như vậy. Đợt biết nàng vì bẫy trai mà chịu hứng nước sôi, ông vẫn chưa bực bằng thế. Thật, ông còn xách cả gậy đánh đuổi bạn già ra tận ngõ, trông theo dáng người ta rồi ong ỏng mắng với theo rằng:
“Tiên sư cái thằng láo lếu! Cái quân lộn lòng! Mày thử nói động vào vợ con ông nữa xem? Xem ông có phang bể đầu mày không? Níu, níu cái chó! Đi mà sống đời sang quý nhà mày! Đừng có đến nhà thằng hèn này nữa, nhé!”
Ấy nhưng, cái thằng sống-sang ấy, sang năm vẫn lại quay về bái phỏng thằng hèn, và rồi cả hai lại tiếp cuộc đầu thân đuôi thù như biết bao năm nay...
Bình không ngạc nhiên mấy khi hai ông kết thúc trong cảnh đầu u trán mẻ, năm nào mà chả vậy? Được vài chén vào, thầy nàng lại chẳng vác gậy đuổi đánh người ta. Chỉ là lần này, dường như nàng đã hiểu ra nguồn cơn cơ sự.
Hóa ra thầy nàng căm chữ “khê”, là vì ghét cái lão này. Mà ghét lão này, là vì bị nói trúng tim đen, nên đâm thẹn!
U và Bình, có thật là đang níu chân thầy...?
Nghĩ mãi không thấy vơi bớt cơn nao lòng, nàng đem mọi việc tỏ bày với u, còn sụt sịt mếu hỏi.
“U ơi, có phải con đang làm hòn đá ngáng đường thăng tiến của thầy? Bác Cả ấy nói rất đúng, chí làm trai là phải cáng đáng non sông, để làm một danh nhân, để lưu danh sử sách! Có đâu mà phải chịu sống hèn mọn ở chốn điền viên như thầy...?
Con thấy buồn lắm u ơi, hay u bảo thầy con chịu gả chồng rồi, để chồng lo cho con, thầy cứ việc dẫn u lên kinh sống đời sang quý, đừng vì chút chuyện mọn mà bỏ lỡ cơ hội làm một danh nhân giúp đời, u nhé...?”
Bà Đồ nghe lời này xong, hơi thẫn ra rồi bật cười. Nhưng bà không theo thói thường mà ôn tồn giảng giải, chỉ vuốt đầu con gái rồi xui nhanh rửa mặt đi ngủ. Cái sự này là do thầy nó mà ra, phải để thầy nó lo mà thu ghém vậy.
Đến chiều hôm sau, chờ hết tiết học, quả nhiên Đồ Ông cho gọi con gái cùng ra mỏm đá trên đồi, hẳn là muốn mượn cái tình trong cảnh để dễ bề dạy chuyện.
Đứng xoay người ngược lại ráng chiều, ông vung tay chỉ ra cảnh trí bạt ngàn ruộng nương ở bên dưới; như một văn nhân đăng đàn bình thơ, ông chậm rãi vào đề.
“Chị Bình có biết, tên mình có nghĩa gì không?”
“Thức ăn lợn ạ.”
Đồ Ông suýt nữa đã trượt chân té nhào xuống vực.
“Đó là thầy trêu chị lúc còn nhỏ tí ti, nay đã lớn ngồng thế rồi, đọc bao nhiêu sách mà vẫn tin ngông thế phỏng?” ông nhíu mày quở trách.
Bình đảo mắt qua lại, má hơi phồng ra chiều oan ức. “Thì con cũng biết ‘thái bình’ là cảnh nhà an yên đấy ạ, nhưng kia cũng là lời thầy mà. Con nào có biết thầy thật hay đùa? Cả văn bài của người ta, thầy ghét thì thầy cứ hạ điểm, đến là nghĩa của cái tên con...!”
Đồ Ông ngửa đầu nhìn trời than nhẹ, đoạn bỏ dở dáng đứng của kẻ thâm sâu. Như một lão nhà nông nhàn rỗi, ông uể oải ngồi xổm xuống, ngoắc tay gọi con gái đến châu đầu dạy chuyện.
“Thầy đã nghe u chị bảo rồi, sợ chị nghĩ sai nghĩ dại, nên mới gọi ra đây làm rõ. Nghe kỹ con nhé, muốn tạo phúc cho dân, không nhất thiết phải vào triều. Yêu nước, không nhất thiết phải cầm đao đánh giặc.
Người làm quan, làm lính, họ có những cái rào không thể vượt qua, những cái khó không sao tránh khỏi, không tự do mặc sức như chúng ta con ạ. Thầy là thầy yêu cái sự tự do mặc sức ấy, liên quan gì đến u con nhà chị?”
Bình hơi cúi đầu, ôm gối lí nhí thưa. “Nhưng quan ngài lại nói...”
“Thằng đó thì biết cái cóc gì!” ông gằn giọng cắt ngang. “Nó không có vợ là u chị, không có con là chị, nó biết quái thế nào tôi nghĩ ra sao?”
Thấy con gái gằm mặt muốn khóc, Đồ Ông ghìm lại cơn tức trong lòng, thở dài xoa đầu con trẻ.
“Với lại, ai cũng đòi làm việc lớn, phần nhỏ ai sẽ lo toan? Ai cũng bổ đi thi Hương, thi Hội để làm người sang, còn ai ở nhà cày cấy làm ra hạt gạo cho mà ăn, quay ra sợi tơ, miếng vải cho mà mặc?
Ai cũng muốn thành ngọn cây ngửa mặt đón nắng trời, còn ai rẽ đất đâm sâu chăm đời làm rễ? Sống làm người giữa trần thế, nếu ai cũng sử sách lưu danh, vậy còn ai seo giấy cho đóng thành sách nữa hả con?”
“Tứ dân kẻ sĩ đứng đầu, là do tiền nhân vì muốn quản chế tứ phương mà đề ra như thế. Hậu nhân học theo Thánh hiền là không sai, nhưng cũng phải biết tùy thế mà nhìn, tùy thời mà xét.
Sĩ, nông, công, thương, vốn dĩ là để tương hỗ cho nhau, không nên chia cấp bậc làm gì mà sinh ra nhiều cách nghĩ sai quấy. Thầy cho các anh con làm ruộng, quay tơ... cũng đều vì lẽ đó. Nhân sinh bách nghệ, đều là đáng quý cả.”
Nói đến đây, ông bật cười, đầu ngẩng cao ra chiều hãnh diện lắm.
“Có thể, làm một cây đa che trời là rất oai, nhưng trồng hẳn cả rừng thông rợp lá, không phải là càng sướng khoái hơn cả? Thầy thà làm kẻ trồng cây, chứ không cần thân này thành bóng cả của ai con à.”
Nói đến đây, ông xoay đầu nhìn ra khoảng trời đỏ rực, mỉm cười.
“Có đi qua chông mới quý đường bằng, có sống gằm đầu câm lặng, mới biết dõng dạc ngẩng cao là điều trân quý. Trên cái mảnh đất chịu lắm đau thương, đày đọa này; thái bình chính là điều đẹp nhất.
Và thái bình, không phải chỉ do vua quan ban cho, triều đình đem lại, mà còn có kẻ nông dân sớm hôm cày bừa, người buôn gạo băng đèo vượt núi, người thợ đúc chịu bao nóng bức đổ ra nồi để đồ xôi... Đấy, là mỗi người dân thường chúng ta, con gái à.”
Hôm sau, trời còn chưa rạng, nhân lúc thầy cùng u vẫn đang say giấc, Bình lẻn khỏi nhà chạy lên mỏm đá sau làng.
Bình minh trải dài trên ruộng nương vời vợi, lác đác giữa thảm mạ mới là những cái bóng cong vòng lội ruộng cấy cày. Lòng nàng, đột nhiên cảm thấy bồi hồi khó tả.
Ừ đúng, thái bình đúng là đẹp thật.
Thái bình cho những đứa trẻ được bình an ra đời, thái bình cho thầy u chúng thảnh thơi lo chuyện gồng gánh, thái bình phủ xanh núi cốt, thái bình tẩy sạch máu sông, thái bình cho dân thường bọn họ cái quyền được sống. Sống thành danh nhân của chính cuộc đời mình.
Những danh nhân lặng thinh cần chi tên lưu sử, chỉ có bao tấm lưng còng mà hồn thiêng đất nước, thay mặt con chữ, mãi mãi ghi ơn.
Thái bình, chính là bình minh đang lớn trên núi non Đại Việt.
Thái Bình, là một cái tên thật tuyệt vời.
Chú thích:
[40] Kinh bang tế thế: dựng nước giúp đời.
[41] Tứ dân: Tứ dân là cách gọi bốn giai cấp chính trong xã hội xưa dưới các triều đại quân chủ, tiêu biểu như ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam... Bốn giai cấp đó là: Sĩ, Nông, Công, Thương.
[42] Kẻ sĩ: tầng lớp trí thức trong xã hội cổ đại và xã hội phong kiến ở phương Đông. Đứng đầu trong hàng Tứ dân (Sĩ, Nông, Công, Thương).
[43]Bình: khá, trong hệ thống phê điểm để xếp hạng (ưu, bình, thứ, liệt) trong học tập, thi cử
ngày trước.
[44] Tam cố thảo lư: tức “ba lần đến nhà cỏ”, có từ giai thoại Lưu Bị (Hán Chiêu Liệt Đế) ba lần đến nhà chiêu mộ Khổng Minh Gia Cát Lượng. Thành ngữ này thường được dùng để chỉ cách tuyển dụng và đối đãi nhân tài.
HẾT